BẠCH CƯ DỊ
TIỂU SỬ VÀ CÔNG
NGHIỆP:
Tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, sinh năm 772 tại Thiểm
tây trong một gia đình trung lưu nhưng tiên sinh được yên ổn học tập. Lên đến 5
tuổi đã bắt đầu thích thơ rồi và từ đó về sau, thơ là món ăn tinh thần “bất ly
thân” của tiên sinh.
27 tuổi, đỗ Tiến sĩ và ra làm quan với chức Hàn lâm viện học sĩ.
Vì tính trực hay can gián nhà ua, phê bình kẻ khác nên tiên sinh cũng bị lắm kẻ
không ưa, dèm pha với nhà vua nên hoạn lộ của tiên sinh cũng không được hanh
thông, lúc thăng, lúc trầm và về già thì lãnh chức Hình bộ Thượng thư.
Tiên sinh theo cả 3 đạo: Khổng, Phật, Lão. Lúc hưu trí, tiên
sinh cùng với vài vị mặc áo trắng chống gậy trúc, ngao du ở Hương sơn nên tiên
sinh mới có biệt hiệu nói trên. Tiên sinh có cất một nhà đọc sách ở Lạc dương,
có hoa, có trúc, có hồ, có hòn non bộ, nuôi thêm một thị nữ trẻ đẹp, múa giỏi,
ca hay. Vừa hưởng thú thanh nhàn, vừa làm thơ, tiên sinh để lại 71 quyển thơ.
Xuyên qua thơ của tiên sinh, chúng ta thấy những đặc điểm chính
sau đây:
-
Phụng
sự nhân loại:
Làm thơ là vị nhân sinh, chứ không vị hẳn nghệ thuật. Thơ phải hợp
với Thời, hợp với Việc làm, phải nói lên nỗi đau khổ của Dân, phải giúp nhà vua
nghe, thấy rõ hơn, giúp cho trí óc của nhà vua sáng suốt hơn.
-
Dễ
hiểu:
Tiên sinh dùng những lời văn bình dị hơn, lượm lại những ca dao,
dùng rất nhiều bạch thoại để dân chúng hiểu thơ mình được dễ dàng hơn, để diễn
tả sát với sự thực cái hoàn cảnh đen tối của Dân, để nhà cầm quyền lúc bấy giờ
mới lưu ý mau lẹ hơn.
Nhờ vậy thơ của tiên sinh hầu hết dân Tàu đếu thuộc nhiều ít.
SƠ LƯỢC NHỮNG
VĂN PHẨM CẦN BIẾT:
Thơ của tiên sinh có thể chia làm 3 loại chính:
LOẠI THUỘC
VỀ THI SỬ: gồm những bài có tính chất xã hội, phản ánh
thời cuộc loạn ly lúc bấy giờ:
NGHE NGƯỜI KHÓC (Văn khóc giả) tả canh tang thương của
nhiều gia đình cha chết, mẹ chết, con chết,…
KHÚC NGÂM TRÊN ĐẤT TẦN (Tần trung ngâm) trong đó tác giả:
-
Tả cảnh cơ hàn của dân như câu:
“Thi
tuế Giang Nam hạn
Cồ châu nhân thực nhân”
Cồ châu nhân thực nhân”
(Năm nay hạn hán Giang Nam
Cồ Châu, người mổ người làm thức ăn).
Cồ Châu, người mổ người làm thức ăn).
-
Tả kho thuế của nhà vua đầy cả của lấy trong dân gian rồi
chất cao lên núi, cao lên đến “mây”.
-
Oán nhà vua đem bỏ vào kho biết bao nhiêu là đồ cần dùng
của Dân.
-
Chỉ trích nhà vua, bọn quan quyền thì thừa thải quá mà
Dân chúng thì thiếu thốn quá như những câu:
“Trù
hữu xú bại nhục
Khổ hữu quán hữu tiền”
Khổ hữu quán hữu tiền”
(Bếp có thịt thối, tiền mục trong kho tối).
“Khởi
vô cùng tiện giả
Nhân bất cứu cơ hàn”
Nhân bất cứu cơ hàn”
(Thiếu gì kẻ cùng khổ
Nỡ nào chẳng cứu họ).
Nỡ nào chẳng cứu họ).
ÔNG LÃO GÃY TAY Ở TÂN PHONG (Tân Phong chiếc
bích Ông) nói lên tâm sự chung của dân gian là ai cũng chán cảnh đi lính, đi
lính cho ai, chết cho ai, và chết để làm gì ? Bài thơ kể câu chuyện của một người
có trát gọi đi lính bèn tìm cách làm gãy cánh tay để trốn tránh công việc trên.
TRƯỜNG HẬN CA,
gần như là một bi kịch tả lại sự Đường Minh Hoàng say mê Dương Qúy Phi, sự An Lộc
Sơn khởi loạn, sự nổi loạn của quân lính giết Dương Qúy Phi, sự nhớ nhung,
thương tiếc không nguôi của nhà vua với câu kết:
“Thiên
trường địa cửu hữu thời tận
Thử tận miên miên vô tuyệt kỳ”
Thử tận miên miên vô tuyệt kỳ”
(Trời đất lâu dài có lúc hết
Bao giờ dứt được sợi tơ tình)
Bao giờ dứt được sợi tơ tình)
Tác phẩm này được truyền tụng rất nhiều.
Với những bài thơ tương tự như trên đây, Bạch đã được sách vở
xưa nay gọi Bạch là nhà Thi sử.
LOẠI TẢ CẢNH
đẹp, tươi, duyên dáng, sáng sủa như bài:
CỎ (Thảo) TRÊN AO (Trì thượng)
tả một người đẹp nhẹ lướt trên mặt hồ đầy cả hoa sen trắng với một
chiếc thuyền đẹp… ĐÊM
NHÀN (Nhàn tịch)…
Những bài thơ này tuy người đương thời rất thích, nhưng chính
tác giả lại không thích vì như trên, chúng ta thấy lập trường của tiên sinh là
nghệ thuật vị nhân sinh. Những bài thơ vừa kể trên thì hay thật nhưng theo ý
tác giả chúng nó đều vô nghĩa hoặc không nói lên được cái gì.
LOẠI THUỘC
VỀ TÂM SỰ, trong đó tác giả thổ lộ những ước ao khao
khát, nỗi vui buồn của mình:
TRÊN LẦU TRÔNG RA
SÔNG (Vọng giang thượng tác) với 2 câu kết:
“Tòng
thử nhất trần y
Qui sơn vị vi lão”
Qui sơn vị vi lão”
(Từ đây rủ áo trần ai
Non xanh tìm thú vui chơi chửa già).
Non xanh tìm thú vui chơi chửa già).
TỲ BÀ HÀNH,
trong đó tác giả so sánh mình với một ca nữ gặp ở bến Tầm dương.
Tác giả bị giáng chức, bị đổi đi xa kinh đô chẳng khác gì cô ca
nữ này, trước kia cũng đẹp, nổi tiếng, nay già phải gửi thân vào một chú lái
buôn.
Tác giả thấy cảnh của của mình và của cô ca nữ cũng không khác
gì nhau mấy nên làm bài thơ này để tặng nàng, để nàng hát theo tiếng đàn Tỳ bà.
Bài thơ này cũng như Trường hận ca được truyền tụng rất nhiều và
có ảnh hưởng nhiều trên văn chương Việt nam ta.