GIÁO DỤC - giáo dục cho ngày mai

 4. GIÁO DỤC CHO NGÀY MAI
C – Những phương thế giáo dục
Qua hai phần trình bày trên đây, chúng ta đã có cái nhìn tổng quát về giáo dục. Lẽ tất nhiên, giáo dục không phải là mớ những lý thuyết xuông, mà là một triết lý sống (live philosophy); nó không tĩnh (static) nhưng luôn động (dynamic) và cụ thể theo sát với cuộc sống con người.
Vì vậy, chúng ta hãy tìm ra những phương thế để đạt được tiến trình giáo dục này:
1 – Hiểu biết của nhà giáo dục về người được giáo dục.
Muốn thực hiện tiến trình giáo dục cho ai, chúng ta buộc phải hiểu rõ về con người ấy. Hiểu đây không phải chỉ thuộc lãnh vực kiến thức, mà là sự đi sâu vào đời sống thực tế con người ấy. Nhà giáo dục hãy nhớ rằng, mỗi con người là một “hữu thể độc nhất và bất khả thế” (unique and irreplacable being), chứ không phải một cỗ máy trong chuyền sản xuất. Muốn giáo dục ai phải hiểu biết về họ; vì không hiểu biết thì không thể thực hiện việc giáo dục tốt đẹp. Có hiểu biết mới có cảm thông, mới biết lắng nghe, mới sẵn sàng yêu mến. Một khi cả đôi bên đạt sự hiểu biết và cảm thông, tiến trình giáo dục sẽ đạt được thành quả mong đợi.
Giáo dục là hành vi nhân linh, và hoàn thành việc giáo dục là đạt đỉnh cao nghệ thuật.
2 – Ba bước căn bản của tiến trình giáo dục: Ái – Trí – Đạo.
Theo Don Bosco, để thực hiện tốt tiến trình giáo dục người trẻ, nhà giáo dục (nghệ nhân) buộc kênh qua ba bước nền tảng sau đây:
a/ Ái (Amorevolezza, loving kindness):
Đây là bước nền tảng và căn bản cho tiến trình giáo dục. Không có tình thương mến thương, sẽ không có giáo dục và không thể giáo dục được.
Nhưng phải hiểu tình thương mến thương đây là gì? Đơn giản chỉ là sự rung động của con tim do những yếu tố ngoại tại? Hay là vì hợp nhãn hợp ý? Hay do bất kỳ hấp lực nào khác?
Tình thương mến bắt nguồn từ yếu tố lành mạnh này: vì chính cá nhân người được giáo dục và vì lợi ích toàn diện của người ấy. Tình thương trong giáo dục không quy vào nhà giáo dục, nhưng hoàn toàn dành cho người được giáo dục. Bằng lòng thương mến, nhà giáo dục làm cho người được giáo dục hiểu rằng họ được yêu mến, mọi điều nhà giáo dục làm chỉ vì muốn sự tốt lành cho họ; từ đó họ nhận ra và sống đáp trả bằng một đời sống tốt và có ý nghĩa cho mình và mọi người (trở thành công dân tốt và người tín hữu tốt).
Như vậy, giáo dục là công việc của con tim đến với con tim: làm cho người được giáo dục hiểu rằng họ được yêu mến… Giáo dục là làm những gì người trẻ thích, và họ sẽ làm điều nhà giáo dục muốn, vì lợi ích của họ. Don Bosco thường lấy lời thánh Phaolô nhắc nhở các con ngài: “Hãy yêu mến, và các con sẽ làm được những gì các con muốn” (ama et fac quod vis).
b/ Trí (Reasoning):
Việc giáo dục muốn thành công, đòi hỏi sự thâm tín và một ý thức sâu sắc của cả nhà giáo dục lẫn người được giáo dục; nó không phải món quà biếu không hay tự nhiên mà có. Giáo dục tri thức không những ám chỉ tiến trình đào tạo người trẻ có kiến thức và có phương pháp học tốt; đúng hơn, đây là công việc giúp người trẻ động não có phương pháp, có những suy nghĩ kịp thời, có bản lãnh trong suy tư và có lập trường kiên định, có những quyết định phù hợp và tự chứng tỏ một con người trưởng thành. Rõ ràng không thể có giáo dục lành mạnh nếu thiếu phần tri thức.
c/ Đạo (Religion):
Kết quả tiến trình giáo dục chính là sự biến đổi, cải hoá con người trở nên tốt hơn, giúp con người thực hiện những giá trị đạo đức làm người; và từ đó, con người cũng dễ dàng mở lòng trước những giá trị và thực tại thiêng liêng và siêu nhiên. Như thế, giai đoạn cuối của tiến trình giáo dục đúng đắn bao giờ cũng dẫn con người đến tôn giáo: chọn cho mình một con đường, một lý tưởng để sống và sống hạnh phúc.
 3 – Những hình thức hiện diện của nhà giáo dục.
Muốn đạt hiệu quả tốt trong tiến trình giảng dạy, buộc nhà giáo phải rời bục giảng và xuống với học viên của mình; thái độ này cũng phải tất yếu đối với nhà giáo dục, nếu muốn thành công và chiếm được lòng người trẻ. Muốn giáo dục tốt, nhà giáo dục phải luôn hiện diện giữa những người được giáo dục, không chỉ thể lý, mà cả trí tuệ lẫn con tim.
Từ ngữ “hiện diện” làm chúng ta suy nghĩ ngay đến hai hệ thống giáo dục khác biệt và thậm chí đối chọi nhau: giáo dục cưỡng báchgiáo dục dự phòng.
Giáo dục cưỡng bách là loại giáo dục áp đặt, dựa vào những qui tắc và luật lệ định sẵn, ức chế và không có chỗ cho lý luận và đối thoại; sự hiện diện theo lối giáo dục cưỡng bách thường là dưới hình thức “cảnh sát” và “dùi cui”, dò xét và hù doạ chứ không có chia sẻ và cảm thông.
Giáo dục dự phòng là hệ thống giáo dục đặt nền trên cõi lòng, lẽ phải và cảm thông, là soi sáng và giúp cho người được giáo dục nhìn ra sự việc và tự quyết định cho chính mình, nhờ những soi sáng và hướng dẫn hợp tình hợp lý. Sự hiện diện trong hệ thống giáo dục dự phòng dựa trên tình bạn, cảm thông và chân thành, đôi khi nhà giáo dục cũng phải quảng đại chấp nhận những giới hạn và sai sót từ phía người được giáo dục.
Kết quả từ hệ thống dự phòng là những con người bản lãnh và trưởng thành, trong khi giáo dục cưỡng bách chỉ sản sinh những con người bất đắc dĩ.
Khi bàn đến sự hiện diện (Hộ trực – Assistance) trong hệ thống dự phòng, Don Bosco giới thiệu với chúng ta một số những nét đặc sắc sau đây:
a/ Hiện diện gần gũi và thân mật: hiện diện bằng cả con người của nhà giáo dục (hộ trực viên – assistant), hiện diện với cõi lòng và sự thân thiện, hiện diện để cùng sống và chia sẻ, hiện diện để đồng hành; và như thế, nhà giáo dục sẽ vừa là thày, là bạn và là người anh người chị của bạn trẻ.
b/ Để mắt, để tâm: đứng trước một tập thể được giáo dục, việc chú ý đầu tiên của nhà giáo dục là đôi mắt quan sát, không bỏ sót một ai, nhất là những đối tượng cần được ưu tiên quan tâm. Cùng với đôi mắt, nhà giáo dục phải vận dụng ngay con tim để thẩm định hiện trạng học viên của mình, hầu có những ứng xử hợp lý và kịp thời. Không nên để các em bắt thóp những sơ hở của chính nhà giáo dục. Hãy luôn ứng xử bằng tình bạn chân thành.
c/ Sử dụng lời nói “nhỏ” vào tai đúng lúc: khi gặp những đối tượng cần quan tâm săn sóc, đừng ngần ngại đến gần các em ấy hơn; lợi dụng những cơ hội thuận tiện hoặc lúc giải lao trong sân chơi, có những lời nói nhỏ vào tai các em, thân mật nhưng không kém thẳng thắn, để khích lệ, động viên, hoặc nhắc nhở. Kết quả những lời nói nhỏ ấy mang sức mạnh thuyết phục hợp tình hợp lý và cải hoá đặc biệt trong giáo dục. Tuyệt đối không xử sự để các em mang mặc cảm “bị xúc phạm”; làm như vậy là đi ngược lại giáo dục và dễ gây phản ứng đáng tiếc từ phía các em.
d/ Năng động sinh hoạt và vui chơi giữa các bạn trẻ: giữa tập thể đang sinh hoạt, nhà giáo dục phải là linh hồn của tập thể sinh động ấy. Nhà giáo dục do đó cần linh hoạt, nhậy bén và tháo vác. Tinh thần phấn đấu và vươn tới sẽ làm cho cả tập thể cùng hoà mình và tham dự tích cực vào mọi sinh hoạt (to be is to be ‘in’ and to be ‘with’).
4 – Hãy là “bạn” trước khi là “thày”.
Từ những gì vừa trình bày trên đây, xin phép để lấy một hình ảnh ứng dụng rất chính xác và tâm đắc: “Đức Giêsu Kitô, là thày, là bạn và cũng là đầy tớ”.
Để dạy cho môn đệ biết thế nào là khiêm tốn phục vụ, Rabbi Giêsu đã tự ý cúi mình rửa chân cho các ông; rồi dạy các ông bài học sống yêu thương chân thành, là ra khỏi chính mình và dấn thân vì anh chị em mình. Ngài đã làm trước rồi dạy sau, hay đúng hơn, Ngài dạy môn đệ mình bằng việc làm cụ thể. Chính thái độ này làm cho Ngài trở nên chân thành và thân thiện với môn sinh, trở thành bậc thày sáng giá và thật nhân bản.
Đúng vậy, muốn giáo dục tốt, trước hết phải sống thân thiện với học viên, làm cho lòng họ mở ra để sẵn sàng chấp nhận, khi ấy mới có thể giáo dục được.
Hãy là “bạn” trước khi là “thày”; là bạn để bạn dễ dàng trở nên thày hơn.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Quang SDB