BẢY DI NGÔN TRÊN THÁNH GIÁ
Tuần Thánh,
chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa, dừng lại nơi Bảy Di Ngôn của Đấng Cứu Thế
để nhận thấy Calvê là ngọn núi đầy hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta hưởng nếm tình
yêu hiến dâng phục vụ.
Có
hai sứ điệp nổi bật nhất của Chúa Cứu Thế được gởi đến cho loài người. Sứ điệp
đầu tiên là Tám Mối Phúc Thật được Chúa công bố trên một sườn núi. Sứ điệp cuối
cùng là Bảy Di Ngôn trên Thánh Giá.
Tuần
Thánh, chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa, dừng lại nơi Bảy Di Ngôn của Đấng Cứu
Thế để nhận thấy Calvê là ngọn núi đầy hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta hưởng nếm
tình yêu hiến dâng phục vụ.
1. Lạy Cha, xin
tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ làm (Lc 23, 34)
Lẽ
thường, vào giờ hấp hối, tự đáy lòng con người bộc lộ những lời tha thiết với
người thân yêu, người lân cận. Lời đầu tiên của Chúa là xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ bách hại, kết án, lăng nhục, đóng đinh Ngài.
Triết
gia Xê-nê-ca kể lại rằng, người bị treo trên thập giá thường trù ẻo cha mẹ,
nguyền rủa ngày sinh tháng đẻ, mắng nhiếc lý hình, thậm chí còn khạc nhổ vào bất
cứ ai qua lại đứng ngồi dưới chân cây thập giá.
Nhà
hùng biện Si-sê-rô còn cho biết rằng, đôi khi phải cắt lưỡi người bị đóng đinh
vào thập giá, để họ thôi buông lời phạm thượng. Bởi thế, dân chúng bồn chồn. Đám
lý hình, luật sĩ, biệt phái chờ đợi tiếng la thét, mắng nhiếc, nguyền rủa của
người bị đóng đinh đang hấp hối. Nhưng, cũng như loại hương mộc tiết hương thơm
ra cho cả chiếc rìu hạ chúng, Thánh Tâm trên cây Tình Thương tự đáy lòng đã
thoát toả ra một lời nguyện thầm thỉ đầy êm ái về sự dung thứ và xá tội “Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu
biết việc họ làm.”
Tha
thứ, vì họ không biết. Giả mà họ biết tội họ phạm kinh tởm đến đâu khi lên án
chết cho Đấng ban sự sống; giả mà họ biết rằng họ đang đổ máu Đức Giêsu dùng để
cứu chuộc họ, giả mà họ biết như thế thì đời nào họ lại được tha?
Giả
mà ta biết tội lỗi khủng khiếp dường nào mà cứ phạm tội; giả mà ta biết Chúa
yêu ta đến nỗi Nhập Thể Làm Người mà ta vẫn khước từ không chịu đón nhận và tin
yêu; giả mà ta thấu hiểu tình yêu tha thứ trong Bí Tích Giải Tội thật là vô
biên mà không chịu xưng tội; giả mà ta biết Bí Tích Thánh Thể hàm chứa một sức
sống vô song mà cứ khước từ không chịu ăn Mình Thánh và uống Máu Thánh. Giả mà
ta biết rõ những điều ấy, ta sẽ bị hư mất. Ta không thấu hiểu lòng lành Thiên
Chúa, đó là lý lẽ độc nhất rộng thứ cái tội chưa chịu làm thánh của ta.
Chúa
không chấp nhất, nhưng lại tha thứ, thì ta cũng phải tha thứ cho nhau (x Mt 6,
12; 6, 15; 18, 23-35).
2. Hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên thiên đàng (Lc 23, 43)
Kẻ
tử tội bị đóng đinh bên hữu ngoảnh đầu nhìn sang đọc được tấm bảng: Giêsu
Nazareth, Vua dân Do thái. Trong tâm hồn người đạo chích này dậy lên những tâm
tình nồng nàn. Một tia sáng từ Thập giá chiếu ra làm rực sáng đức tin của anh
nên anh đã dâng lời khẩn cầu: Xin Ngài nhớ đến con khi Ngài về nơi vương quốc. Chính
lúc tử thần rình rập bên cạnh, chỉ có một người nhìn biết Chúa Kitô là minh chủ
một vương quốc. Chúa đã cứu chữa anh khi phán: Hôm nay, con sẽ ở trên thiên
đàng cùng với Ta.
Trước
đó đã chẳng có ai được hứa ban như vậy, cho dù là Môisen hay Gioan, Mađalêna
hay cả Đức Maria.
Người
đạo chích đã gõ cửa, đã cầu xin chỉ có một lần, anh đã dám làm tất cả nên đã được
tất cả. Liệu có thể nói được rằng: Người trộm này đến chết vẫn còn hành nghề đạo
chích, vì đến lúc chết, còn ăn trộm được thiên đường?
Lòng
từ ái của Chúa đối với người trộm gợi nhớ lời sấm ngôn: Tội lỗi con có thắm như
hồng điều, cũng sẽ nên trắng sạch như tuyết, có thẫm như vải đỏ, cũng sẽ mịn mướt
như lông chiên.
Ơn
dung thứ Chúa ban cho người trộm thống hối càng làm chúng ta hiểu hơn lời Chúa
phán: “Ta không đến để kêu gọi người công
chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi… không phải người mạnh khoẻ nhưng người bệnh
tật mới cần đến lang y… một người tội lỗi thống hối làm cho cả thiên đường vui
mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải thống hối.”
Người
trộm biết sám hối ăn năn tiêu biểu cho thế giới dân ngoại tin và tuyên xưng Đức
Giêsu là Vua. Miễn là con người biết sám hối, Thiên Chúa luôn bao dung và từ
ái.
3. Thưa Bà, đây
là con Bà (Ga 19,26)
Những
lời Sứ thần Gabriel nói tại Nazareth: “Kính
chào Bà đầy ân phúc” (Lc 1, 28) cũng soi sáng cho khung cảnh Calvê. Biến cố
Truyền tin báo hiệu một khởi đầu, Thánh giá đánh giá một kết thúc. Trong cảnh
Truyền tin, Mẹ Maria trao ban bản tính loài người cho Con Thiên Chúa trong cung
lòng Mẹ; dưới chân Thánh giá, nơi Thánh Gioan, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại
vào tâm hồn Mẹ. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, Mẹ
đã trở thành mẹ của loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời
Chúa Giêsu, con Mẹ. Dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận từ Chúa Giêsu như một lời
truyền tin thứ hai: “Hỡi Bà này là con
Bà” (Ga 19,26).
Lời
truyền tin thứ nhất do Sứ thần đem đến, lần truyền tin thứ hai lại do chính
Chúa phán ra. Lời truyền tin thứ hai long trọng, Đức Giêsu, Ngôi Lời truyền tin
cho Mẹ mình, công bố vai trò Đức Maria là Mẹ Nhân Loại, Mẹ Giáo Hội.
Ở
gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài người.
Ở
dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.
Đức
Maria là mẹ Thiên ân vì là mẹ của Tác giả ơn thánh. Các con hãy hoàn toàn tín
nhiệm phó thác cho Mẹ! Hãy chiếu toả rạng ngời vẻ đẹp của Chúa Kitô khi cởi mở
đón nhận hơi thở của Thánh Linh.
4. Lạy Thiên
Chúa! Lạy Thiên Chúa của con! Sao Ngài bỏ rơi con (Mt 27, 46)
Ba
Lời Di Ngôn đầu từ thánh giá phán ra được gởi đến các kẻ được Thiên Chúa yêu
thương theo thứ tự: kẻ thù địch, kẻ tội lỗi, người lành thánh. Hai lời thứ tư,
thứ năm biểu lộ sự đau khổ của Thiên Chúa làm người trên thánh giá. Lời thứ tư
biểu lộ sự khốn khổ của con người bị Thiên Chúa phế bỏ. Lời thứ năm nói lên nổi
cay cực của Thiên Chúa bị con người chối bỏ.
Ngày
Thứ Sáu Chịu Nạn là ngày đen tối nhất trần gian. Bóng tối bao trùm trái đất in
mờ Thập Giá Đức Kitô trên nền trời đen thẳm. Mọi sự đều tối tăm mịt mùng! Ngài
từ bỏ Mẹ hiền và môn đệ yêu dấu. Thiên Chúa xem ra cũng như từ bỏ Ngài luôn. ”Eli ! Eli ! Lamma sabacthani! Chúa ơi! Chúa
ơi! Sao Chúa bỏ con?” Tiếng kêu than này, trong ngôn ngữ huyền nghĩa Do
thái tiết diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên
Chúa. Chúa Con gọi Chúa Cha là Thiên Chúa. Khác hẳn lời cầu ngày nào Ngài dạy: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” Chúa
Cha cũng có vẻ như ngoảnh mặt đi, khi Ngài hứng chịu lấy tội lỗi trần gian. Ngài
cam chịu nổi đớn đau bi thống đó vì con người để chúng ta hiểu rằng: Khi con
người mất Thiên Chúa thì tình trạng khủng khiếp chừng nào.
5. Ta Khát (Ga
19, 28)
Đây
là lời ngắn nhất trong bảy Di Ngôn, chỉ vỏn vẹn một tiếng Ta khát. Tận đáy tâm
hồn Chúa chỉ bật ra một nỗi thao thức: Ta Khát.
Hiện
tượng khát nước là sự kiện bình thường của một người tử tội đóng đinh thập giá,
do việc người đó mất quá nhiều máu trong người. Nhưng ở đây, chắc chắn Gioan
không có ý nói tới điều đó mà nói đến nghĩa thiêng liêng. Đức Giêsu khao khát
thông truyền hiệu quả cuộc khổ nạn của Người là Ơn cứu độ cho tất cả mọi người
và như thế thì lời Kinh thánh mới nên trọn. Ý nghĩa của lời Ta Khát gắn liền với
việc “để lời kinh thánh được nên trọn.”
Lời Kinh Thánh có thể hiểu là Lời các Tiên tri trong Cựu ước loan báo về sứ mạng
Cứu thế của Đấng Messia; Lời Kinh Thánh còn có thể hiểu là chính công việc cứu
thế của Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu biết rằng sứ mạng cứu thế của Người đã được
thi hành trọn vẹn và đầy đủ; kể từ nay bắt đầu giai đoạn mới của lịch sử cứu độ,
con người sẽ lãnh nhận hiệu quả do cuộc khổ nạn người đem đến thì Ngài nói: Ta
Khát.
Giovanni_Battista_TiepoloTrong
Phúc âm Gioan, từ ngữ “khát” thường chỉ nguyện vọng sâu xa của con người khát
mong những hồng ân của Thiên Chúa vào thời Đấng Messia “Ai uống nước Ta ban thì đời đời sẽ không còn khát nữa, nước Ta ban sẽ
trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga
4,13); ”Ai đến với Ta sẽ không hề đói,và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”
(Ga 6,35); “Ai khát hãy đến với Ta, ai
tin vào ta hãy đến mà uống! Như kinh thánh đã nói: Tự lòng Ngài sẽ tuôn chảy những
dòng nước hằng sống.” (Ga 7, 37)
Như
thế Di Ngôn “Ta Khát” chính là nguyện vọng sâu thẳm của Chúa muốn mọi người
lãnh nhận ơn cứu độ mà cuộc khổ nạn Ngài đem đến cho thế gian.
6. Mọi sự đã hoàn
tất (Ga 19, 30)
Mọi
sự là sự gì? Thưa là Thánh ý Chúa Cha. Lật trong sách Tin mừng rất nhiều chỗ
nói “để ứng nghiệm lời Thiên Chúa, để lời
các Ngôn sứ được hoàn tất.” Trong cuộc đời dương thế, Đức Giêsu luôn thực
thi Thánh ý. Và giờ đây trong giây phút cuối đời trên thập giá, hình như Đức
Giêsu làm bảng tổng kết: mọi sự Chúa Cha đã hoạch định, Ngài đã chu toàn, mọi sự
đã hoàn tất từ ngày lọt lòng mẹ tại Bêlem cho đến nghiêng đầu trước khi chết.
Công
cuộc cứu độ trần gian đã được thể hiện. Đây là lời Ngài trình lại với Chúa Cha
và đây cũng chính là lời loan báo sự chiến thắng của Ngài. Quyền lực bóng tối
đã giết được thân xác Ngài,vị vua Messia. Nhưng qua cái chết này, ơn cứu độ được
trao ban cho mọi người và giải thoát con người khỏi vòng cương toả của bóng tối,
tội lỗi, Satan. Đúng như Thánh Gioan đã suy niệm “Sự sáng đã rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được ánh
sáng.” (Ga 1, 5)
7. Lạy Cha! Con
phó thác linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46)
Lời
thứ sáu là lời biệt ly trần gian. Lời thứ bảy là lời khải hoàn thiên quốc.
Chúa
Kitô, Đấng từ trời xuống, đã chu toàn nhiệm vụ, hoàn thành cuộc hành trình, nay
lại trở về cùng Chúa Cha để tỏ niềm tôn phục Đấng đã phái Ngài đi thực thi công
cuộc cứu chuộc thế gian: “Lạy Cha,Con phó
thác linh hồn con trong tay Cha.”
Ba
mươi năm trước, Ngài từ bỏ Nhà Cha để đến một xứ xa lạ là trần gian. Ở đó, Ngài
sống cuộc đời tiêu xài không kể mức độ nào cả. Quyền năng và sự khôn ngoan được
Ngài phân phát vô số kể. Ân sủng và lòng ái tuất được Ngài chuẩn ban cách quãng
đại. Đến giờ sau hết, Ngài còn ban luôn cả bản thể của mình cho kẻ tội lỗi. Và
Ngài đã đổ đến giọt máu cuối cùng để làm giá cứu chuộc thế gian. Trên đường về
Nhà Cha, từ Thập giá Ngài dâng lên Chúa Cha lời nguyện hoàn hảo nhất “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong
tay Cha.”
Sau
khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Ít-ra-en, Ngài đã
phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người
tội lỗi. Ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha
Ngài. Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người
bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Sa-ma-ri-a, một người bị quỷ ám,
một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu
Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu;
sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ
rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài
bị đóng đinh: “Ta khát.” Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ngài
đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng
ta.
Phó
thác linh hồn cho Chúa Cha, thân xác Ngài trao trong tay Đức Mẹ. Từ chén cứu
chuộc những giọt máu cuối cùng nhỏ xuống nhuộm đỏ cây thập giá.
Đây
cũng là giờ bi thảm nhất của Đức Mẹ. Có nỗi đớn đau nào hơn của nỗi đớn đau của
người Mẹ ôm xác người con yêu dấu? Đức Giêsu sinh ra trong vòng tay mẹ hiền, đến
chết vẫn ở trong vòng tay Mẹ từ ái.
Chúa
Giêsu đã để lại sứ điệp cuối cùng: Bảy Di Ngôn trên thánh giá. Trong cao điểm mầu
nhiệm cứu độ, Chúa đã mạc khải tình yêu hiến tế qua Bảy Di Ngôn do lòng yêu
thương. Những lời này vang dội qua mọi thời đại, xuyên qua tâm trí nhân loại, cải
hoá và dẫn đưa bao linh hồn về với Chúa.
Calvê
nơi hành hình tội nhân giờ đây đã trở thành ngọn núi đầy hấp dẫn lôi cuốn thế
giới đến chiêm ngắm và đón nhận tình yêu của Đấng chịu đóng đinh.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
(Viết theo cuốn: Trên đỉnh cao thập giá của
ĐGM Fulton Sheen)