Tìm hiểu Lời Chúa _ thứ sáu tuần 25 thường niên

THỨ SÁU SAU CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN
NĂM CHẴN
Gv 3, 1-11; Lc 9, 18-22
BÀI ĐỌC: Gv 3, 1-11
1 Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: 2 một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; 3 một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy; 5 một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;6 một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; 7 một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; 8 một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà. 9 Làm lụng vất vả thì được lợi lộc gì?10 Tôi nhìn thấy công việc mà Thiên Chúa giao cho con người phải gắng sức làm. 11 Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.
ĐÁP CA: Tv 143
Đ.  Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn. (c 1a)
1a Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, 2 Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp,
3 Lạy Chúa, con người có là chi, mà Chúa cần biết đến? Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa phải lưu tâm? 4 Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mc 10, 45b
Hall-Hall: Con Người đến để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Hall.
TIN MỪNG: Lc 9, 18-22
18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai? "19 Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.”20 Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.”21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
22 Người còn nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”

CĂN CƯỚC NGƯỜI KITÔ
Khi dân Do Thái được vua Cyros giải phóng thoát nô lệ Babylon và được hồi hương tái thiết đền thờ Giêrusalem. Chúa phán qua trung gian ngôn sứ Khaggai rằng: “Ngươi hãy nói với tổng đốc xứ Giuđa là Zơrubbabel: “Ai trong các ngươi, trong số người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế nào? Hỡi Zơrubbabel, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Giê-su-a mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên, hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các ngươi, các ngươi đừng sợ, chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất, biển khơi và đất liền, các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang, vinh quang của Đền Thờ lúc này sẽ rạng ngời hơn khi trước, tại nơi này Ta sẽ tặng bình an” (Kg 1, 15b - 2, 9: Bài đọc năm lẻ). Bởi thế dân Thiên Chúa cùng hô: “Hãy trông cậy Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Đấng Cứu Độ là Thiên Chúa của tôi” (Tv 43/42, 5bc: ĐC năm lẻ).
Tuy đền thờ Giêrusalem được tái thiết sau lưu đày lộng lẫy hơn Đền Thờ trước, nhưng đó chỉ là dấu nói về Đền Thờ con người do Chúa Giêsu xây dựng bằng Máu Thịt Ngài. Còn “ở dưới bầu trời này mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười…”  (X. Gv 3, 1-8: Bài đọc năm chẵn).
Nhìn thế giới và cuộc đời đổi thay như thế, thì “lợi ích gì cho những người làm lụng vất vả?” Nhưng mọi vất vả của con người chỉ gọi là việc lành, được tồn tại muôn đời, có giá trị góp phần vào ơn cứu độ để tôn vinh Thiên Chúa, nhờ Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu (X. Rm 11, 36; Cv 5, 39).”Đây là công việc của Thiên Chúa giao cho con người phải gắng sức tiếp tục làm. Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử” (Gv 3, 9-11: Bài đọc năm chẵn). Bởi vì ta tin rằng “chỉ có Chúa là Núi Đá cho con trú ẩn” (Tv 144/143, 1a: ĐC năm chẵn).
Vậy để biết rõ về căn tính của mình, mỗi người phải tự phản tỉnh bản thân, như triết gia Socrate suốt đời chỉ rao truyền một chân lý: “Hãy tự biết mình”.
Thực vậy, cả đến Đức Giêsu sau khi đã cầu nguyện, Ngài hỏi các môn đệ: “Theo như dân chúng nói, thì Thầy là ai?” Đáp lại, họ thưa: “Gioan Bt; nhóm khác là Êlya, nhóm khác nữa là một tiên tri thời xưa đã sống lại” (Lc 9, 18-19: Tin Mừng).
I- Người ta bảo Đức Giêsu là ông Gioan Bt: Vì đời sống của ông Gioan Bt đã diễn tả đời sống của Đức Giêsu:
1- Thống nhất chương trình hành động: Ông Gioan và Đức Giêsu đều mở đầu lời giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3, 2 = Mt 4, 17).
2- Cùng kêu gọi sám hối và sống có nhân bản:
- Ông Gioan nói với những người đến với ông: “Đừng bóc lột ai, đừng xách nhiễu, đừng vu khống cho ai” (Lc 3, 12-14).
+ Đức Giêsu kêu gọi mọi người: “Hãy kíp thỏa thuận với đối phương…” (Mt 5, 25-26).
3- Cùng kêu gọi làm lành:
- Ông Gioan nói: “Hãy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải!” (Mt 3, 8)
+ Đức Giêsu đòi hỏi những người đã ý thức mình thuộc về Thiên Chúa: “Phải luôn làm lành bất cứ thời điểm nào”, như cây vả lớn chưa đến mùa trái mà Đức Giêsu đến đòi hái trái, nó không có trái, Ngài liền nguyền rủa nó chết khô!” (Lc 13, 6-7).
4- Cùng kêu gọi chia sẻ:
- Ông Gioan nói: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có một cái” (Lc 3, 11)
+ Đức Giêsu dạy người giàu có: “Muốn được sự sống đời đời thì hãy đem của chia sẻ rồi theo tôi” (Lc 18, 32).
5- Cùng sống nghèo để thực hành sứ mệnh Chúa trao:
- Ông Gioan vốn dĩ là con nhà tư tế giàu có, nhưng ông lại mặc áo lông lạc đà, ngang lưng thắt xiêm bằng da thú, ăn chấu chấu và mật ong rừng (Mt 3, 4).
+ Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa giàu có, thế mà lại nói với kẻ muốn theo Ngài: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người (Đức Giêsu) không có nơi ngả đầu” (Lc 9, 57-58).
6- Cùng tìm vinh quang cho Thiên Chúa nên sống khiêm tốn:
- Ông Gioan nói: “Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại” (Ga 3, 30).
+ Đức Giêsu trả lời cho những người Do Thái muốn giết Ngài: “Ta không tìm vinh quang cho Ta” (Ga 8, 50); “Ta chỉ lo làm vinh danh Cha Ta” (Ga 12, 28).
7- Cùng răn đe cảnh cáo:
- Ông Gioan nói: “Cái rìu đã để sẵn gốc cây, cây nào không sinh quả hãy chặt phăng quăng vào lửa” (Mt 3, 10-12).
+ Đức Giêsu báo trước về cảnh phán xét loài người trong ngày cánh chung: “Ai không biết chia sẻ cho kẻ bé mọn thì phải vào lửa đời dành cho ma quỷ và những kẻ theo nó” (Mt 25, 31-46).
8- Cùng chết vì chân lý:
- Ông Gioan cản vua Hêrôđê không được cướp vợ của anh làm vợ mình, nên ông bị cắt đầu (Mt 14, 12-13).
+ Đức Giêsu chỉ dạy mọi người hãy tránh tội và làm lành, thế mà Ngài bị đóng đinh treo trên thập giá (Ga 18-19).
II- Người ta bảo Đức Giêsu là ông Êlya: Vì chính Đức Giêsu tự nhận Ngài là hiện thân ông Êlya cũng như ông Êlysê (Lc 4, 25-27). Bởi lẽ tinh thần của Đức Giêsu và ông Êlya đều dứt khoát và nóng bỏng như lửa. Do đó người môn đệ Chúa yêu (Gioan) muốn Đức Giêsu tung lửa đốt thành Samari, như ông Êlya xin lửa trời thiêu rụi những kẻ đến bắt ông (2 V 1, 10-12 = Lc 9, 51t).
Như thế người ta nói Đức Giêsu là ông Gioan Tẩy Giả, hay là ông Êlya, hoặc một ngôn sứ nào tái xuất hiện (Lc 9, 19: Tin Mừng), thì đều chung một ý: Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa đến công bố Lời, và Ngài có sứ mệnh giải phóng dân khỏi quyền lực sự ác thống trị, quan trọng hơn sứ mệnh ông Môsê giải phóng dân tộc Do Thái thoát nô lệ Ai Cập, vì Đức Giêsu đến làm ứng nghiệm Lời Chúa nói với ông Môsê: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Dnl 18, 18).
Những nhận định nơi quần chúng về Đức Giêsu như thế, chỉ mới diễn tả Ngài là sứ giả của Thiên Chúa sai đến loan báo Lời, họ chưa biết rõ về căn tính của Ngài, nên Ngài hỏi các môn đệ: “Còn chúng con, chúng con nói Thầy là ai?” Ông Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”(Lc 9, 20: Tin Mừng). Lời tuyên xưng Đức Tin của ông Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai nhằm minh chứng: Chúa Giêsu đáp ứng khát vọng những người trông đợi Đấng đến ban Lời giải phóng khỏi cảnh nô lệ, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Đó là lý do Ngài báo trước về cuộc Tử Nạn: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.” (Lc 9, 22: Tin Mừng). Ngài chết để diễn tả tình yêu tuyệt vời nhằm giải phóng loài người thoát ản tử vì tội đã phạm. Nhưng Đức Giêsu lại cấm các môn đệ đừng nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô của Thiên Chúa, vì ba lý do:
1- Nếu để người Do Thái tung hô Ngài là Đức Kitô: là Đấng được Thiên Chúa xức dầu sai đến lãnh đạo dân, đánh đuổi đế quốc Roma giành độc lập (X. Cv 1, 6), thì tạo cớ cho Roma gây khó dễ trong sứ mệnh của Ngài, hoặc tìm cách tiêu diệt Ngài, vì dân trông cậy Ngài đến giải phóng họ khỏi ách thống trị Roma, thì không đúng với sứ mệnh của Ngài.
2- Lời tuyên xưng Đức Tin của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, theo ông Luca ghi chưa trọn hảo, vì ông muốn nói rằng: chỉ qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, Ngài mới lãnh nhận Vương quyền nơi Chúa Cha, “Danh Ngài trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, để khi vừa nghe danh thánh Giêsu cả trên trời dưới đất và trong nơi Âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (X. Pl 2, 6-11).
3- Kinh Thánh nói: “Đừng khen ai có phúc trước khi họ lìa đời, vì nhìn vào con cái người ta sẽ biết họ” (Hc 11, 28). Bởi vậy, chính những người Công Giáo phải nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi đối với Chúa Kitô” (1Cr 11, 1), mới làm cho nhân loại biết chính xác về Chúa Giêsu, để trong Chúa Giêsu Phục Sinh ta mới được cấp căn cước chính thức về mình, chứ đừng để khi nào ta hỏi bạn: “Người ta nói gì về tôi?” Thì lại nghe câu trả lời:
- Người đang phê bình bạn ăn nói chua như dấm, vì miệng bạn mở ra chỉ là “cay chua, gắt gỏng, la lối, chửi rủa, thóa mạ!”
- Có người bảo bạn là tên xì-ke!
- Người khác bảo bạn là tên ăn tục nói phét!
Mùa Chay năm 2009, tôi được mời đến giảng Tĩnh Tâm tại Nhà Thờ ở tiểu bang Lousiana (Hoa Kỳ). Trong bữa cơm dùng với cha Sở, ngài kể cho tôi nghe:
Có lần tôi về thăm quê VN, vào gặp một giáo sĩ có địa vị trong địa phận Saigon. Giáo sĩ ấy hỏi tôi: “Bên Mỹ người ta nói tôi thế nào?” Tôi đáp: “Họ nói anh ba điều: anh đẹp trai, anh học giỏi, vì anh rất thông minh, đúng với tên của anh, cuối cùng người ta nói anh là đảng viên Cộng sản thứ thiệt!” Như thế giáo sĩ ấy đã đánh mất căn cước của mình, đáng lẽ mọi người phải nói: Anh là giáo sĩ giống cha Gioan Vianey, để dẫn mọi người đến với Đức Giêsu Mục Tử, vì Ngài nói: “Con Người đến để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45b: Tung Hô Tin Mừng), thì mới đúng là căn cước một giáo sĩ Công Giáo.
THUỘC LÒNG
Ngoài Chúa Kitô Giêsu chịu đóng đinh, tôi không muốn biết điều gì khác! (1Cr 2, 2).
http://phaolomoi. net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH