THỨ
BA SAU CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN
NĂM
CHẴN
Cn 21, 1-6. 10-13; Lc 8, 19-21
BÀI ĐỌC: Cn 21, 1-6. 10-13
1 Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước
chảy, Người lèo lái đi đâu tuỳ ý Người. 2 Con người cho lối sống của
mình là ngay thẳng, nhưng Đức Chúa thấu suốt mọi tâm can. 3 Thực thi
điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ. 4
Mắt kiêu hãnh, lòng tự cao, vẻ hào nhoáng của ác nhân: thảy đều là tội lỗi. 5
Kế hoạch người siêng năng hẳn tạo ra lợi nhuận, ai vội vàng hấp tấp, ắt phải
chịu đói nghèo. 6 Kho tàng thu tích nhờ môi miệng điêu ngoa là hơi
thở thoáng qua, là bẫy làm thiệt mạng.
10 Lòng ác nhân ước ao sự dữ, ngay bạn bè, nó
chẳng để mắt thương. 11 Phạt đứa ưa chế giễu, kẻ khờ dại nên khôn, dạy
bảo người khôn, người khôn càng hiểu biết. 12 Đấng Công Chính xem
xét nhà của ác nhân, bắt ác nhân lâm vòng tai hoạ. 13 Kẻ bịt tai
trước tiếng kêu của người cô thế, đến lúc nó kêu, sẽ chẳng được đáp lời.
ĐÁP CA: Tv 118
Đ. Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn
con đi. (c 35a)
1
Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời.
27
Đường lối huấn lệnh Ngài, xin cho con hiểu rõ, để con suy gẫm những kỳ công của
Ngài. 30 Đường chân lý, này con đã chọn, quyết định của Ngài, con
khao khát đợi trông.
34
Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ. 35
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó. 44
Luật pháp Ngài, con nguyện hằng tuân giữ tới muôn thuở muôn đời.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 11, 28
Hall-Hall: Phúc thay
kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Hall.
TIN MỪNG: Lc 8, 19-21
19 Khi ấy, Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người,
mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. 20 Người ta
báo cho Người biết: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn
gặp Thầy.”21 Người đáp lại: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là
những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
A. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC
Nhiều người Công Giáo không nắm vững Giáo Lý, nên thường bị anh
em Tin Lành tấn công về chuyện Đức Mẹ đồng trinh. Họ thường dựa vào những Lời
trong Kinh Thánh để phủ nhận Đức Maria không đồng trinh. Cụ thể
- Khi Đức Giêsu đang
giảng dạy có Mẹ và anh em Ngài đến tìm gặp Ngài (x Lc 8, 20; Mc 3, 31): anh em
Tin Lành cho là Đức Giêsu còn có nhiều anh em ruột.
- Bà Maria sinh Con đầu
lòng (x Lc 2, 7): anh em Tin Lành cho là còn có những người con khác.
- Giuse và Maria không
ăn ở với nhau cho đến khi sinh Con (x Mt 1, 25): anh em Tin Lành tin là Đức
Maria chỉ đồng trinh cho tới khi sinh Đức Giêsu mà thôi, và sau đó vẫn sống đời
vợ chồng với thánh Giuse.
Đức Tin Công Giáo thì tin Đức Maria là Đấng trọn đời đồng trinh,
vì những lý do sau:
1/ Anh em của Đức
Giêsu:
a.
Từ
anh em trong Kinh Thánh dùng, tiếng Do Thái là “Ăch”, tiếng Hy Lạp là
“Adelphoi”. Từ này hiểu chung cả về anh em ruột cũng như anh em họ, như ngôn
ngữ Việt Nam: con chú gọi là em, con bác gọi là anh. Thực vậy, ông Abraham là
chú của Lót, mà Abraham gọi Lót bằng từ “Ăch” (hoặc Adelphoi) [x St 13, 8; 14, 12;
29, 10].
b.
Về những anh em của Đức Giêsu là ông Giacôbê, ông
Giôsê, ông Giuđa, ông Simon (x Mc 6, 3), thì cũng chính ông Marco cho chúng ta
biết ông Giacôbê, ông Giôsê con của bà Maria khác (x Mc 15, 40). Như vậy rõ
ràng ông Giacôbê và ông Giôsê là những người anh em họ hàng với Đức Giêsu mà
thôi.
c.
Trong sách Lêvi, tiếng anh em vẫn được dùng để
chỉ những người có họ xa: “Ông Môsê gọi các ông Misaên và Ensaphan, con ông
Útdiên là chú ông Aharon, và bảo họ: “Các chú lại đây, khiêng các người anh em
của các chú từ nơi thánh ra ngoài trại” (Lv 10, 4).
d.
Trước lúc tắt thở, Đức Giêsu trao Mẹ Ngài cho
môn đệ Gioan (x Ga 19, 25-27). Về mặt tâm lý và nhân bản, nếu Đức Giêsu còn
những em ruột, thì Ngài không thể làm như thế được, mà ông Gioan là em của ông
Giacôbê, hai anh em cùng là con ông Zêbêđê (x Mt 10, 2).
2/ Con đầu lòng.
a.
Thánh sử Luca ghi “bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì
hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2, 7). Con đầu lòng ở đây,
ông Luca không có ý nói còn có những người con khác, mà ông muốn nhấn mạnh gia
đình Nazareth rất cẩn thủ giữ Luật Môsê, nên con đầu lòng buộc cha mẹ phải dâng
cho Thiên Chúa (x Xh 13).
b.
Tại Tel el Yahudieh thuộc nước Ai Cập, trên mộ
của người phụ nữ Do Thái trước Chúa Giáng Sinh, có ghi câu diễn tả tâm tình
người mẹ: “Khi tôi phải đau đớn sinh con
đầu lòng, số phận đã đưa tôi sang cuộc sống khác”. Bởi thế câu này phải
hiểu sau khi sinh đứa con đầu lòng, người phụ nữ này không thể có người con
khác, vì đã chết. Con đầu lòng đối với người Do Thái còn có ý nhấn mạnh được
hưởng gia tài gấp đôi người em, nếu có, hoặc có nghĩa là gia tài của cha mẹ
thuộc trọn về người con này, nếu không có anh em khác (x Dnl 21, 17).
3/ Thành ngữ “cho đến
khi”.
“Ông không ăn ở với bà cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là
Giêsu” (Mt 1, 25).
“Cho đến khi” là một thành ngữ trong Thánh Kinh để nhấn mạnh
về một điều gì đã có, đang có và không
bao giờ mất! Vì dụ
- Trước khi Chúa Giêsu
về Trời, Ngài ra lệnh cho các môn đệ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài…
và Ngài hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20). Có nghĩa là Đức Giêsu đã từng ở với các
môn đệ, Ngài đang hiện diện với các ông và không bao giờ lìa xa họ. Thế thì câu
Mt 1, 25 nhấn mạnh ông Giuse và bà Maria đã không ăn ở với nhau và không bao
giờ ăn ở với nhau, minh chứng Đức Maria đồng trinh.
- Bà Mikhan, con gái vua
Saolê không có con cho đến ngày chết (x 2Sm 6, 23), thì không lẽ sau khi chết, bà
sinh con ư?!
4/ Sự đồng trinh của
Đức Maria.
a. Xét
về nguồn gốc bản văn Kinh Thánh, lời ngôn sứ Isaia chương 7 câu 14 tiên báo về
Đấng Cứu Thế: “Một người nữ sẽ sinh con”.
- Người nữ này ngôn ngữ
Do Thái là “Almah”. Almah không nhất thiết là một phụ nữ đồng trinh hoặc đã mất
trinh. Almah chỉ có nghĩa chung là một cô vợ trẻ, hoặc cô gái đến tuổi dậy thì.
Thế thì cô vợ trẻ hay cô gái đến tuổi dậy thì cũng không tất yếu hiểu còn trinh
hay mất trinh.
- Nhưng bản văn bằng
tiếng Do Thái, khi dịch sang tiếng Hy Lạp, thời Đức Giêsu và các Tông Đồ sử
dụng bản văn này, thì lại xác định rõ: Cô vợ trẻ đó là một trinh nữ
(Parthenos). Dịch như thế là dựa vào lối giải thích từ tiếng Do Thái theo
trường phái Alexandria (theo Bible Giêrusalem). Như vậy bản văn Hy Lạp xác định
truyền thống giải thích từ “Almah” với ý nghĩa rõ rệt là một trinh nữ, để chỉ
người mẹ của Đấng Emmanuel.
b. Xét
về mặt Thần học, Đức Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh: Maria sinh Đức Giêsu là
Đầu Hội Thánh; còn Hội Thánh sinh các Kitô hữu là chi thể trong Thân Mình Mầu
Nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Hội Thánh sinh con Thiên Chúa qua Bí tích không liên hệ
với người trần thế nào. Do đó Hội Thánh được gọi là một cộng đoàn trinh nữ (x
Mt 25, 1-13), thì Đức Maria cũng phải hiểu là một trinh nữ trọn đời như Hội
Thánh.
c. Thánh
Irênê nói: “Adam thứ nhất được sinh ra bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác);
Adam cuối cùng (Đức Giêsu) được sinh ra bởi Mẹ đồng trinh.”
B.
GIÁO HUẤN
XÁC
THỊT KHÔNG SINH ÍCH GÌ,
THẦN KHÍ MỚI LÀM CHO SỐNG
THẦN KHÍ MỚI LÀM CHO SỐNG
(Ga 6, 63)
Vì quá đông người đang ngồi vây quanh Đức
Giêsu để nghe Lời Ngài dạy, nên Đức Maria và những người trong họ hàng của Ngài
đến không thể gặp Ngài được, họ phải nhờ người ta chuyển lời nhắn đến Ngài mà
rằng: “Kìa mẹ Thầy và anh em Thầy đang tìm Thầy ở ngoài”. Đức Giêsu không trả lời, mà hỏi
lại: “Ai là mẹ Ta và là anh em Ta?” Rồi Ngài chỉ vào những người ngồi
quanh Ngài và nói: “Này là mẹ Ta và là anh em Ta, ai làm theo ý Thiên Chúa, người
ấy mới là anh chị em và là mẹ Ta” (Lc 8, 19-21: Tin Mừng).
Sở dĩ Đức Giêsu xem ra lạnh nhạt với người nhà
của Ngài như thế vì hai lý do:
1/ Trước đó những anh em Đức Giêsu đã làm mất
mặt Ngài, khi Ngài đang phục vụ mọi người, “họ đến bắt Ngài và nói với mọi người: “Ông này mất trí rồi!” (Mc
3, 21).
2/ Thần
Khí hơn xác thịt: Thực ra những người đưa tin về việc người nhà Đức Giêsu
muốn gặp Ngài, là họ chỉ nhắm đến sự liên hệ xác thịt với Ngài, nhưng Ngài lại
muốn cho họ biết: nếu chỉ liên hệ với Ngài vì dòng họ, có chung một dòng máu, thì
phải nhớ rằng: “Xác thịt không sinh ích gì, Thần Khí mới làm cho sống. Lời Ta là Thần
Khí và là sự sống”(Ga 6, 63). Bởi đó Đức Maria chỉ thực sự trở nên Mẹ
Thiên Chúa nhờ, Mẹ nói tiếng “Xin Vâng
nghe Lời Chúa, và tin tưởng rằng Lời Chúa sẽ thực hiện cho Mẹ như Mẹ đã lắng
nghe” (x Lc 1, 38). Nên bất cứ ai noi gương Mẹ Maria: có trái tim nghe Lời
Chúa để cộng tác với Chúa đem ra thực hành, thì họ giống Mẹ Maria, để được Đức
Giêsu nhận vào gia tộc Thánh của Ngài, như Ngài đã nói: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành” (Lc 8, 21).
Chúa đã đặt chỉ tiêu nên Thánh cho mọi người:
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên
trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48). Như thế thì quá khó, vì Ngài là Thiên
Chúa toàn năng, toàn thiện, còn ta là loài thụ tạo hữu hạn, làm sao có thể đạt
tới trọn lành như Cha trên trời. Nhưng nên hoàn thiện như Đức Maria thì không
quá khó, vì Maria là người như chúng ta, thì ta là loài người hèn hạ tội lỗi mà
được mang danh là “Mẹ Thiên Chúa”, đúng là “phúc
thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28: Tung Hô Tin Mừng),
thì quả là vượt quá trí con người, không ai suy thấu. Ơn huệ đó khởi đi từ lúc
ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, rồi được tiếp tục thanh tẩy và sinh lại bằng
Lời (x Ga 15, 3; Gc 1, 18), cũng như được thanh tẩy và sinh lại bởi Chúa Giêsu
Phục Sinh (x Cv 2, 38). Đây là hiệu quả của hai phần trong Thánh Lễ, và Hội
Thánh còn dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời Chúa vào tấm linh hồn và
thân xác của những người đến tham dự (x 2Cr 3, 3). Họ trở nên giống Chúa Giêsu,
Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở thành xác phàm, một thân xác Chúa lấy từ
xương thịt Đức Maria, nên thân xác của Đức Maria cũng là thân xác của Con Thiên
Chúa, và những ai sống Lời Chúa như Mẹ.
Như vậy bất cứ ai sống Đạo như Mẹ Maria, thì đều trở nên Đền Thờ
đích thực được Thiên Chúa ưa chuộng làm nơi Ngài ngự (x 1Cr 3, 16-17). Vì Đền Thờ
tâm hồn người Công Giáo được Thiên Chúa quý hơn đền thờ Giêrusalem bằng vật
chất mà người Do Thái được ba vua ngoại giáo: Kyrô, Dariô, Actắcsátta, thuộc đế
quốc Ba Tư giải phóng từ kiếp nô lệ Babylon được tự do hồi hương tái thiết Đền
Thờ, nhất là các vua ấy còn lấy tiền bạc trích từ thuế thu được ở dân địa
phương, vì dân phải đóng góp cho vua không ai được gián đoạn, mà sắc chỉ của
vua phải được thi hành chu đáo, để cho con cái Israel: các tư tế, các thầy Lêvi,
có của lễ dâng lên Thiên Chúa với lòng hân hoan trong ngày khánh thành Nhà
Thiên Chúa. Họ đã dâng nhiều của lễ đắt tiền để tạ tội cho toàn thể Israel. Họ
còn thiết lập hàng tư tế theo các phẩm trật của họ, và các thầy Lêvi theo các
cấp bậc để phục vụ Thiên Chúa tại Giêrusalem. Các thầy Lêvi trăm người như một
đã thanh tẩy mình: tất cả đều thanh sạch (x Et 6, 7-8. 12b. 14-20: Bài đọc năm
lẻ).
Qua việc tái thiết đền thờ Giêrusalem làm cho người Do Thái rất
hân hoan vui mừng, họ động viên nhau: “Ta
hãy vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122/121, 1: ĐC năm lẻ).
Việc tái thiết đền thờ Giêrusalem đã minh chứng Chúa làm chủ
lịch sử loài người, Ngài có quyền điều khiển mọi vua chúa cùng đóng góp cho
công việc của Thiên Chúa. Cụ thể trong việc tái thiết đền thờ Giêrusalem cho
người Do Thái có nơi thờ phượng. Tác giả sách Cách ngôn viết: “Trong tay Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy,
Người lèo lái đi đâu tùy ý Người. Người có quyền phạt kẻ ác, thưởng người lành,
kẻ khờ dại lại được nên khôn, người khôn càng hiểu biết thêm” (Cn 21, 1-6.
10-13: Bài đọc năm chẵn).
Vậy hết thảy những ai muốn được Chúa cất nhắc từ bụi tro, từ
đống phân nhơ lên hàng khanh tướng để được địa vị ngang với Mẹ Thánh Chúa, thì
phải rắp tâm cầu nguyện: “Lạy Chúa, trên
đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi” (Tv 119/118, 35a: ĐC năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Đức Giêsu nói: “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe Lời
Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8, 21)
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH