Lời Chúa cntn 14a _ mặc khải cho kẻ bé mọn

MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN
Chúa Giêsu ca tụng Thiên Chúa Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn, những người yếu đuối hiểu được mầu nhiệm nước trời, hiểu được giá trị cuộc sống vĩnh cửu…
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Mở đầu bài tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu ca tụng Thiên Chúa Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn, những người yếu đuối hiểu được mầu nhiệm nước trời, hiểu được giá trị cuộc sống vĩnh cửu sẵn sàng chịu những đau khổ vì mầu nhiệm đó, như trong trường hợp thánh Inê (Đê) Lê Thị Thành (tử đạo ngày 12.7.1841, 60 tuổi)
Một nhân chứng tên Đang, đã cho biết: “Bà Inê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình bà đầy máu mủ. Tuy vậy, bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khổ hơn nữa.”
Cô cụ Luxia Nụ đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần của mẹ loang lổ đầy máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà nói: “Đó là những bông hoa Chúa cài trên áo mẹ”
Bà nói tiếp: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng.”
Trong cuộc điều tra phong thánh Lê thị Thành, khi giáo quyền thẩm vấn, cô gái út Luxia Nụ, cung khai như sau: “Thân mẫu chúng con rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính bà dạy chúng con đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách tham dự Thánh Lễ và xưng tội rước lễ. Bà không để chúng con biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng con lơ là, bà thúc giục chúng con bằng được mới thôi. Bà cho chúng con nhập Hội Con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ.”
Một người con khác, cô Anna Năm cũng khai như sau: “Song thân chúng con chỉ gả các con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi con kết hôn, thân mẫu thường đến thăm chúng con và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần bà dạy con rằng: Tuân theo ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng, con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng, hãy vui lòng nhận Thánh Giá Chúa gởi cho. Bà thường khuyên vợ chồng chúng con sống hòa thuận, yên vui, đừng để ai nghe chúng con cãi lộn bao giờ.”
Khi bà Thành bị bắt và bị điệu ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo, bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…”
Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng thanh củi lớn quất vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng đến thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông cũng không chịu nổi, nhưng tôi đã được ơn Đức Mẹ giúp sức nên tôi ít cảm thấy đau đớn.”
Lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba, thấy bà vẫn một lòng trung kiên, lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà bước qua Thánh Giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kên lớn tiếng: “Lạy Chúa xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bức con đạp lên Thập Giá.”
Lần khác ra đứng trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê đã giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài lòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi dẫn về ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi phải có người dìu.
Bà Đê danh họ là Lê Thị Thành, sinh khoảng năm 1781, tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ nhỏ cô Thành đã theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc. Năm 17 tuổi cô kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hòa, sinh hạ được hai trai tên Đê, Trân và bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi cha, mẹ bằng tên con người đầu lòng, vì thế mới có tên bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, giáo dục con cái.
Ông Bà Thành còn có lòng bác ái thương người, nhất là trọng kính và tận tình giúp đỡ các linh mục gặp ngặt nghèo trong thời cấm cách. Ông Bà dành một khu nhà đặc biệt để các giáo sĩ trú ẩn. Chính đức ái đó đã dẫn bà Đê đến phúc tử đạo.
Tháng 3.1841, có 4 linh mục hiện diện trong giáo xứ Phúc Nhạc (Ninh Bình) mừng lễ Chúa Phục Sinh. Cha Breneux Nhan ở nhà Cai Tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác. Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã đi báo cho tổng đốc Nam Định rằng trong làng Phúc Nhạc hiện có nhiều đạo trưởng. Trịnh Quang Khanh tức tốc đích thân chỉ huy 500 lính bủa vây làng Phúc Nhạc vào sáng sớm ngày lễ Phục Sinh (14.4.1841). Quan dạy tập họp giáo dân để lính đi lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân chạy thoát kịp. Cha Berneux Nhân vừa dâng Thánh Lễ xong vội rời nhà trọ, trốn sang gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Galy Lý được ông trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương cạn nước ở sau vườn, cạnh một bụi tre: “Xin cha ẩn dưới mương này, Chúa gìn giữ thì cha thoát, bằng không thì cha và con cùng bị bắt.”
Nói xong, bà cùng cô con gái Luxia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên. Nhưng lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Galy Lý và bà Đê, chủ nhà.
Ông trùm Cơ, bốn hương chức và hai nữ tu Mến Thánh Giá là Anna Khiêm Và Inê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói, mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà lại vui tươi không còn vẻ sợ hãi nữa.
Ngay hôm bị bắt, các nạn nhân bị điệu về thị trấn Nam Định, phải đi suốt đêm khuya rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi cái gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu.
Vì những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà mắc bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc, đến thăm, giải tội và ban Bí Tích Xức dầu. Trong giờ hấp hối, người ta thường nghe bà cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo Thánh Ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con.”
Cuối cùng bà dâng lời sau hết: “Giêsu Maria Giuse, con xin phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.” Bà Inê đã trút hơi thở cuối cùng, hôm đó là ngày 12.7.1841, sau 3 tháng bị giam cầm vì đức Tin, thọ 60 tuổi.
Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để xác định nạn nhân không còn sống. Thi hài được an táng tại pháp trường Bảy Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng, đem về Phúc Nhạc.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
* Đề tựa của Lm. HK