Lời Chúa Lễ Thánh Thể _ Thánh Thể, Của Ăn Đàng

THÁNH THỂ - CỦA ĂN ĐÀNG
“Hôm nay là ngày trọng đại, chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con...” (Phêrô Trương Văn Đường)
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể để làm của ăn uống cho linh hồn ta, để làm linh được điều trị sự yếu đuối và bệnh tật của tâm hồn ta, để đảm bảo sự sống đời đời cho ta, để cho chúng ta được hưởng cuộc sống lại, và để sống giữa chúng ta cho tới ngày tận thế. Đặt biệt đối với những người sắp lìa trần, thì Bí Tích Thánh Thể còn được gọi là của "ăn đàng" vì chính của ăn này giúp họ từ cuộc sống chóng qua đi vào cuộc sống vĩnh cửu, từ cõi trần gian đi vào thiên quốc. Cũng vì thế, mà các vị tử đạo của chúng ta vui mừng và cảm thấy hạnh phúc lớn lao, khi được rước Chúa trong lúc các Ngài bị giam giữ, trong những giây phút các Ngài chuẩn bị đón nhận hồng phúc tử đạo, trong lúc các ngài phải chiến đấu gay go để giữ vững lòng tin, và trong lúc các ngài cần sức mạnh để lướt thắng mọi cực hình thể xác.
Trong lúc cha Théophane Ven (tử đạo ngày 2.2.1861, 32 tuổi) bị giam trong cũi, nhờ một giáo dân tên Hương dẫn lối, linh mục Thịnh đã đến bên cũi của cha, ban Bí Tích hòa giải. Sau lại nhờ một bà đạo đức chuyển cho người một hộp nhỏ đựng Mình Thánh Chúa. Cha Ven cung kính chầu Thánh Thể cho đến nửa đêm, rồi mới rước lễ. Một lần khi trao Mình Thánh Chúa bị phát hiện, bà này đã nhanh miệng giải thích: đó là thuốc bổ để trị bệnh.
Thánh Ven gửi thư cho chị Melanie và gia đình, cha kể: "Em đã đến Kẻ Chợ (Hà Nội). Cả nhà thử tưởng tượng coi: Ngồi bó gối trong cũi gỗ, tám người lính khiêng đi hai bên, đám đông dân chúng ồn ào bu lại coi. Em nghe họ nói: Chàng người Âu này coi dễ thương quá. Anh ta thản nhiên và vui tươi như đi ăn tiệc, chẳng tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Em cầu nguyện với Nữ Vương các thánh Tử đạo, xin Đức Mẹ thương phù trợ cho người tôi tớ nhỏ bé của Mẹ. Mới đầu quan tòa cho em uống một chén nước trà, em uống một cách ngon lành ngay trong cũi...
Khi quan muốn buộc tội cha làm tay sai cho quân Pháp xâm lược, cha khẳng khái trả lời:
- Không bao giờ chúng tôi ủng hộ quân Viễn Chinh Pháp. Nếu không tin, xin để tôi đến gặp họ, tôi sẽ khiển trách họ đến gây chiến. Nếu tôi thất bại, tôi tự nguyện trở về nộp mạng.
- Hãy đạp lên Thánh Giá, anh sẽ khỏi chết.
- Tôi suốt đời rao giảng đạo Thập Giá lẽ nào tôi làm thế được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quá quý, để tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo?
Ngày 3.1.1861, cha Ven viết dược thư gởi đức cha Theurel Chiêu, Giám mục phó địa phận Tây: “Gươm đao ở kề sát bên cổ mà con chẳng rùng mình chút nào. Thiên Chúa nhân lành đã hỗ trợ sự yếu đuối của con nên con thấy thoải mái. Thỉnh thoảng con lại cất cao tiếng hát trong "cung điện" này:
"Lạy Mẹ yêu dấu
Xin thương dẫn con
Vào đất Nước Trời
Bên Thánh nhan Người"
Jean Théophane Venard sinh ngày 21.11.1829, tại Saint Loup sur Thouet, nước Pháp.
Mãn khóa triết học tại Mont Morillon, năm 1848, thầy Venard được chuyển qua giáo phận Poitiers tiếp tục ban thần học. Sau khi lãnh chức phó tế, thầy xin gia nhập hội thừa sai Paris. Năm 1852, thầy được thụ phong linh mục.
Ngày 23.9.1854, cha Venard xuống tàu ở cảng Anvers (Bỉ), và ngày 13.7.1854 cha cập bến Cửa Cấm (cửa sông vào Hải Phòng ngày nay). Cha được tiếp đón cách long trọng tại tòa Giám mục Vĩnh Trị, địa phận Tây Đàng Ngoài. Sau vài tháng học tiếng, cha tháp tùng đức cha đi kinh lý các nơi, và dạy học chủng viện. Đầu tháng 3.1857, viên tri huyện Nghĩa Hưng và bạn thân với đức cha Retord, trước khi đem quân đến vây bắt, ông đã báo tin cho biết. Nhờ đó, đức cha, cha Venard Ven và cha Charbonnier Đoài chạy thoát.
Ngày 30.11.1860, nhân lúc cha Ven đang ở Kẻ Bèo (Hà Nam), viên cai đội đem năm sáu chiếc thuyền chở khoảng 20 người đến vây bắt. Cha ẩn mình giữ vách đôi của căn nhà, cai đội thét lớn tiếng: “Tây Dương Đạo Trưởng đâu, ra trình diện.” Thầy giảng Phêrô Khang tìm cách nói tránh: “Ở đây chỉ có tôi thôi. Ông cai thương, tôi được nhờ; ông cai bắt, tôi đành chịu.” Vì đã được mật báo, viên cai đội cho lệnh trói thầy rồi đi thẳng tới vách nhà vị thừa sai đang ẩn, đạp thật mạnh làm bật tung tấm ván che, bắt cha Ven nhốt vào cũi giải về Hà Nội.
Ngày 2.2.1861, nghe quan tuyên đọc bản án trảm quyết, Cha Venard Ven liền lấy áo lông cừu trắng ra mặc, áo mà cha đã sắm để mặc ngày tử đạo, cha muốn trang phục như ngày đại lễ. Một đội lính 200 người và hai võ quan cỡi voi áp giải vị anh hùng ra pháp trường Ô Câu Giấy. Suốt nửa giờ hành trình cha không ngừng hát Thánh ca, và kết thúc bằng bài Thánh Ca Tin Mừng: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.” Tới nơi đã chỉ định, lính tháo gông cùm.
Một lý hình thấy chiếc áo cha mặc đẹp quá nên đã tự nguyện hành quyết cha. Hắn nói láo rằng cha phải xử lăng trì để cha cởi áo ra cho hắn lấy, hắn còn đòi tiền để chém sao cho mau chết. Cha mỉm cười rồi nói: “Có hề chi đâu, càng lâu càng tốt”, rồi đưa tay cho lý hình trói vào cột. Lý hình vung gươm chém lần thứ nhất, gươm trượt qua một bên vào má. Nhát thứ hai, y bổ đầu cha ra làm hai. Các giáo hữu phải bỏ tiền ra xin an táng thi hài và chuộc lại y phục của cha. Còn thủ cấp cha bị bêu trên cây ba ngày rồi thả trôi sông, đến sau có người chài lưới vớt được, đem về trao cho giáo quyền. Năm 1865, hài cốt đấng tử đạo được đưa về chủng viện hội Thừa sai Paris, đặt trong gian phòng Tử đạo.
Đang lúc các thầy giảng Phêrô Trương Văn Đường (tử đạo ngày 18.12.1838, 30 tuổi) Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, và Phêrô Vũ Truật bị giam giữ chờ ngày ra pháp trường, Cha Triệu giả làm thường dân đem Mình Thánh Chúa đến cho các thầy được bốn lần. Đối với các thầy, đó là hồng phúc lớn lao. Đây là những lời tâm sự của thầy Đường gởi cha Marette: “Hôm nay là ngày trọng đại, chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con... Cửa Thiên Đàng đã mở sẵn, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì ở thế gian này nữa.”
Các cuộc thẩm vấn ba vị thánh Phêrô Trương Văn Đường, Phaolô Nguyễn Văn Mỹ và Phêrô Vũ Truật thường đi liền với những điều tra tấn dã man. Sau đây là mấy dòng chữ trong thư của thánh Mỹ còn để lại:
"Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống, lấy dây thừng cột chặt tay chân, rồi kéo căng, cột vào bốn cọc bốn phía, nguyên sự căng nọc như thế đủ làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thế rồi họ bắt đầu đánh đập... Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa, mà là cả bó. Mỗi lần đánh, trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, gây nhiều thương tích đẫm máu.”
Trương Văn Đường sinh năm 1808 ở Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng đạo đức. Được ông cậu là cha Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ yên Tập đã nhận dẫn dắt vào đời sống trụ trì. Khi 15 tuổi, Phêrô Đường được gởi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Được cha xứ hướng dẫn, anh chuyên cần học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai. Anh được đức cha Havard Du nhận vào bậc thầy giảng khi mới 16 tuổi, thầy giảng trẻ tuổi nhất, thầy tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thầy được mọi người trong giáo xứ quý mến.
Ngày 20.6.1837, khi quan tỉnh Sơn Tây (Xứ Đoài) phái 1500 quân đến bao vây giáo xứ Bầu Nọ bắt cha Cornay Tân, thì cũng bắt luôn hai thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và anh Phêrô Vũ Truật. Cả ba là những cộng sự viên của cha Tân và cha xứ Marette. Ba người cùng bị áp giải với cha Tân đi hơn sáu dặm đường tới đề lao Sơn Tây. Là người lớn tuổi nhất, thầy Mỹ như người anh cả thay mặt cho hai đồng bạn đối chất với các quan. Trong một lá thư gởi thừa sai  Marette, thầy Đường viết: "Từ ngày được diễm phúc chịu khổ vì đức Tin, thầy Mỹ thay chúng con viết thư cho cha. Vì chúng con coi thầy như đại diện cho ở giữa chúng con..."
Tại công đường, quan biểu thầy Đường đạp lên Thánh Giá, thầy trả lời: “Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh Thánh , vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn thể xác.”
Riêng thầy Truật vì ốm yếu nên được mang gông nhẹ hơn và ít bị ăn đòn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn, cả ba người đều kiệt lực phải khiêng về ngục thất. Ngày 20 tháng 9, lính canh ngục báo tin cha Tân đã bị trảm quyết và khuyên các thầy bỏ đạo. Nhưng cả ba cùng nói: “Chúng tôi mừng vì thầy chúng tôi được Tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương người.”
Giai đoạn này thầy Mỹ ghi lại trong một bức thư: “Suốt 4 tháng liền, chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu  lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi tanh, ruồi muỗi tha hồ chích đói trên những tấm thân đầy thương tích.”
Bản án quan tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì thi hành ngay, bản án có ghi "Khoan xử chờ quyết định mới.” Bề ngoài bản án có vẻ nhân đạo, nhưng thực ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian, nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng của con người có hạn, quá khổ đau mòn mỏi, đi đến nản chí, con người dễ bị tung lạc mà thay đổi lòng dạ.
Ba thầy giảng phải chờ thêm 14 tháng, tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị thử thách lâu dài ấy, ba thầy vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi lòng khao khát  đợi trông phúc Tử đạo.
Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18 tháng 12, ba chứng nhân anh dũng bước ra pháp trường Gò Vôi ở làng Mông Phụ (Sơn Tây). Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên, họ, nguyên quán và tội theo đạo Da Tô, lệnh xử giảo. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước, ba thầy cùng làm dấu Thánh Giá khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban ơn xá giải. Một anh lính mời các thầy uống rượu, ba thầy cảm ơn, chỉ xin uống nước trà và nói: “Chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội.”
Đến nơi xử, ba chứng nhân nằm trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để giữ trật tự. Từng vị một bị trói chân vào cọc và trói chéo hai tay ra sau lưng. Giây thừng tròng sẵn vào cổ. Chiêng trốn ngân vang, lý hình mỗi bên nắm chặt đầu giây xiết thật căng, cho tới khi ba vị tuần giáo tắt thở: máu ứa ra đàng miệng. Sau đó lý hình lấy lửa đốt thử gian bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK