NHẬN DIỆN
Mục tử và Người chăn thuê
Qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem
xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.
Hằng năm cứ đến
ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo hội hướng đến việc cổ
võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục.
Một trong những nội dung làm việc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ I năm 2012
vừa qua tại giáo phận Xuân Lộc đó là việc đào tạo linh mục. Dĩ nhiên là mục
tiêu nhắm là để có những vị “mục tử như lòng Chúa mong ước.’ Có thể luận suy rằng
khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta
khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.
Một sự thật dễ
thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức
hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bằng lòng khi thấy mình
chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm
chước đó là phận người
còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn.’ Trái lại
khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái của vấn đề thì người ta khó đón nhận,
vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Nói rằng bạn chưa hoàn
hảo thì chúng ta dễ chấp nhận ngay nhưng nếu nói rằng bạn xấu xa thì xem ra dễ
có phản ứng. Hoặc giả như cho rằng bạn nói chưa đúng thì dễ chấp nhận nhưng nếu
ai đó cho rằng chúng ta nói sai thì vấn đề lại trở thành trầm trọng. Dẫu sao đi
nữa thì bài trích Tin Mừng thánh Gioan của Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B, qua những
lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử
với người chăn thuê.
Đã nói là phân
biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến
người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra TƯƠNG ĐỒNG giữa người chăn thuê và vị mục tử:
1. Qua cửa ràn
chiên: Cả hai, vị mục
tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra
chứ không leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục
thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ
nhiệm hợp pháp… thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.
2. Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo
nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết
con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.
3. Chiên nghe tiếng
và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn
thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít
chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại
đa số giáo dân Công giáo, cách riêng giáo dân Công giáo Việt Nam đều ngoan,
theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.
4. Người chăn thuê
và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng
các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn
thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên.
Tiếp đến chúng
ta cùng nhận diện những điểm KHÁC BIỆT giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh
mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người
đang trong phận vụ mục tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.
1. Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê
nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể
có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật,
công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.
2. Làm hết giờ hơn
là làm hết việc: Trong
thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người
làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn
lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết
tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng là mục tử thì có thể nhiều khi làm
không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi
hết lòng.
3. Không quan tâm đến
chiên ngoài đàn: Đây là một
điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những
việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng
bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu:
“Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”
4. Không bao giờ sẵn
sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì
không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ
lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng
hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu
để thẩm định ai mới là mục tử.
Với bốn điểm đồng
và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta
thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong
Giáo hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một
số mục tử nào đó trong Giáo hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng
không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê
đang mang danh mục tử.
“Hãy ra khỏi
ngôi mộ trống!” Hy vọng rằng lời nhắn nhủ của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo
Girelli, vị đại diện của Đức Thánh Cha giúp cho nhiều đấng bậc, cách riêng
trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam biết thức tỉnh để sống lại con người mục tử
chính danh chính hiệu của mình. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn
chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân
Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng
tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.
Lm. Giuse Nguyễn
Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột