Lời Chúa Lễ Phục Sinh _ ánh sáng Chúa Kitô

ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ
Nếu Chúa Kitô không đến trong thế gian, thì chúng ta là những con người, suốt đời sống trong bóng tối tử thần, và Chúa đã đến, Chúa đã chịu chết, Chúa đã sống lại để giải thoát ta.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Suốt mùa Phục Sinh, từ Chúa Nhật Chúa sống lại cho tới hết tuần lễ Chúa về trời (Lễ Thăng Thiên): Một cây nến cao, bằng sáp ong, đặt cạnh bàn thờ chính, cây nến này đã được thắp sáng trong đêm thánh vọng Phục Sinh. Lúc cả thánh đường chìm trong bóng tối, linh mục cùng anh chị em giáo hữu long trọng rước cây nến này vào thánh đường. Vừa khi ngọn nến được thắp lên, linh mục đọc lớn tiếng: “Ánh sáng Chúa Kitô”, khi vào tới cửa nhà thờ linh mục lại xướng to: “Ánh sáng Chúa Kitô”, và rồi khi lên tới bàn thờ, linh mục còn đọc lớn tiếng một lần nữa: “Ánh sáng Chúa Kitô.”
Cây nến được thắp sáng đó, tượng trưng Chúa Kitô đã sống lại, Ngài là ánh sáng chiếu giọi vào thế gian, Ngài là ánh sáng soi dẫn cuộc sống ta, Ngài là ánh sáng soi đàng cho ta về quê trời.
Chúa Kitô được ví như ánh sáng chiếu dọi trong đêm tối: tuy đó là hình ảnh tươi đẹp; nhưng còn một hình ảnh tươi đẹp hơn nhiều: Chúa Kitô là ánh sáng bùng lên chiếu giọi cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần.
Matthêô chương 4 câu 16: “Những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần được ánh sáng bừng lên chiếu dọi.”
Luca chương 1 câu 79 (nhắc lại Isaia chương 9 câu 1): “Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần.”
Có lẽ anh chị em không thể tưởng tượng và hiểu rõ thế nào là: ngồi trong bóng tối tử thần, và rồi được ánh sáng soi dọi cứu thoát khỏi cảnh chết chóc ghê sợ đó. Sau đây là câu truyện người ngồi trong bóng tối tử thần, được ánh sáng giải thoát. Câu truyện này giúp ta hiểu được sự đau khổ con người ở trong bóng tối tử thần, và nỗi vui mừng khi họ được ánh sáng giải thoát.
Bộ truyện 1.001 đêm tả chuyến đi thứ bốn của ông Xinbát (người đi biển): Ông Xinbát thoát nạn, được người Ả Rập chở về một hòn đảo. Đảo này rất đông dân cư: Ông được giới thiệu với nhà vua cai trị đảo đó, và nhà vua truyền cho cả triều đình cũng như dân chúng phải đối xử tử tế với ông. Rồi nhà vua lại giúp ông cưới vợ, để Ông ở lại đảo đó suốt đời.
Nhưng phong tục của vương quốc này là, nếu người chồng chết thì người vợ phải chôn sống với chồng, và nếu người vợ chết thì người chồng cũng phải chôn sống với vợ. Nghĩa trang của họ là một giếng sâu trên ngọn núi cao: có một tảng đá lớn che miệng giếng đó…
Ông Xinbát sống với vợ được ít lâu, thì vợ Ông lâm trọng bệnh và qua đời. Ông lo sợ, đến xin nhà vua và triều đình cho mình được chuẩn chước luật lệ bị chôn sống này. Nhưng nhà vua và cả triều đình đã khước từ lời xin của ông.
Ông Xinbát kể: “Khi mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, thì bắt đầu buổi lễ. Người ta đặt thi hài vợ tôi vào một chiếc quan tài, với tất cả đồ trang sức, áo quần đẹp nhất của nàng. Cuộc chôn táng được cử hành trên ngọn núi. Là nhân vật thứ hai của tấm bi kịch thảm thương ấy, tôi phải đi ngay sau quan tài vợ tôi, dù tôi khóc lóc kêu la thảm thiết, xin mọi người cho tôi được sống, nhưng không một ai mủi lòng. Ngược lại người ta còn vội vã hạ thi hài vợ tôi xuống giếng, rồi lát sau dòng tôi xuống, trong một chiếc quan tài mở nắp khác; cùng một vò đầy nước và bảy chiếc bánh. Cuối cùng, buổi lễ tai hại cho tôi ấy kết thúc. Người ta đặt lại tảng đá, lấp miệng giếng, trước sự đau đớn cùng cực và tiếng kêu gào thảm thiết của tôi. Trong lúc xuống dần tới đáy, nhờ chút ánh sáng từ bên trên lọt xuống, tôi nhận ra được hình thể các nơi dưới mặt đất ấy. Đó là một cái hang rất rộng và sâu. Một mùi hôi thối không thể nào chịu nổi bốc lên từ cơ man xác chết bên phải và bên trái xông vào mũi tôi, và hình như còn nghe được tiếng một vài người trong số những người bị chôn sống gần đây nhất, thở những hơi cuối cùng. Tuy nhiên khi xuống tới nơi, tôi mau chóng bước ra khỏi quan tài vừa đưa tay bịt mũi, tôi nằm dài ra đất và cứ vậy mà khóc một hồi lâu, trong chốn tối tăm âm u này… Những lời than vãn vô ích của tôi làm chấn động cả hang, Tôi đập đầu, đấm bụng vì tức giận điên cuồng và tuyệt vọng. Tôi hoàn toàn mê mẩn trong những ý nghĩ bi thương nhất. Tuy nhiên dù khốn khổ đến đâu, lòng yêu cuộc sống vẫn còn ở trong tôi, nó thúc đẩy tôi kéo dài số kiếp của mình, chứ không tìm cách chết ngay đi cho nhẹ tội: tôi vừa đưa tay bịt mũi, vừa dò dẫm bước đi, lấy bánh mì và nước để ăn cho qua cơn đói khát, mặc dầu trong hang tối như bưng, đến mức không phân biệt được ngày đêm, tôi vẫn tìm lại được chiếc quan tài của tôi, và hình như cái hang rộng hơn, chứa nhiều xác chết hơn là tôi tưởng lúc đầu. Tôi sống mấy ngày bằng bánh mì và nước của mình… Nhưng rồi bỗng tôi nghe có tiếng thở và bước chân đi, tôi tiến đến chỗ phát ra tiếng động. Tôi nghe tiếng thở mạnh hơn, rồi hình như xem thấy một vật gì đang chạy trốn. Tôi đi theo cái bóng ấy, thỉnh thoảng nó dừng lại, rồi lại vừa thở vừa chạy trốn, khi tối đến gần. Tôi theo nó rất lâu và đi rất xa; cuối cùng trông thấy một đốm sáng như một ngôi sao. Tôi tiếp tục đi về phía ánh sáng ấy, lúc ẩn, lúc hiện, do vị trí những vật cản trở, nhưng lần nào tôi cũng tìm lại được, cuối cùng tôi phát hiện ra ánh sáng ấy lọt qua một lỗ trống trong núi đá, khá rộng, một người có thẻ chui qua lọt.”
“Phát hiện được chỗ đó rồi, tôi vui mừng khôn xiết, tôi đứng lại một lúc, chờ bớt nỗi xúc động khi đang đi, rồi tiến tới chỗ lỗ trống. Tôi chui qua và thấy mình đứng trên bờ biển. Nỗi vui mừng của tôi, được ra ánh sáng, thật là tột độ, đến nỗi tôi phải khó khăn lắm, mới tin được rằng không phải là cõi mộng. Khi đã tin đây là điều có thật và mọi giác quan tôi đã trở lại bình thường, tôi hiểu ra cái vật tôi nghe thở phì phò, mà tôi đã đi theo và một con vật từ dưới biển lên, nó có thói quen chui vào hang để ăn xác chết. Tôi quan sát ngọn núi, và thấy nó nằm giữa thành phố và biển, không có một con đường nào thông thương với nhau, bởi vì núi quá hiểm trở, đến nỗi thiên nhiên cũng không tạo được thành đường. Tôi quỳ xuống bờ biển để cảm tạ Thượng Đế…”
(Sau đó ông Xinbát gặp được một chiếc tàu đem Ông về quê hương… )
Quả thực nếu Chúa Kitô không đến trong thế gian, thì chúng ta là những con người, suốt đời sống trong bóng tối tử thần, và Chúa đã đến, Chúa đã chịu chết, Chúa đã sống lại để giải thoát ta: Ngài chính là ánh sáng soi giọi cho cuộc sống ta, và soi giọi cho ta biết đường về quê trời. Mỗi khi nhìn vào cây nến Phục Sinh, ta hãy cảm tạ Chúa đã xuống thế, đã chịu chết, đã sống lại, Chúa còn đang thực sự sống, với chúng ta, trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta hãy xin Chúa luôn luôn soi sáng cuộc đời ta và nhất là đừng để ta lạc vào cõi chết, mà được theo ánh sáng của Chúa đi vào niềm hân hoan bất diệt.               
Đề tựa của Lm. HK