Tìm hiểu Lời Chúa _ cnmc 03c



CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY _ NĂM C
Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12: Lc 13,1-9
BÀI ĐỌC I: Xh 3,1-8a.13-15
1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp.2 Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi.3 Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? "4 Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê! " Ông thưa: "Dạ, tôi đây! "5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh."6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”
13 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" 14 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."15 Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
ĐÁP CA: Tv 102
Đ. 8a Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.          
1 Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! 2 Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
3 Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi.4 Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
6 Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, 7 mạc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện.
8 Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,Người chậm giận và giàu tình thương, 11 Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
BÀI ĐỌC II: 1Cr 10,1-6.10-12
1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ.2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê.3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng,4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô.5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.
6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt.11 Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này.12 Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 4,17
Chúa nói: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.
TIN MỪNG: Lc 13,1-9
1 Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.2 Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."
6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."

LÀM LÀNH VÀ SÁM HỐI
ĐỂ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG!
Chúa nhật II mùa Chay vừa qua, Đức Giê-su hé mở cho ba môn đệ thấy trước giá trị ơn cứu độ (qua Hiển dung), và sau đó, Chúa giục các ông cùng đi xuống núi với Ngài, để đưa cả nhân loại vào vinh quang ấy. Nhưng ai muốn được vinh quang của ơn cứu độ, họ phải trải qua đau khổ. Do đó, các Bài đọc trong Thánh lễ hôm nay:
-          Nêu lên những nguyên nhân đau khổ.
-          Gây ý thức về giá trị đau khổ.
-          Cách giải quyết vấn đề đau khổ để đạt vinh quang.
I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN ĐAU KHỔ.
Đã là người, ai ai cũng phải hứng chịu đau khổ ít nhất là một trong ba nguyên nhân, và thường là cả ba nguyên nhân gây đau khổ như sau:
            1/ Đau khổ do tội người khác gây nên.
            Cụ thể những người Galilê đang dâng lễ bị tổng trấn Philatô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng (x. Lc 13,1: Tin Mừng).
            2/ Đau khổ do tội mình gây nên.
            Thánh Phao-lô trong Bài đọc II nhắc lại thái độ vô ơn của dân Do-thái trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa vì nhàm chán của ăn nước uống Chúa ban hằng ngày cho họ dùng! Bởi đó họ đòi ông Mô-sê dẫn họ trở lại làm nô lệ Ai-cập, miễn là được ngồi bên niêu thịt (x. Xh 17). Vì tội ấy, Chúa cho rắn trong rừng bò ra cắn chết 23.000 người nội trong một ngày! (x. I Cr 10,1-12: Bài đọc II)
            3/ Đau khổ do thiên nhiên gây nên.
            Đan cử 18 người đang tham quan tháp Si-lô-am, thình lình ngọn tháp sụp đổ chôn sống tất cả trong lòng đất! (x. Lc 13,4: Tin Mừng)
II. Ý THỨC VỀ GIÁ TRỊ ĐAU KHỔ.
            1/ Nếu đau khổ do tội người khác gây nên: Ta biết ác tính của tội luôn mang chiều kích xã hội, nghĩa là nó không chỉ gây tai họa cho người vi phạm mà thôi, mà nhiều khi người vô tội lại phải chuốc lấy hậu qủa khó lường. Cụ thể như vua Pharaon vì ghen tỵ với người Do-thái, thấy họ thành công, nên vua ra lệnh cho các bà đỡ, nếu gặp đàn bà Do-thái sinh con trai thì phải bóp chết ngay, còn con gái thì tha (x. Xh 1,15t); Hoặc vua Hê-rô-đê nghe tin hài nhi nào đó mới sinh ra để làm vua, ông chắc ăn ra lệnh giết tất cả các trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Bê-lem (x. Mt 2), nhưng nếu Chúa không cho phép kẻ ác làm hại người của Chúa, thì “chúng có bầy mưu tính kế thâm độc cũng thất bại! Chúa ngồi trên trời mà cười nhạo chúng” (Tv 2,4).
            Khi ta phải hứng chịu hậu quả do tội người khác gây ra, đó chính là dấu chỉ ta được thông phần đau khổ với Đức Ki-tô, vì Ngài vốn dĩ là Đấng vô tội, nhưng đã gánh lấy tội loài người (x. Ga 1,29). Để ứng nghiệm Lời Thánh Kinh nói: “Lời kẻ thóa mạ Ngài này chính con hứng chịu” (Tv 69/68,10b). Thánh Phao-lô gọi đây là cách ta được cộng tác với đau khổ của Đức Giê-su để làm hoàn tất chương trình cứu độ loài người (x. Cl 1,24).
            2/ Nếu khổ vì tội mình.
            * Có giá trị như một cái thắng, như rào cản không cho phép ta lún sâu vào tội ác. Đan cử: đứa con hoang đường đã phung phí hết tài sản người cha chia cho với bọn đàng điếm, nó lâm vào cảnh đói khổ đến nỗi cám heo cũng không có mà ăn, lúc đó nó mới thức tỉnh trở về với cha (x. Lc 15,11t).
            * Đau khổ bởi tội mình gây ra còn có giá trị giúp ta sống khiêm tốn, như thánh Phao-lô nói: “Để mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã được một cái dằm đâm vào thân xác, một thần sứ satan để nó vả mặt tôi” (2 Cr 12,7).
            3/ Nếu gặp khổ do thiên nhiên, có giá trị giúp ta nhận thức rằng:
                 Không bám víu vào tạo vật mà tôn thờ nó như chúa tể để nương nhờ. Do đó hướng lòng ta chỉ tôn thờ duy một Thiên Chúa, Ngài là Đấng toàn năng đưa ta vào cõi sống hạnh phúc vĩnh hằng. Đan cử như tháp Siloam đè chết 18 người, tâm lý dân gian khi thấy thế, ai cũng nghĩ kẻ bị tháp đè chết là do tội của họ bị Chúa phạt! Đức Giê-su giải thích ngay: “không phải họ có tội hơn người khác mà bị phạt, nhưng nếu người ta không sám hối, thì cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế!” (x. Lc 13, 3-5: Tin Mừng) Thánh Augustin nói: “Bạn đừng sợ cách chết dữ, mà hãy sợ cách sống dữ. Nếu sống lành ắt chết lành, dù cách chết dữ; Nếu sống dữ ắt chết dữ, dù cách chết lành”.
Một vị Giáo sư Đại học hỏi thách sinh viên mình: "Mọi vật hiện hữu đều do Chúa tạo thành?"
Một sinh viên mạnh dạn đáp: "Chính Ngài vậy!" Giáo sư gặng: "Nghĩa là Chúa tạo thành mọi sự?" Sinh viên nọ vẫn: "Vâng ạ!" Giáo sư bèn: "Nếu Chúa tạo thành mọi sự hẳn Chúa cũng đã tạo ra sự dữ, bởi sự dữ (đang) hiện hữu, và theo nguyên tắc muốn biết một người ra sao, cứ nhìn vào việc họ làm - (bởi Chúa đã tạo nên sự dữ) , thì Chúa cũng là sự dữ vậy!" Sinh viên nọ nín thinh trước lập luận ấy. Vị Giáo sư hả hê, "nổ " với đám sinh viên rằng lại một lần nữa, ông ta đã chứng minh được đức tin Kitô giáo chỉ là chuyện hoang đường.
Một sinh viên khác giơ tay: "Giáo sư có thể cho em hỏi một câu?"
- "Xin mời!", Giáo sư đáp.Sinh viên ấy đứng lên: "Thưa Giáo sư, vậy (sự) lạnh có hiện hữu không ạ?"
- "Sao lại không, hỏi hay nhỉ, anh chưa bị lạnh lần nào chắc?". Câu hỏi của chàng sinh viên trẻ làm đám sinh viên còn lại khúc khích.
- Chàng sinh viên ung dung: "Thưa Giáo sư, thật ra lạnh không hiện hữu. Theo các quy luật vật lý, cái được gọi là lạnh chẳng qua là sự thiếu nhiệt lượng (nóng). Ở nhiệt độ ấy mọi vật thể đều trơ và không có phản ứng. Vậy (sự) lạnh không hiện hữu, chúng ta chỉ tạo ra khái niệm ấy để mô tả cảm giác khi chúng ta thiếu nhiệt lượng."
Chàng sinh viên tiếp: "Thưa Giáo sư, bóng tối có hiện hữu?"
-Giáo sư trả lời: "Tất nhiên là có."Chàng sinh viên đáp lại: "E rằng Giáo sư lại lầm, cả bóng tối cũng chẳng hiện hữu. Bóng tối thật ra chỉ là (sự) thiếu ánh sáng. Người ta không thể đo lường bóng tối, nhưng một tia đơn sắc của ánh sáng có thể xuyên vào và làm bóng tối ửng sáng. Điều đó cho biết làm sao người ta có thể xác định độ tối của một không gian nào đó: bằng cách đo (ngược lại) lượng ánh sáng tại chỗ. Đúng không ạ? Vậy bóng tối chỉ là thuật ngữ được con người sử dụng để mô tả trạng thái không có ánh sáng.
Sau cùng chàng sinh viên hỏi vị Giáo sư: "Vậy thưa Thầy, sự dữ hiện hữu chứ?"
Giờ thì đã kém cả quyết, Giáo sư gượng: "Tất nhiên là có, như tôi đã nói. Chúng ta thấy sự dữ hằng ngày, trong chứng cứ thường nhật về xử sự bất nhân giữa người và người, trong vô vàn tội ác và bạo lực khắp thế giới. Những biểu thị ấy là gì, nếu không là sự dữ?"Đáp lại, chàng sinh viên nói: "Xin thưa: sự dữ không hiện hữu, hoặc chí ít cũng chẳng hiện hữu cho chính nó (..or at least it does not exist unto itself).
- Như đã nói về lạnh và bóng tối, sự dữ chỉ là việc thiếu sự hiện diện của Chúa, chỉ là từ ngữ con người tạo ra để diễn tả việc Chúa không ngự đến. Chúa không tạo ra sự dữ. Sự dữ là hậu quả khi Tình Yêu của Chúa không hiện diện trong tim chúng ta, hệt như cơn lạnh ùa đến khi ta không còn hơi ấm, hệt như bóng tối bủa vây khi ta mất đi ánh sáng.
Thưa giáo sư, khi giáo sư dạy học trò muốn tìm diện tích hình tròn, thì phải lấy bán kính nhân với bán kính của hình tròn đó và nhân với 3,1416. Nhưng học trò lại nghĩ rằng làm như thế phức tạp cứ lấy chu vi nhân với đường kính của vòng tròn là có đáp số. Thưa giáo sư đáp số đúng hay sai? Và người khác có quyền lên án giáo sư dạy học trò ngu dốt không biết tính diện tích của vòng tròn không? Thưa giáo sư, sở dĩ có sự dữ, có sai lầm nơi con người cũng chỉ vì người ta không làm đúng với Lời Chúa dạy, thế mà có người lại quy lỗi cho Thiên Chúa, giáo sư nghĩ sao?"
Vị Giáo sư ngồi phịch.
Sau giờ học, vị giáo sư gặp riêng mấy sinh viên hỏi: “Sinh viên lúc nãy đặt câu hỏi với tôi, cậu ta là ai?”
Một sinh viên đáp: “Thưa giáo sư, đó là Albert Einstein” .
            (Ông là người gốc Do-thái, sinh năm 1879, mất năm 1955, là một nhà Vật lý học Bác học lỗi lạc, lưu lạc bên Đức, rồi sau Đệ nhị thế chiến về làm việc ở Mỹ. Einstein là cha đẻ của thuyết tương đối, ông đã canh tân về tư tưởng về bản chất của không gian và thời gian, và đã hình thành căn bản lý thuyết cho việc khai thác nguyên tử năng. Đo những lý giải về hiệu ứng quang điện. Ông được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1921).
Vậy có những tai họa Chúa cho phép nó xảy ra để trở nên dấu chỉ răn dạy kẻ có tội, là cơ hội giúp con người xét mình, mà sám hối tội mình phạm. Đó là cách Chúa huấn luyện con người.
III. CÁCH GIẢI QUYẾT ĐAU KHỔ ĐỂ ĐẠT VINH QUANG.
            1/ Cần có người thủ lãnh can thiệp.
            - Xưa người Do-thái muốn thoát ách nô lệ Ai-cập, cũng như không để rắn cắn, họ phải cần có ông Mô-sê đứng lãnh đạo và bầu cử trước mặt Thiên Chúa (x. Xh 3; Ds 21,4t).
            * Nay tội nhân muốn được yên lành, họ cần phải nhờ Đức Giê-su, cùng Hội Thánh đứng racầu xin Thiên Chúa Cha khoan dung và ban ơn cho tội nhân biết sám hối và làm việc lành như người canh tác vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm để bón tưới cho cây vả đã ba năm không sinh trái! (x. Lc 13,8: Tin Mừng)
            2/ Đừng cậy dựa vào vật chất, nhưng chỉ tin tưởng vào Thiên Chúa.
            Sự thịnh vượng của dân Do-thái đã làm cớ cho bọn Ai-cập ganh ghét, nên bắt người Do-thái làm nô lệ (x. St 1,8t). Thế mà khi họ được giải thoát khỏi nô lệ Ai-cập, họ không biết ơn Chúa đã dùng ông Mô-sê dẫn dắt họ, lúc gặp khổ họ lại muốn ném đá cho ông chết để họ trở lại Ai-cập làm nô lệ!
            Kìa, ông Mô-sê, một tội nhân đang bị Ai-cập truy nã, thế mà bỗng nhiên ông trở thành bậc vĩ nhân, đứng ra lãnh đạo dân Chúa, chống lại cường quốc Ai-cập! Ông Mô-sê nhờ đâu mà được như thế? Nếu không phải là Chúa đòi ông sống nghèo, biết tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Ngài, đến nỗi còn một đôi dép để bảo vệ đôi chân mà Chúa cũng bắt ông phải bỏ ra! Bởi vì ai đến với Chúa, họ chẳng thiếu thốn sự gì, đúng với Danh Thiên Chúa đã mạc khải cho ông: “Ta là Đấng Có!”
            Ông Mô-sê còn trở nên vị thủ lãnh vĩ đại hơn nữa là nhờ ông được phúc đón nhận Lời Chúa ở trong rừng, Thiên Chúa nói chuyện với ông trong ngọn lửa cháy giữa bụi gai, điều này báo trước Thiên Chúa sẽ ban Lời cho ông để truyền lại dân ở trên núi Si-nai, vì trong tiếng Do-Thái, chữ bụi gai cũng na ná từ Si-nai (x. Xh 3,1-15: Bài đọc I).
            Vậy Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sám hối và làm điều lành như cây vả lớn sinh nhiều trái (x. Lc 13,6-7: Tin Mừng). Cụ thể và quan trọng nhất là:
a-   Hãy nghe lời các chủ chăn dẫn dắt ta vào Hội Thánh, như dân Do-thái được ông Mô-sê dẫn về miền đất Hứa, và ông đã nói với dân: “Hãy kêu cầu danh Chúa, từ đời nọ đến đời kia. Thiên Chúa sai tôi đến nói với anh em rằng: Danh Chúa là “Đấng Hiện Hữu”, anh em hãy dùng mà kêu cầu Ngài từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3,13-15: Bài đọc I).
b-     Ta hãy kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô, Ngài thương ta hơn ông Mô-sê. Cụ thể khi dân Do-thái được ông Mô-sê dẫn họ ra khỏi kiếp nô lệ Ai-cập, thay vì tôn thờ Chúa họ đã đúc bò vàng, Chúa nổi giận muốn tiêu diệt họ và ban cho ông Mô-sê lãnh đạo một dân tộc khác lớn hơn, nhưng ông Mô-sê thưa với Chúa: “Làm sao Chúa lại bừng bừng nộ khí với dân như vậy, mà Người đã dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập với sức mạnh lớn lao và cánh tay hùng mạnh? Bọn Ai-cập sẽ rêu rao được rằng: chính bởi manh tâm mà Người đã dẫn chúng ra đi để giết chúng nơi sa mạc và tận diệt chúng khỏi mặt đất? Xin hãy thu hồi nộ khí nóng nảy của Chúa mà hồi lại điều dữ ngăm đe dân Người. Xin hãy nhớ lại Lời Chúa đã hứa với tổ phụ họ: Ta sẽ cho dòng giống ngươi đông như sao trời như cát biển. Bây giờ ước gì Người miễn chấp tội chúng … bằng không xin Người hãy xóa tên tôi đi khỏi Sách Người đã viết” (Xh 32,7-14.32).
Vào thời Thiên Chúa ra tay cứu dân, loài người còn tồi tệ hơn dân Do-thái xưa đúc bò vàng tôn thờ, thế nhưng Chúa Cha đã không diệt ai, mà lại “phó nộp Con Một của Ngài vì chúng ta hết thảy, làm sao Người lại không gia ân vạn sự cho ta làm một với Ngài” (Rm 8,32).
c-      Ta cần được nuôi sống bởi thực hành ý Chúa, như Đức Giê-su đang lúc đói khát, các môn đệ mời Ngài ăn bánh, Ngài trả lời: “Thầy có của ăn rồi, của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Chúng ta cũng được Chúa ban của ăn đặc thù sau khi lãnh Bí tích Thánh Tẩy là hằng ngày được nuôi dưỡng bởi Lời và ơn Chúa trong các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, để được sống sung mãn vì được thông hiệp cùng một sự sống với Thiên Chúa, dù có chết cũng được sống lại vinh hiển như Ngài (x. Ga 6,27-58). Để rồi có khả năng đi phục vụ đồng loại dưới ánh sáng Tin Mừng, như Đức Giê-su thực thi ý Cha trên trời là của ăn làm no thỏa lòng người hơn của ăn vật chất. Vì thế thánh Phao-lô nói: “Tất cả chúng ta cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, xuất phát từ tảng đá là chính Đức Ki-tô. Hơn dân Do-thái, họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ, nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc” (1Cr 10,2-5: Bài đọc II).
Vậy đừng thấy mình còn được sống phây phây, luôn gặp vận hên, còn người khác luôn xui xẻo, khốn khổ, thì tưởng là mình đạo đức tốt lành hơn họ! Thánh Phao-lô cảnh báo: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã!” (1Cr 10,12) Nhưng hãy nhìn điều dữ người khác phải chịu là dấu tra vấn cách sống của mình, mà tiến thân trong lòng tin và đức mến!
Như thế mới được “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103/102,3-4: Đáp ca)
THUỘC LÒNG.
Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã! (1Cr 10,12)