THỨ
HAI SAU CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
Cv 6, 8-15 ; Ga 6, 22-29
BÀI ĐỌC: Cv 6, 8-15
8
Thời đó, ông Tê-pha-nô được đầy ân sủng và
quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân.9 Có
những Đồng.13 Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: "Tên này
không ngừng nói những lời phạm người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm
nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và A-lê-xan-ri-a, cùng với một số người gốc
Ki-li-ki-a và A-xi-a, đứng lên tranh luận với ông Tê-pha-nô.10 Nhưng
họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.11
Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: "Chúng tôi đã nghe hắn nói
lộng ngôn xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa."12 Họ sách động
dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội đến
Nơi Thánh và Lề Luật.14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giê-su
người Na-da-rét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê đã
truyền lại cho chúng ta."15 Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội
Đồng đều nhìn thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên
sứ.
ĐÁP CA: Tv 118
Đ. Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện,
biết
noi theo luật pháp Chúa Trời. (c 1)
23 Mặc quan quyền họp nhau mưu hại, tôi tớ
Ngài đây cứ gẫm suy thánh chỉ. 24 Vâng, thánh ý Ngài làm con vui
sướng thoả thuê, chỉ bảo con như những người cố vấn.
26 Con kể lể đường đời, Chúa đáp lại, xin dạy cho
con biết thánh chỉ Ngài. 27 Đường lối huấn lệnh Ngài, xin cho con
hiểu rõ, để con suy gẫm những kỳ công của Ngài.
29 Xin giúp con tránh đường xảo trá và
thương ban cho con luật pháp Ngài. 30 Đường chân lý, này con đã
chọn,quyết định của Ngài, con khao khát đợi trông.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 4,4b
Hall-Hall: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời
miệng Thiên Chúa phán. Hall
TIN MỪNG: Ga 6, 22-29
22
Sau khi Đức Giê-su cho năm ngàn người ăn no nê, các môn đệ thấy Người đi trên
mặt Biển Hồ .Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy
rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó
với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi.23 Tuy nhiên, có
những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi
Chúa dâng lời tạ ơn.24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như
các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người.25
Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao
giờ vậy? "26 Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã
được ăn bánh no nê. 27 Các ông hãy ra công làm việc không phải vì
lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường
sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là
Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận."28 Họ liền hỏi Người:
"Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? "29
Đức Giê-su trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng
Người đã sai đến.”
LAO
CÔNG VÌ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Việc Đức Giêsu
hóa bánh ít ra nhiều nuôi đoàn lũ dân đến với Ngài, nếu ta chỉ dừng lại coi đó
là diễn tả lòng thương xót của Đức Giêsu không muốn để ai phải đói, thì nay có
nhiều người kết luận Thiên Chúa đã chết như một sinh vật! Vì nếu Đức Giêsu là Thiên
Chúa còn sống, tại sao ngày nay còn nhiều dân tộc đói khổ, nhiều bệnh nhân
không tiền chạy thuốc. Tại sao Chúa không biết thương xót mà ra tay cứu họ? Nhưng
Đức Giêsu có làm phép lạ cho dân ăn no hoặc chữa lành bệnh mọi người, cũng chỉ
nhằm chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cha sai đến để cứu muôn dân, vì ngoài
của ăn vật chất, Chúa Cha còn ban cho nhân loại chính Con Một của Ngài mới là
Của Ăn đích thực đem lại sự sống hạnh phúc dồi dào bất tận như Thiên Chúa.
Bởi vậy sau
khi Đức Giêsu cho dân ăn no nê, Ngài không muốn họ tôn Ngài làm Vua (x Ga 6,15) để phục vụ cái bụng của họ như Thiên
Chúa (x Pl 3,19). Vì thế Ngài phải trốn
dân đi cầu nguyện.
Khi dân đi
lùng kiếm Đức Giêsu, Đức Giêsu tỏ ra rất thương một đoàn lũ dân duy thực! dù Ngài có làm mưa bánh xuống cho họ
như xưa Chúa mưa Manna cho tổ tiên họ trong sa mạc ăn no thì rồi họ cũng phải
chết khốn nạn! nên Ngài lên tiếng
dạy: “Hãy lao công đừng vì lương thực hư
nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi, vì chính
Ngài là Đấng mà Cha là Thiên Chúa đã niêm ấn” (Ga 6, 27: Tin Mừng). Chỉ ai
có Đức Tin mới nhận ra giá trị lời giáo huấn ấy để rồi lao công vào việc của
Thiên Chúa , tức là “ tin vào Đấng Chúa
Cha sai đến” (Ga 6, 29: Tin Mừng).
Phó tế Stêphanô
đã sống diễn tả “tin vào Đấng Chúa Cha
sai đến”, nên ông phục vụ Tin Mừng rất thành công, làm được nhiều phép lạ
khiến mọi người phải kinh ngạc. Thế mà các nhóm Nô phóng, nhóm Kyrênê, nhóm
Alexandria, nhóm Kilikia và Tiểu Á đã không tin như thế, nên họ dấy lên tranh
luận với ông Stêphanô, nhưng họ không có sức cự lại sự khôn ngoan do Thần Khí
Chúa ban cho ông. Thế là họ xúi dân phao lên: “Chúng tôi đã nghe nó nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa”.
Họ làm chấn động dân chúng cùng hàng niên trưởng và các ký lục, rồi họ sấn lại
lôi ông đi và điệu đến công nghị. Mọi người căm phẫn nhìn ông, và họ thấy dung
mạo ông như dung mạo thiên thần (x Cv 6, 8-15: Bài đọc). Như thế ông đã chứng
minh được Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho ông đầy ân sủng và quyền năng, hầu ai
nhờ ông mà tin vào Chúa Giêsu, thì Ngài hứa cho có khả năng làm được những việc
như Ngài và còn làm những việc lớn lao hơn nữa (x Ga 14,12). Con người được vinh
hiển như thế chỉ vì được hiệp dâng Thánh Lễ mà Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha
hằng cầu nguyện cho.
Thực vậy Đức
Giêsu và Phó tế Philipphê đều bị người ta giết vì hết lòng giảng Lời Chúa,
trước lúc tắt thở, Đức Giêsu và Stêphanô đều cầu nguyện cho kẻ giết mình, nhưng
hiệu quả lời cầu xin của Đức Giêsu xem ra chỉ làm cho vị sĩ quan Roma lớn tiếng
tuyên xưng Đức Tin: “Ông này đích thực là
Con Thiên Chúa”, khi ông nhìn thấy Ngài bị đâm thủng tim! (x Mc 15,39) Còn
hiệu quả lời cầu nguyện của Phó tế Stêphanô làm cho “sói Saulô” trở thành Tông
Đồ xuất sắc, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng! (x Cv 9 ; 2Cr 11,5). Thật
“hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện,
biết noi theo Luật pháp Chúa Trời” (Tv 119/118,1: Đáp ca).
bởi đó hết thảy những ai nỗ lực, mau mắn tìm đến
hiệp dâng Thánh Lễ với Hội Thánh, thì đó là cách họ thực hành Lời Chúa Giêsu
dạy là “tin vào Đấng Chúa Cha sai đến”
(Ga 6,29). Vì “người công chính nhờ Đức
Tin sẽ được sống” (Rm 1,17).
Ông hennri Dunant sáng lập Hội Chữ Thập Đỏ:
Ngày 24/6/1859 ông đến Thụy Sỹ gặp vua Napoléon III nước Pháp, xin cấp giấy phép lập nhà máy xay lúa tại
Algerie - là thuộc địa của Pháp. Trong quán trọ ông ngồi nhìn về phía cánh đồng
Solpherino: cuộc chiến ác liệt đang xảy ra. Trong trận chiến ấy có trên 300
ngàn binh sĩ hai phía bị thương kêu la! Ông dunant
chán ghét chiến tranh, ông cho chuyển các binh sĩ bị thương vào làng để chăm
sóc. Sau đó ông viết tác phẩm hồi ký về cuộc chiến tại Solhpherino gởi cho các
thủ lãnh trên thế giới ký vào bản dự án
lập Hội Chữ Thập Đỏ để chăm sóc binh sĩ bị nạn không phân biệt thù
hay bạn.
Ngày
26/10/1863 có 16 quốc gia họp tại Genève ủng họ sáng kiến ông và họ lấy dấu
thập làm dấu chỉ trên các bệnh viện hay các xe cứu thương. Năm 1901 ông dunant được giải thưởng Nobel.
Tại sao gọi là
Giải Thưởng Nobel? Ta biết ông Alfred Nobel cũng là mẫu người lao công vào việc
của Thiên Chúa, vì trước đó ông phát minh ra chất nổ, sản xuất hàng loạt vũ khí
giết người, ông đã thu được rất nhiều tiền, sở hữu một tài sản kếch xù! Nhưng khi ông đọc báo
biết vô số người đã chết vì chất nổ ông
phát minh. Ông rất hối hận về việc tìm ra vũ khí giết người, ông liền bán hết
gia tài, lấy tiền hiến cho Liên Hiệp Quốc để làm giải thưởng cho bất cứ ai đóng
góp vào nền hòa bình của thế giới.
Vào cuối đời,
lúc ông Dunant lâm bệnh, ông xin vào một bệnh viện dành cho hành khất bên Thụy
Sĩ, để lại di chúc: “Hoặc tôi là môn đệ Chúa Giêsu hay ít là giống
các tín hữu thuở ban đầu, hoặc tôi không là gì cả”. Ước gì trong mỗi
Giáo phận có Giải Thưởng hằng năm cho bất cứ ai giảng Lời Chúa xuất sắc được
nhiều người bầu chọn!
Vậy ta không
có tài sản như ông Dunant và ông
Nobel, thì ta dùng Đức Tin và Đức Mến của mình, mỗi ngày sốt sắng đến hiệp dâng Thánh Lễ, chắc chắn Chúa cũng kể ta không thua kém hai nhà tỷ phú đó đã
thực hành Lời Chúa: “Ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại
phúc trường sinh, đó là việc Thiên
Chúa muốn cho loài người làm, là tin
vào Đấng Chúa Cha sai đến” (Ga 6,27a.29). Đức Tin này không chỉ thể hiện
bằng ăn Bánh Trường Sinh, chính là Thịt Máu Chúa Giêsu (x Ga 6,27t), mà còn
được sống nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4,4b: Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Hãy
lao công đừng vì lương thực hư nát nhưng
vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (Ga
6 ,27a).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH