LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ &
LỄ CÁC LINH HỒN
LỄ CÁC LINH HỒN
MỤC LỤC
LỄ CÁC THÁNH NAM
NỮ
1. Các thánh
2. Người khổng
lồ thiêng liêng
3. Hạnh phúc
thay
4. Các Thánh và
bổn phận nên thánh
5. Các Thánh
6. Các Thánh
7. Các Thánh nam
nữ
8. Các Thánh nam
nữ
9. Ơn gọi Kitô
hữu
10. Nên thánh
11. Nên thánh
12. Thánh thiện
13. Suy niệm của
Lm Nguyễn Tiến Huân
14. Nên thánh
16. Lễ các Thánh
nam nữ - Lm. Nhân Tài
LỄ CÁC LINH HỒN
1. Luyện ngục
2. Các linh hồn
3. Sống lại
4. Các linh hồn
6. Luyện ngục
7. Luyện ngục
8. Bên kia sự
chết
9. Lễ cầu nguyện
cho các linh hồn – JK
10. Các tín hữu
đã qua đời
11. Họ sẽ được
nhìn thấy Thiên Chúa
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
1. Các thánh
Nói tới việc nên
thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là
chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu
nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm
cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa
Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm
sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại
ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có
lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên
phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ.
Hơn nữa, có những thời
người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người
thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người
ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai
lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh.
Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một
cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan
niệm như thế nào về sự thánh thiện?
Tôi xin thưa: trong
Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công
trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các
thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được
Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức
để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón
nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên
Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự
thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc
đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên
Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác
rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá
trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có
thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường.
Thánh thiện Kitô giáo
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất
toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào
Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người
trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta.
Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm
thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi
như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ
mất Chúa thì không.
Ngày nay chúng ta cần
tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa
gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức
thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh
cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo
và bắt chước.
2. Người khổng lồ thiêng liêng
Ít năm trước đây, một
triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài
2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho
trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm
này.
Các viên chức thành
phố Rouen nước
Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống
từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen.
Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
2000 năm trước đây,
một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm
phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng,
không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu
việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng
thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta
thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các
Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại,
thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở
thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi
trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng còn một số đông
vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn
kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân
thương với chúng ta.
Điều gì làm các ngài
thành vĩ nhân?
Chúa Giêsu nói với
chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền
bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm. Các ngài hiền lành, hòa nhã,
ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý
cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
Các ngài có tâm hồn
trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm
đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với
chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
Lòng tốt của các ngài
đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị
nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô. Mỗi lần
chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường
thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa.
Để khuyến khích chúng
ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh.
Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa
để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù
chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên
siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc
Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính
trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành
bạn.
3. Hạnh phúc thay
Một người Pháp tên là
Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc
phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển
những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến
khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ.
Chương trình này tiến
hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống
vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài
giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật.”
Chúa Giêsu công bố
những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ
long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười
giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là
tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của
Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ:
ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt
vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có
tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…,
phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính…
Những người gặp khó
khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác
của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy
nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ
nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa
Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người
đem Tin Mừng Cứu Độ.” Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được
chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai
tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố
giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì
Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời
thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này
còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực
hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca
tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng.
Nước Trời, Nước Thiên
Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm
xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay
bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân
của Người.
Phúc cho người có tâm
hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất.
Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng
tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng.
Phúc cho ai than khóc,
họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai
có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập
mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu
phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là
con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết
thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận
hạnh Chúa hứa ban.
4. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm nay chúng ta mừng
kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người
được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước
trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
- Các ngài thuộc những
dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể
nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta.
Nhìn vào đời sống của
các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã
phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi
vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong
tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ
giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng
mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh
Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ
trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong
một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã
chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ
và nói với chúng ta rằng:
- Hãy tìm kiếm Chúa và
đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng
tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn
những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người
mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
- Mẹ sẽ rất vui mừng
nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã
giơ tay lên và nói:
- Con sẽ là một vị
thánh.
Đứa bé giữ lời hứa,
lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị
thánh.
Trở nên một vị thánh
không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là
kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua
tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung
thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập
đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc
đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc
cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một
cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia
nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp
đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ
nói được.
Cũng vậy trên con
đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm
mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của
bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là
một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần
thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi
ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là
những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không
phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn
gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong
tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh
Augustinô:
- Cậu nọ cô kia nên
thánh được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn
ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại
một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ,
đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ
mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời
gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta
tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt
vọng.
Năm ấy có một vị vua
lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngaon hơn những người đi trước. Trong thời gian trị
vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo
xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện,
biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi.
Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen:
- Ông vua này quả là
thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua
ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của
chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng
hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã
bảo:
- Việc hôm nay chớ để
tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
5. Các Thánh
Một viên tướng nọ rất
ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm
gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng
không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám
con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội
bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn
xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức
giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn
hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại
những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân
Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài.” Cứ thế, vị ẩn sĩ
trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng
rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy
đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị
Thánh ở giữa loài ngoài.”
Có lẽ, cái cảm tưởng
chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một
loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một
phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây
thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm
bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một
chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn
vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi
mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh
là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác
mọi người chúng ta? Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng
được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc
nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất
vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư
nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc
đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân
đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác
chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội
lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là
những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần
thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác
ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không
phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di
truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện
không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi
đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên
đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến
rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong
sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa
tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những
quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm
đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và
phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa
Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài
vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân
đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước
dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung
dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn
lành được.
6. Các Thánh
Hôm nay toàn thể Giáo
hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để
ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng
ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường:
“Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia
sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng
ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống
cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất
cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho
tất cả mọi người.
Cũng như mọi người,
các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được
khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu
cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng
như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ
tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của
ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà
thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta
thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc.
Có một em bé gái nọ,
lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách
bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt
đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất
trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào
đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi
lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em
nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua.”
Có lẽ không có một
định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh
sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy
mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm
các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị
thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên
Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến
viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những
hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất
nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên
Chúa cùng đi qua với các ngài.”
Cũng trong chuyến
viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các
thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô
đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy.” Các Ngài đã cứu Giáo hội
bằng chính sự yếu hèn của mình.
Qua cuộc sống của các
thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được
Thiên Chúa mời gọi để nên thánh.” Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài
chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường
ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát
vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo
hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa
Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng:
“Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh
phúc thực sự.” Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh
chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc.”
Trên thế giới này có
bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua,
các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu
cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng
sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà
chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có
một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con
đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua.
Ngài nói với chúng ta rằng: “ Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có
tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà
Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở
với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con
người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương.
Đó là con đường của
những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để
mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời.
Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc.
Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay
con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
7. Các Thánh nam nữ
Có một hiệp sĩ nọ bị
kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn
với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa,
nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh.
Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối,
người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công.
Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh
hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui,
mà anh chưa từng được nếm thử trong đời.
Anh ghé vào một ngôi
nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu
nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa
anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập
giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa
Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở
nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ
điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh
thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội,
cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho
một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của
tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và
tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì
tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của
Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở
nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã
được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã
rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả
đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là
chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên
những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
8. Các Thánh nam nữ
Sau 14 năm làm Giáo
hoàng, ĐTC Gioan Phaolô đã tôn phong 553 vị thánh, trong đó có 117 vị thánh tử
đạo Việt Nam, 103 vị thánh tử đạo Đại hàn, 25 vị tử đạo người Mehicô. Quả thực
cho đến nay trong lịch sử Giáo Hội chưa có vị Giáo hoàng nào phong nhiều thánh
như thế. Trước tình trạng này, có những nhà thần học cho rằng việc phong thánh
trong Giáo Hội đang bị lạm phát và các người được tôn phong không còn được
trọng kính như trước đây. Thế nhưng dưới ánh sáng của đoạn sách Khải huyền
trong thánh lễ hôm nay, lập trường của những nhà thần học này xem ra có vẻ hẹp
hòi.
Thực vậy, nên thánh
phải là một ơn gọi, một bổn phận của tất cả và của từng người kitô hữu như lời
Chúa đã nói: Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng
trọn lành. Mẹ Têrêsa Calcutta đã khai triển tu tưởng trên như sau: Sự thánh
thiện không phải là một cái gì xa xỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ,
nhưng bất kỳ người nào cũng có thể nên thánh bằng cách làm những công việc nhỏ
bé và chia sẻ niềm vui yêu thương cho hằng triệu người đang cảm thấy bi bỏ rơi
hất hủi và không được ai chăm sóc. Anh chị em có thể thay đổi cuộc đời họ bằng
những công việc đơn sơ như trao ban một nụ cười. Vậy các thánh là người như thế
nào?
Trong các nhà thờ cổ,
khi nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính người ta thường thấy hình
cácvị thánh với đủ mọi màu sắc. Một em bé nọ lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng
thăm một nhà thờ cổ như thế, trong khi các du khacc bị thu hút bởi những công
trình nghệ thuật thì em bé lại dán mắt vào chân dung của các vị thánh được ghep
bằng kính màu. Em ngạc nhiên nhưng lại không biết họ là ai? Và một du khách nào
đó đã giải thích cho em biết đó là các vị thánh. Tối hôm đó em đã nói với mẹ
rằng em biết ai là một vị thánh. Và em cho hay vị thánh là một người mà ánh
sáng chiếu xuyên qua. Có lẽ không một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị
thánh.
Phải, các người là
những con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua. Chính với
định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên để chiêm
ngưỡng các vị thánh được Giáo Hội tôn phong hay không được ai biết đến. Tất cả
các vị thánh đều là những con người luôn để cho ánh sáng tình yêu Thiên Chúa
chiếu xuyên qua mình, để soi tỏa cho mọi người chung quanh. Cũng trong chiều
hướng ấy, ĐTC Gioan Phaolô đã nói: Các thánh cũng là những con người yếu hèn
như chúng ta nhưng ánh sáng Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả những yếu hèn ấy
của thân phận con người. Qua cuộc sống của các ngài, Thiên Chúa gửi đến cho
chúng ta một tín hiệu, đó là tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Các
ngài là những
ngọn hải đăng, chỉ cho chúng ta thấy con đường đến với Chúa. Và con đường ấy
chính là con đường hann phúc, một hạnh phúc chân thật phù hợp với khát vọng cơ
bản nhất của lòng người.
9. Ơn gọi Kitô hữu
Trên một chuyến xe
lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới
xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ.
Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn
nói lên rằng:
- Không thể được, vì
đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng
đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên,
người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ kinh bỉ trước lập trường dứt khoát của
cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô
gái, trong đó cô gái đã viết:
- Tôi không hy vọng
rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực
quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là
một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải
hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất
nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là
để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia
đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả
những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và
mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể
họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất
quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ.
Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã
ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sữ
Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động
như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô
hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh
Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng
đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao?
Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ
khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của
giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại
hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người
Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta
chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm,
không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù
hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý
lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức
là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng
ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi
lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta
làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ
chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm.
Trong khi đó, chúng ta
sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất
kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải
lương…
Là Kitô hữu, chúng ta
là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống
Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn
chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban.
Đức Kitô là đường, là
sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và
yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu,
chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối
trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội
mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe
những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế
mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ
bạc…Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời
phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả
thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự
trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay
chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước
chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết
luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực
thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của
Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô:
Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?
10. Nên thánh
Có hai vợ chồng nhà
kia, lấy nhau đã nhiều năm mà vẫn không sinh được một mụn con nào. Năm ấy, có
một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đờ nhiều lần. Sau khi đã cho vị
tư tế ăn uống no nê, họ đã xin với ông: khi ngài lên đền thờ, thì làm ơn cầu
nguyện với thần minh cho chúng tôi có được một đứa con. Khi vụ tư tế lên đền
thớ, ông đã cầu nguyện cho họ như sau: Tâu lạy các thần minh, vợ chồng họ thật
tử tế với con, xin các ngài thương xót cho họ có được một mụn con đề vui cửa
vui nhà.
Một trong số các vị
thần đã trả lời cách nghiêm nghị và dứt khoát: Theo như số phận đã ấn định thì
họ sẽ không có con.
Năm năm sau, vị tư tế
đó lại lên đường hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có
hai đứa bé đang nô đùa trước cổng, ông ngạc nhiên hỏi: Con ai vậy. Người cha
đáp: Con chúng tôi đấy. Vị tư tế đang còn bỡ ngỡ thì người đàn ông giải thích:
năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì một vị nổi tiếng thánh thiện đã
đến làng này. Chúng tôi đón tiếp ông và hôm sau trước khi từ giã, ông đã chúc
lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành
đó. Nghe thế vị tư tế hối hả lên đền thờ và trách các thần minh: Tại sao các
ngài bảo tôi là số họ không con, thế mà bây giờ họ đã có những hai đứa? Một vị
thần nghe vậy đã mỉm cười và nói: Có lẽ một vị thánh nào đó đã làm thay đổi số
mệnh người đời.
Thực vậy, nếp sống
gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có thể làm thay đổi được cuộc đời của
những người chung quanh. Chúa Giêsu đã từng căn dặn những kẻ tin theo Ngài:
Chúng con phải sống thế nào để mọi người nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha
chúng con ở trên trời. Lời khuyên này hiện nay càng đúng hơn bao giờ hết, vì có
một thời người ta hâm mộ những lời giảng thâm thúy hùng hồn của các nhà truyền
giáo. Có một thời người ta cải tà qui chánh trước những điều kỳ lạ xảy ra trước
mắt.
Nhưng ngày nay người
ta sẽ tin Chúa nhiều hơn nhờ đời sống thánh thiện của những người tin Chúa. Đời
sống gương mẫu và thánh thiện của người kitô hữu có thể thay đổi được vận mệnh
của người khác. Từ không biết Chúa đến nhận biết, tôn thờ và yêu mến Chúa để
đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.
Đời sống đó còn có thể
thay đổi được cả vận mệnh của thế giới. Từ lòng tị hiềm ghen ghét, chiến tranh
và chém giết lẫn nhau đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau.
Đời sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có ảnh hưởng sâu xa tới niềm tin
của người khác và làm cho mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô được “hiển linh: cho
muôn dân trên toàn cõi địa cầu.
11. Nên thánh
Người ta kể lại rằng
trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh
thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho
thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ
những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh
nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy
thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp
sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa
giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm
được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ
luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có
nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi
người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một
vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn
ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và
phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi.
Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của
đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim
vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng
vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến
Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng
ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải
là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận
hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường
một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền
phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế.
Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị
Thiên Chúa tối cao.
12. Thánh thiện
Linh mục Anthony de
Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh
thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người
tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý
từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói
với anh:
- Trước khi nhận ngươi
làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời.
Đằng trước trung tâm
có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự,
người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng
sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của
nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và
trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh
thiện.
Lập tức, ông cho tập
trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công
khai bơi lội vừa hô lớn:
“Tung hô quyền năng
của ta, tung hô quyền năng của ta”.
Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào
tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là
quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình.
Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu
sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh
thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho
mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện
không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người
kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là
tên gọi của Chúa Kitô:” Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”,
bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh
thiện của Chúa Kitô bằng công thức:”Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và
chết trân thập giá”.
Đó cũng là lý tưởng
bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ:”Ai
tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ
tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa
đích thực của sự thánh thiện.
13. CÁC NGÀI LÀ AI VÀ TỪ ĐÂU TỚI?
Suy niệm của Lm Nguyễn
Tiến Huân
Trong thị kiến về
"những kẻ đã được niêm ấn" (tức là những kẻ thuộc về Thiên Chúa và ở
trong sự bảo vệ của Người) được tuyển chọn tới trước ngai Con chiên, Thánh
Gioan thấy số người đó thật đông đảo: "144 ngàn thuộc mọi chi tộc
Israel" và một đoàn người khác đông đảo không thể đếm được thuộc đủ mọi
nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng." Tất cả những người đó đều
"mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế" chiến thắng (Kh
7,2-9). Đoàn người đông đảo không thể đếm được đó là chính các Thánh Nam Nữ mà
chúng ta mừng kính trong ngày lễ đặc biệt hôm nay: Lễ Các Thánh.
Các ngài là những
người khi còn sống đã biết thực hiện tinh thần của Nước Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi hôm nay. Đó là Tám Mối Phúc Thật hay cũng
còn gọi là Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12).
Có những vị đã thực
hiện đức khó nghèo, khiêm nhường, nhỏ hèn (Mt 11,25; 18,2-4) vui nhận số phận
rốt hết (Mt 19,30). Tinh thần khó nghèo đó đã dẫn các ngài tới một đời sống
nghèo khó vật chất thực sự (Mt 6,19). Vì thế các ngài được Chúa chúc phúc và
trọng thưởng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước trời là
của họ" (Mt 5,3).
Nhiều đấng khác đã
sống đời hiền lành theo gương Chúa Giêsu (Mt 11,29) thì được Người khen tặng:
"Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được đất nước làm cơ nghiệp"
(c. 4). Và cứ thế, những vị đã sống đời ưu phiền, những kẻ đã "gieo trong
nước mắt" (Tv 126,5) thì nay được an ủi. Những kẻ đã đói khát sự công
chính thì nay được no đầy. Kẻ đã biết yêu thương người thì nay được Chúa thương
yêu. Những người đã sống đời trong sạch thì nay được nhìn thấy Thiên Chúa.
Những Thánh đã dùng tất cả đời mình để tác tạo hòa bình thì nay được gọi là con
Thiên Chúa. Và những đấng khi còn sống đã bị bắt bớ, bị bách hại vì Chúa như
các Thánh Tử Đạo Việt Nam
thì nay được khen tặng phần thưởng Nước Trời.
Các ngài đã sống khác
nhau, nêu những gương mẫu khác nhau như trăm hoa đua nở và "mỗi người một
vẻ, mười phân vẹn mười" (Kiều). Nhưng tất cả đều có một điểm chung giống
nhau là họ đã theo Chúa Giêsu mà chọn con đường Thánh giá đau khổ để tới vinh
quang và họ đã ra sức giữ gìn "chiếc áo trắng ngày Rửa tội" tinh
tuyền bằng Thánh sủng của ơn Cứu Độ: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao
mà đến, họ giặt và tẩy áo trắng trong máu Con chiên" (Kh 7,14). Mừng lễ
các Thánh, trước hết chúng ta ca tụng và cảm tạ Chúa vì những đặc ân và phần
thưởng Chúa đã ban cho các Thánh. Sau nữa, chúng ta cầu xin Các Thánh bầu cử
cùng Chúa cho chúng ta nhiều ơn lành để sống noi gương các Ngài và hẹn sẽ gia
nhập một trong tám đoàn người được Chúa chúc phúc hôm nay.
Lạy Chúa, tuần này con
quyết noi gương các Thánh thực hiện một trong tám Mối phúc thật mà Chúa đã công
bố trong bản Hiến chương Nước Trời hôm nay.
14. Nên thánh
Ngày kia, thánh Antôn
tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ
thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
- Tôi chỉ biết đóng
giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân
bèn hỏi lại:
- Nếu chỉ có thế, làm
sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng
giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải
thích:
- Tôi làm việc tám
giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa
cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thánh nhân hỏi tiếp:
- Còn về đức khó nghèo
thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
- Tài sản và lợi tức
của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người
nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa
cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì
mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày
mới chịu bật mí:
- Mặc dù tôi bố thí
một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy
cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa,
thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ
khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh
nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ
giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực
thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc
gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống
trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác
biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô
đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng,
mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua
vang.
Không có đức ái, không
có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng
hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
- Các con hãy nên trọn
lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình
yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà
Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình
yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho
người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của
bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải,
xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu
sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc
quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như
Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta.
Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài.
Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến
lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác,
bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó
chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
15. Niềm hy vọng hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA:
Mt 5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm
nay thật lạ lùng.
Khác hẳn với những gì
người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy
vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi
trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc.
Nhưng hầu như hạnh
phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho
ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải
chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó
đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì
cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy
vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời.
Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước
Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa.
Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy
vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính
là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta.
Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu
có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối
khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn
khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu
thương.
Tuy nhiên để đạt được
Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa
Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm
nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh
phúc.
Các thánh là những
người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo
trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng
hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần
gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén
những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh
là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng
ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của
niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn,
những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy
vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn
nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của
Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh
cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối
Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm
hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa
bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần
gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng
Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở
trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA
NHIỀU
1) Tám mối phúc của
Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi
cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây
dựng xã hội.
Bạn nghĩ gì về ý kiến
này?
16. Lễ các Thánh nam nữ - Lm. Nhân Tài.
“Anh em hãy vui mừng
hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân
hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta
càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi
suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của
mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con
người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những
khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì
chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn,
bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là
những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân
si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi
mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết
quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám
dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của
Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là
những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn
quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo
hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ.
v.v... nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời
sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó
chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong
chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là
những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương
Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có
nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người
khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia
vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi
còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn
được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô
xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết
thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác,
nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong
danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm
hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu
là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết
kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ,
bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng
sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ
giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều
là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì
chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi
của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các
thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên
đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc
sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha
thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng
ta.
LỄ CÁC LINH HỒN
1. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG
NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm
hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục?
Hai chữ luyện ngục mà
thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện.
Vào ngày phán xét,
chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh
hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi,
biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên:
- Lạy Chúa, con không
thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu
lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc
này, chúng ta cũng cảm thấy:
- Chưa bao giờ tôi đã
lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có
thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày
xưa?
Thì đây, luyện ngục sẽ
là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng
bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình
ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta.
Và khi hình ảnh ấy đã
trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta
sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế,
chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hột khi cho rằng:
- Hình phạt luyện ngục
thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ
cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút,
chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược
lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo:
- Thiên Chúa thật công
bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng
đả xác quyết:
- Ngươi sẽ không ra
khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự
công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô
cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự
công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những
phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ.
Từ đó, chúng ta thấy
được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở
luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở
luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn.
Và hình phạt đau khổ
nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai
và đang cố gắng tiến đến với Ngài.
Tuy nhiên, không phải
chỉ có thế. Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không
phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi
luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên
trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là
khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa:
- Luyện ngục là hỏa
ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác:
- Luyện ngục là thiên
đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại
còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày
kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện
ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải
tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người
chúng ta đang sống trong cuộc sống này:
- Đừng bình thản trong
tội lỗi.
Đồng thời cũng là một
thôi thúc:
- Đừng thất vọng trước
những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời
cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác
quyết:
- Cầu nguyện cho những
người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh
thiện và có giá trị cứu rỗi.
2. Các linh hồn
Một người Mỹ tên là
Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên
đàng.” Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những
người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư
trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào
để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh
thiên đàng.” Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người
nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển
giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam
kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển
chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì
mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng
chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng
tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước
Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là
đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên
chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được.
Nhưng còn đối với
chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức
liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối
dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc
mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều
khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên
đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa
thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà
đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo
phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ
thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên
hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình,
dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có
muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người
sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ
đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã
qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo
thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không
những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm
phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta,
những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của
mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng
khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi.
Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những
kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung,
trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động
thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu
của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi
toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã
qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà
cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ
đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm
quà mà gởi hay không mà thôi.
Và nếu những người
thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng
phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải
giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng
lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức,
tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc
lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được
các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến
tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa
với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời
chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm
ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm,
chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà
không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai
chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì
cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.
3. Sống lại
Trong tháng 11 là
tháng dành riêng để cầu nguyện cho người chết, chúng ta cũng được mời gọi để
suy niệm về sự chết.
Tác giả Elizabeth
Khoctheoros, một chuyên gia tâm lý về cái chết đã phát biểu trong buổi khải
giảng tại một trường học ở Mỹ như sau: “Ở cuối đời chỉ có một điều thực sự đáng
kể là phải tự hỏi rằng mình đã có can đảm để sống không?”
Phải tự hỏi mình có
can đảm để sống không? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ sự chết và
nhất là sợ chết. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời,
chết là một hành động phản tự nhiên nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống.
Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh
nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta.
Trong ngôn ngữ thông
thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết, người chết được gọi là
người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi
trước chúng ta.
Nhưng muốn hay không
cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta, chúng ta chứng kiến
không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, chúng ta chứng kiến cái
chết qua các qua cái phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người
không có niềm tin, cái chết quả là một phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối
với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó
là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết.
Cái chết mang lại ý
nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng bên kia cái chết cuộc sống vẫn
tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy
vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay mời
gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về
sự sống lại, chính Ngài là sự sống lại, sự Phục sinh của Ngài là bảo chứng của
cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục sinh của Ngài
mà niềm của chúng ta được xây dựng.
Thật thế, như lời
thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không
sống lại thì Đức tin của chúng ta thật là hão huyền.” Niềm tin vào sự Phục sinh
mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta, với niềm tin Phục sinh chúng ta tìm
được can đảm để sống, mặc dù có trải qua nghịch cảnh thử thách, khổ đau; với
niềm tin Phục sinh chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.
Tháng 11 chúng ta
không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn
là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được
dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta. Đây chính là nguồn
diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại.
4. Các linh hồn
Tục ngữ Việt Nam có
câu: Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay: con ai
chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông. Hai chữ cội nguồn đã mang
lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai
sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ. Theo tháng năm,
từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đâu đâu cũng vang lên giai điệu về chữ hiếu
như là lời báo đáp và ghi ơn tổ tiên mình.
Chính vì thế, hàng năm
Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để tưởng nhớ những người quá cố, để
sống lại đạo làm con. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành xin lễ cho ông
bà tổ tiên, viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày đầu
năm, Giáo Hội Việt Nam
đã dành ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Hòa lẫn với chủ đề
kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cũng đã nhắn gửi tới từng người con phải biết yêu
chuộng ý nghĩa thiêng liêng cao cả: con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ
mà ghi tâm.
Cũng thế, anh em Phật
giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu.
Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không
quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, người ta thể hiện lòng hiếu đó
bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc
đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen
thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó,
bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là
cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…
Còn ở Tây phương,
người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng
lên thành đạo. Thế nhưng họ có những ngày mà người Việt Nam chúng ta chưa có. Họ đã chọn ra
hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là ngày của
mẹ (mother’s. day) vào ngày chúa nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha
(father’s day) vào ngày chúa nhật thứ ba trong tháng sáu.
Quả là đã mang trong
mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất
cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh
thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu
sắc, đối với cácbậc tiền nhân.
Vì thế, chúng ta cùng
nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu
nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc
đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người.
5. Nghĩ về sự chết - ĐGM Bùi Tuần
Tôi biết là có ngày
tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân
lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi. Cái chết cũng
là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi
là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc
đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý
thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời
theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh
những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả
lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý.
Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc,
cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác
thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc
khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái
nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn,
những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những
ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một
tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện
tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc
ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm.
Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm
làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều
điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những
điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là
người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn
gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không.
Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người
xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn
Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã
có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với
những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được
trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy
những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ
không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước
sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ
ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng,
vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ,
chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên
đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết
của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết
của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó. Để đi
đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu
Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng
nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm
người và ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Điều quan trọng tôi sẽ
hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh
luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được
trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống
cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết
của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền
giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương
này, ở thời điểm này.
Nghĩa là một địa
phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe
hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều
sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra
cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện
hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết
của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi
nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng
con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34). Để
hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây
của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết
rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em.
Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là
kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại
trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô
đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng
vì anh em.
Nếu ai có của cải thế
gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì
làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những
người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải
yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ
biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt
Thiên Chúa"(1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta,
chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai
nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được
từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga
4,19-21)
Khi tôi sống với những
hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ. Nhiệm vụ
được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác
và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có
lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt.
Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm
cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại. Khởi sự từ quyết
tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn
các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón
nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế
là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại
những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu
thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang
sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết
là phải chết thôi.
6. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng
như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người
quá cố một cách kính cẩn.
Ngày xưa, người ta
thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài
điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những
câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng
ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến
người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi
chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong
một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống
cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ:
- Nếu luyện ngục là
như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta
liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra
hiệu và tuyên bố:
- Hết giờ nghỉ xả hơi
rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta
bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục
không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo
lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên
trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện
ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do
đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương. Một ông cụ
luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế
nhưng, một người con của cụ trả lời:
- Không cần đọc nhiều,
mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại:
- Lên thiên đàng, thì
chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm
rồi.
Thực trạng bất toàn
của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ
mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của
Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh
sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa,
khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh
thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp
nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài. Đối với các linh
hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu
đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ.
Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng
được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật,
mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi
của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi
vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình
cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong
niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời
kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các
ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp
công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
7. Luyện ngục
Nói tới luyện ngục,
hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người vào đó
sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày ra. Buồn vì số người vào đó chắc chắn là đông
đảo. Hay nói một cách khác: mấy ai sẽ thoát được lửa luyện tội?
Ngay từ xa xưa, Giáo
Hội vẫn tin rằng những người đã chết trong tình trạng ơn nghĩa cùng Chúa, nhưng
còn vướng mắc những tội nhẹ, hay chưa đền bù hết những hình phạt tạm bởi tội,
sẽ phải vào luyện ngục đền bù cho xong, rồi mới được lên thiên đàng, hưởng hạnh
phúc muôn đời cùng Chúa. Cựu Ước đã đề cập tới luyện ngục khi ghi lại hành động
cao đẹp của ông Macabêô, khi ông quyên tiền gửi về Giêrusalem để dâng của lễ
xóa tội cho một số anh em binh lính đã chết, mà lúc còn sống đã mang trong mình
những ảnh tượng ngẫu thần, là điều mà lề luật Do Thái ngăn cấm.
Chúa Giêsu trong Tin
Mừng cũng đã nói về luyện ngục:
- Hãy liệu làm hòa với
kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt
quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống vào
ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi
trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,25).
Ra khỏi đó, không phải
là ra khỏi thiên đàng, vì thiên đàng không phải là nơi đền bù tội lỗi. Ra khỏi
đó, cũng không phải là ra khỏi hỏa ngục vì một khi đã rơi vào hỏa ngục, thì đời
đời không bao giờ ra được nữa. Như vậy, ra khỏi đó chỉ có thể hiểu là ra khỏi
luyện ngục mà thôi.
Tuy nhiên, việc ra khỏ
đó lâu hay mau, còn tùy thuộc vào thời gian đền bù. Thật vậy, khi người ta cố
tình phạm một tội trọng, thì đã đáng phải sa hỏa ngục. Thế nhưng, vì thật lòng
ăn năn, nên tội trọng đó đã được tha, án phạt trầm luân đời đỡi đã được xóa bỏ,
nhưng hình phạt tạm, nếu chưa được xóa bỏ hết, thì người ta vẫn phải đền ở đời
này, hoặc đời sau trong luyện ngục.
Những linh hồn trong
luyện ngục phải chịu đau khổ, nhưng không còn lập được công như khi còn sống ở
trần gian, bởi vì thời gian lập công đã hết. Các ngài phải chịu đau khổ, nhưng
lại không thểu tự cứu lấy mình được. Các ngài phải ở đó cho tới khi trả hết
đồng xu cuối cùng.
Do đó, hình phạt ở
luyện tội lâu hay mau còn tùy ở tội lỗi và sự đền bù của mỗi người. Tuy nhiên,
những người còn đang sống vẫn có thể dâng những lời kinh, những hy sinh và
những thánh lễ, để xin Chúa sớm giải thoát những linh hồn nơi luyện ngục, trong
đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu. Những người
thân quen này, rất có thể vì yêu thương chúng ta, mà đã không tuân giữ những
điều Chúa truyền dạy. Đồng thời chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các linh hồn
mồ côi không ai tưởng nhớ đến.
Thế nhưng trước hết và
trên hết, chúng ta hãy cố gắng cải thiện đời sống, xa tránh tội lỗi, thực thi
những việc bác ái yêu thương, để chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục, cũng như
để bản thân chúng ta cũng được giảm bớt thời gian thanh luyện sau khi chết.
8. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối,
thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con
một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh.”
Có lẽ nhiều người
trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi
miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa
mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống
thiết ấy.
Cần được thương, cần
được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang
đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn
chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất
lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp
đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối
tình thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ
nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những
thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng
kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và
mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp
thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội
đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho
những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một
việc lành thánh....”
Nói về sự bầu cử của
các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện
diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không
ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha....” Sự trao đi nhận lại đó vừa là một
việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội
thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một
mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang
nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những
người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự
sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết
đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết...
Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu
mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và
cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình
Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người
liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử
của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy
sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi
một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn
thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.
Yêu thương chính là
tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của
chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá
cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy
vọng cho chúng ta.
9. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
TIN MỪNG: Lc
23,33-34.39-43
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không
muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh
luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện để
nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự
trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
3) Người gian phi đầy
tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay?
Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ?
bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người
Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng
11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người
quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở
nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa
đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi
là "Thanh Luyện"“ (DS 856
464).
Mục đích của việc
thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình
thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa.
Thiên Đàng đòi hỏi một
sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một “nơi” hoàn toàn hạnh phúc,
hoàn toàn thánh thiện, là “nơi” chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời.
(Gọi là “nơi” thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa
ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng
tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn
hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện.
Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác,
xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi
người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về
phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng
thì phải thật trọn hảo.
Thật vậy, thử hỏi, khi
trở về “nơi” lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi
phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây
giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn
hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản
thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn
hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của
Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng
nữa.
Do đó, Thiên Đàng đòi
hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì
xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là
“luyện ngục”.
3- Tội lỗi hay tính vị
kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa
không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống
chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài
không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi
những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh
Gioan viết: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta”
(Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải
tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát
sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên
thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính
ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để
tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong
việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng
chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi
những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi
chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không
quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân
sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải
đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn
gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn
tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy
tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới
hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu
đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: “Anh chỉ thiếu có
một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho
tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết
yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức
được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải
sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong
bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong
cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ
nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: “Chúng ta chịu như
thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì
trái!.” Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay,
anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng
cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt
lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô:
“Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ
vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người
trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền
kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục.
Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những
người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài
thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện
sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ
đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế
xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia
thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện
trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính
tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ
tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp
bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu,
khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay
cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì
lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên.
Lúc ấy những đau khổ
tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn
tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi.
Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm
này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất
vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và
được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà
lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi
mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là
thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi
phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau
khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy
hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận
mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia
đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác,
tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi
nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì
tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên
mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là
kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra
ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi
người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan
nói: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ
hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu
hoàn hảo” (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con
không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và
khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa.
Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy
bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà
con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
10. Các tín hữu đã qua đời
Trong thánh lễ cầu cho
những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho
các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các
linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa
như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc
vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo
lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người
công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không
bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ
như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không
bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường.
Linh hồn vấp phạm đã
được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật
là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những
thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình
phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy. Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một
tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin
với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi
nhận:
- Rất nhiều linh hồn
đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong
tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không
muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy
sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình
trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài
hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh
hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không
ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước
một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh
hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên
đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong
sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù
gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các
ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu
trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt
ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ
các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện
cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những
bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi
ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên
lãng.
Cách đây không lâu cha
sở vùng Bretagne
là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất
ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng
của ngài.
Ngài đã nói với các em
nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho
các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện
ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi
xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện
cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán
xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt
với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn,
hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
11. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang
chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học
hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với
những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên
trời sống với Ta.”
Rồi linh mục hõi một
em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói
gì với họ?” Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi
khác.”
Linh mục nói tiếp:
“Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng
không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời
theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các
con.”
Câu chuyện này làm nổi
bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn
hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn
còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để
lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi
họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân
lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh
hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này,
cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ
“luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính
Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài
nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về
một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra
khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về
những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ
như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho
thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho
người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo
đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành
thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không
thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có
thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có
thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ
được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành
thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng
cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện:
“Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an
nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.”
Xin Chúa chúc lành cho
các bạn.