Tìm hiểu Lời Chúa _ lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ

Ngày 21 tháng 11
ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ
Lễ Nhớ
Dr 2,14-17; Mt 12, 46-50
BÀI ĐỌC: Dr 2,14-17
14 Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi,- sấm ngôn của Đức Chúa. 15 Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa Đức Chúa:Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi.” Bấy giờ, (các) người sẽ nhận biết rằng Đức Chúa các đạo binh đã phái tôi đến với (các) người. 16 Đức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ nghiệp, đó là sở hữu của Người trên Đất Thánh và Người sẽ lại tuyển chọn Giê-ru-sa-lem. 17 Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Đức Chúa , bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của Người.
ĐÁP CA: Lc 1
Đ. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn
(c 49).
46 "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. 49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. 51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, 55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 11, 28
Hall-Hall: Kính chào Đức Maria, Mẹ đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn mọi người phụ nữ. Hall.
TIN MỪNG: Mt 12, 46-50
46 Khi Đức Giêsu còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.”

A. PHẦN TÌM HIỂU
Trước khi chúng ta đi vào giáo huấn của Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay, ta hãy giải đáp thắc mắc:
-         Dựa vào Tin Mừng anh em Tin Lành xác định Đức Giêsu có anh em, thế thì làm sao người Công Giáo lại tin Đức Maria chỉ sinh Đức Giêsu, nên vẫn còn đồng trinh? (Mt 12,46)
Xin thưa Hội Thánh Công Giáo vẫn tin Đức Maria là một Trinh Nữ, khác với anh em Tin Lành chỉ tin Đức Maria đồng trinh cho đến khi sinh Đức Giêsu mà thôi, vì Đức Maria sinh Đức Giêsu là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn sau khi đã sinh Đức Giêsu thì không còn đồng trinh, cụ thể:
-         Đức Giêsu đang giảng, có Mẹ và anh em Ngài đến mời Ngài ra để nói chuyện (x Mt 12,46). Như thế bà Maria sau khi sinh Đức Giêsu còn sinh nhiều người con khác nữa.
-         Bà Maria sinh Con đầu lòng và lấy tã vấn Con đặt trong máng cỏ (x Lc 2,7). Đã nói Đức Giêsu là con đầu lòng thì phải hiểu là người mẹ còn tiếp tục sinh con.
-         Ông Giuse và bà Maria không ăn ở với nhau cho đến khi bà sinh Con (x Mt 1,25). Như thế ông Giuse và bà Maria chỉ không ăn ở với nhau cho đến khi sinh Đức Giêsu, sau đó hai ông bà vẫn ăn ở với nhau.
Nhưng Hội Thánh Công Giáo vẫn tin Mẹ Maria đồng trinh vì:
* Từ anh em mà Kinh Thánh dùng, tiếng Do Thái gọi là “Ăch”, tiếng Hy Lạp gọi là “Adelphoi.” Hai từ này hiểu chung về cả anh em ruột và anh em họ, giống như tiếng Việt Nam: con chú cũng gọi là em; con bác cũng gọi là anh. Thực vậy, Abraham là chú của Lot, mà Abraham gọi Lot bằng từ Ăch, hoặc Adelphoi (x St 13,8; 14,12; 29,10).
Thế thì tại sao anh em Tin Lành chỉ chọn một nghĩa anh em ruột để phủ nhận Đức Maria đồng trinh!?
* Ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Cứu Độ: “Một người nữ sẽ sinh con (Is 7,14). Người nữ này tiếng Do Thái là Almah. Almah không nhất thiết là trinh nữ, cũng không khẳng định là mất trinh. Vì từ này có nghĩa chung là một cô vợ trẻ, hay cô gái đến tuổi dậy thì. Nhưng bản văn tiếng Do Thái đã được dịch ra tiếng Hy Lạp, thì lại xác định: cô vợ trẻ đó là một trinh nữ (Parthenos), dịch như thế là dựa vào lối giải thích từ ngữ (ngữ vựng) tiếng Do Thái trường Alexandria (theo Bible Jérusalem). Như vậy bản Hy Lạp xác định truyền thống giải thích danh từ Almah với ý nghĩa rõ rệt là một trinh nữ, để chỉ người Mẹ của Đấng Emmanuel. Bản văn Kinh Thánh tiếng Hy Lạp này, Đức Giêsu và các môn đệ đã dùng để giảng dạy.
* “Bà sinh Con đầu lòng” (Lc 2,7): Tác giả Luca không có ý nói: đã có con đầu lòng là tất yếu phải sinh con nữa. Mà ông viết câu này chỉ có ý nhấn mạnh: gia đình Nazareth rất cẩn thủ giữ Luật Môsê, mà Luật Môsê thì buộc cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa (x Xh 13).
* “Hai ông bà không ăn ở với nhau cho đến khi sinh con” (Mt 1,25): Anh em Tin Lành dựa vào câu này mà xác định rằng: Đức Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Đức Giêsu mà thôi. Bởi vì Bà sinh Đức Giêsu là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Nhưng ta phải biết rằng thuật ngữ “cho đến khi” trong Thánh Kinh có ý nhấn mạnh một điều gì đã có, đang có, và không bao giờ mất đi. Thí dụ: Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), có nghĩa là Chúa đang ở với các môn đệ và mãi mãi không bao giờ lìa xa; thế thì câu Mt 1,25 nhấn mạnh sự đồng trinh của Đức Maria cũng không bao giờ mất đi!
Ngoài ra, Hội Thánh Công Giáo dưới cái nhìn Thần học phải xác nhận Đức Maria là một Trinh Nữ vì:
* Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh: Maria sinh Chúa Giêsu là Đầu của Hội Thánh; còn Hội Thánh sinh các Kitô hữu là chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Hội Thánh không liên hệ tới một người khác phái nào mà vẫn sinh con, do đó Chúa Giêsu gọi Hội Thánh là một cộng đoàn trinh nữ (x Mt 25,1-13), thì Đức Maria cũng không ăn ở đời vợ chồng với ông Giuse.
* Thánh Irênê nói: “Adam cũ được sinh ra bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác), Adam cuối cùng (Đức Giêsu) sinh ra bởi Mẹ đồng trinh.”
* Xét về mặt tâm lý và nhân bản: Nếu Đức Giêsu còn anh em ruột, thì không thể nào trước giờ chết Ngài phải nhờ ông Gioan chăm sóc Mẹ mình (x Ga 19,25-27).

B. GIÁO HUẤN
GIA TỘC CỦA CHÚA GIÊSU
Để hiểu lý do Đức Giêsu xem ra hững hờ trước tin người ta truyền lại cho Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.”Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? " Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 47-50: Tin Mừng), vì hai lý do:
1/ Đức Giêsu không phủ nhận Đức Maria là Mẹ của Ngài. Nhưng tiếc rằng người ta lầm, họ chỉ nhìn bà Maria đã sinh dưỡng ông Giêsu như những người đàn bà khác sinh con, thì điều đó không quan trọng gì. Bởi vì “Thần Khí mới làm cho sống, xác thịt không sinh ích gì, Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6,63). Do đó, nếu Đức Maria không nói tiếng xin vâng Lời Chúa trong ngày Truyền Tin, để Thần Khí Chúa cũng là Lời Chúa chiếm đoạt Maria, và nếu Đức Maria không xin Chúa thực hành điều Ngài đã nói, thì Đức Maria cũng không thể sinh Con Thiên Chúa vào đời bằng xương thịt của mình được (x Lc 1,26t).
Trước khi chúng ta tìm hiểu ý Chúa trong Tin Mừng hôm nay, ta nhìn lại bố cục của Tin Mừng Matthêu:
-         Mt 12,43-45: Kẻ nào bỏ Chúa, thì nó tồi tệ, độc ác, khốn nạn hơn trước gấp bảy lần.
-         Mt 12,46-50 (cuối chương 12): Gia tộc của Đức Giêsu là những người nghe và thực hành Lời Chúa.
-         Mt 13,1-38: Dụ ngôn gieo giống là gieo Lời Chúa để sinh ra con cái Nước Thiên Chúa.
2/ Nhìn vào cơ cấu Tin Mừng của Matthêu như trên, thì Đức Giêsu có ý nói về Mẹ và anh em Ngài như sau:
-         Gia tộc của Đức Giêsu đặt sau Lời Ngài kết án những ai đã thuộc về Chúa, mà không trang hoàng nhà tâm hồn bằng ơn Chúa, cụ thể không để Hội Thánh dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi Lời vào tấm lòng và tấm thịt (x 2 Cr 3,3), thì nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho quỷ đã xuất khỏi nó, rủ thêm bảy quỷ khác dữ tợn hơn, đến lập cư nơi người đó (x Mt 12,43-45).
-         Gia tộc của Đức Giêsu đặt trước dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu muốn giải thích thân tộc của Ngài là những người nghe và thực hành Lời Cha Ngài, cụ thể các môn đệ đã từ bỏ mọi sự ở đời này đi theo Thầy Giêsu, nghe Lời và thực hành, rồi nối tiếp sứ mệnh của Thầy đã nhận từ nơi Chúa Cha để làm cho mọi người trở thành “con cái Nước Trời” (x Mt 13,38a). Nhờ “hạt giống tốt là Lời Chúa được gieo vào lòng họ” (x Mc 4,14; Lc 8,11).
Như thế Mẹ Maria và các anh em họ của Đức Giêsu là những mẫu người được hạt giống Lời gieo vào lòng. Đặc biệt, đối với Đức Maria, Mẹ phó thác cho Lời quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ điều Chúa đã nói (x Lc 1,38), nên Chúa đã lấy một phần xương thịt của Mẹ tạo nên thân thể Con Một Ngài là Chúa Giêsu, để Mẹ Maria vừa được liên kết với Chúa bằng Lời và bằng xương thịt, đó mới thực là vinh quang của Mẹ, đúng như Đức Giêsu nói: “Xác thịt không sinh ích gì, Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6,63). Dựa vào Lời Đức Giêsu nói như trên, ta hiểu Ngài có ý nhấn mạnh: Nếu Đức Maria không liên hệ với Lời Chúa, xác thịt Mẹ dù có sinh ông Giêsu cũng không sinh ích gì để được khen là bà mẹ có phúc. Bởi đó, chỉ những ai sống Đạo như Mẹ Maria mới đạt mẫu “con cái Nước Thiên Chúa” (Mt 13,38a), thuộc gia tộc của Ngài, thì mới đáng được Ngài khen: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28; Tung Hô Tin Mừng).
Khi chúng ta đã được hiểu về phẩm giá của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu cũng là Mẹ Hội Thánh, ta mới nhận ra rằng Mẹ đã làm ứng nghiệm Lời Kinh Thánh: “Chúa tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của lễ đầu mùa trong các thụ tạo của Người” (Gc 1,18).
Vậy Đức Maria là mẫu sống Đạo cho các Kitô hữu, để chúng ta là anh em của Đức Giêsu, Con của Mẹ, cũng phải sống như Mẹ Maria đã thể hiện lời ngôn sứ Dacarya (Bài đọc) nói về ngày Thiên Chúa ra tay thực hiện ơn cứu độ loài người:
·        Maria là cô gái Sion vui sướng reo hò” (Dr 2,14a): Mẹ là mẫu cho các Kitô hữu nói lên niềm sung sướng được Chúa cứu độ.
·        Chúa đang đến để ở lại giữa ngươi, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Chúa, chúng sẽ thành dân thánh của Chúa, và Chúa sẽ cư ngụ giữa ngươi, Chúa các đạo binh đến với ngươi” (Dr 2,14b-15): Mẹ Maria trao Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23), nhờ Ngài mà nhân loại được cứu độ.
·        Dân Chúa là sở hữu của Người trên đất Thánh, mọi xác phàm hãy lặng thinh” (Dr 2,16-17): Người Công Giáo là sở hữu của Chúa, họ luôn được Chúa ở cùng.
Lịch sử Do Thái giáo không bao giờ dâng phụ nữ vào Đền Thờ cho Chúa, nhưng hôm nay chúng ta mừng Lễ “MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ” là ta phải nhờ Mẹ Maria mà tạ ơn Chúa, vì Chúa đã dùng Mẹ qua tay Hội Thánh dâng chúng ta lên Thiên Chúa trong mỗi Thánh Lễ. Với tâm tình con thảo, chúng ta hãy thưa cùng Mẹ: “Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thật là diễm phúc, vì đã cưu mang Con Chúa Cha hằng hữu” (Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Chúa Giêsu xác nhận: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh