Lời Chúa Lễ Lá năm A _ giáo lý Phúc Âm

GIÁO LÝ PHÚC ÂM
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A
 (Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66)
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Tuần thương khó, tuần của vinh quang và tủi nhục.
Tuần thương khó, tuần của đau khổ, hành hình, chết chóc nhưng cũng là thời điểm ơn cứu độ được ban xuống cho nhân loại.
Tuần thương khó, tuần giằng co giữa quyền lực Satan và sự chiến thắng vinh quang của Con Thiên Chúa Phục Sinh.
Chúa Giêsu trong tuần thương khó được trình bày như con chiên bị sát tế thành giá cứu chuộc cho muôn người:
Trong Cựu Ước, đêm Thiên Thần Chúa Vượt Qua nhà người Do Thái có máu chiên bôi trên cửa và để họ được an toàn rời khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Đêm tiệc ly, lần cuối Chúa dự tiệc Vượt Qua của Cựu Ước, nhưng cũng là lần đầu Chúa thiết lập Lễ Vượt Qua của Tân Ước, tức Bí Tích Thánh Thể, Máu Chúa thành giá cứu độ, Mình Máu Thánh Chúa thành lương thực cho hành trình về thiên quốc.
Chúa sát tế chính mình trên thánh giá, giọt máu sau cùng từ cạnh sườn chảy ra thành nguồn ơn cứu độ muôn người. Chúa yêu thương nhân loại đến vắt cạn kiệt chính mình và trao ban đến tận cùng.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Lễ Vượt Qua là gì?
Biến cố Vượt Qua xảy ra khoảng năm 1450 trước Chúa Giáng Sinh, được trình bày trong Sách Xuất Hành 12, 1-28: Giết chiên lấy máu bôi lên cửa để đánh dấu là nhà người Do Thái nhằm tránh việc con trai đầu lòng bị sát hại “Khi Ta thấy máu bôi trên cửa, Ta sẽ Vượt Qua” (Xuất Hành 12,13) Thịt chiên dùng làm thức ăn, ăn với bánh không men và rau đắng trong tư thế vội vả xuất hành rời khỏi Ai Cập. Thức ăn, thịt chiên với bánh không men và rau đắng nầy được dùng trong bảy ngày liên tiếp sau khi rời khỏi Ai Cập. 
Chúa truyền lệnh cho con cái Do Thái phải mừng lễ Vượt Qua hằng năm để ghi nhớ ngày Thiên Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Thế là có Lễ Vượt Qua (Passover Feast) và bữa ăn Vượt Qua (Passover meal) với thịt chiên bị sát tế (Paschal lamb) được tổ chức hàng năm.
Khi đã rời khỏi Ai Cập và sau khi đã nhận hai bia đá ghi mười điều răn Chúa ở núi Sinai. Người Do Thái dựng Lều Tạm (Tabernacle) để chứa Hòm Bia Giáo Ước. Aaron và con trai Ông đã được thánh hiến bằng đầu để phục vụ việc tế tự (Xuất Hành 40,13) và sau đó người Do Thái cử hành Lễ Vượt Qua đầu tiên trong Sa Mạc. Suốt bốn trăm năm đầu trong lịch sử Do Thái, khi chưa có đền Thờ Giêrusalem, những thế hệ người Do Thái nối tiếp rất trung thành cử hành Lễ Vượt Qua hàng năm trong nơi hoang dã, để ghi nhớ việc xuất hành rời khỏi Ai Cập và hành trình bốn mươi năm trong sa mạc, sống trong các lểu tạm. 
Đến thời vua Davít, khoảng 1000 năm trước Chúa Giêsu, người Do Thái mừng Lễ Vượt Qua ở Giêrusalem theo như lời Chúa truyền cho Môsê được ghi trong Sách Đệ Nhị Luật 16, 1-8. Họ vẫn duy trì việc giết chiên và ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng.
Lễ Vượt Qua ngày nay trong các gia đình Do Thái truyền thống thường được diễn tiến như sau:
Ly rượu đầu tiên: Chúc tụng Thiên Chúa là Vua vũ trụ, Đấng ban hoa màu, sản phẩm cho mặt đất như trong Sáng Thế Ký 1:11. Sau đó họ rửa tay như nghi thức thanh tẩy, được ghi trong Thánh Vịnh 24, 3-4. Họ ăn rau đắng chấm với nước muối, ghi nhớ ngày sống kham khổ dưới ách nô lệ Ai Cập (Xuất Hành 2,23) Sau đó chủ nhà mang ra ổ bánh không men, chia làm ba. Lấy một phần ba gói lại đem cất để dành như một chuẩn bị cho hành trình xa. Hai phần còn lại chia cho người trong nhà. 
Để giúp những thế hệ sau ghi khắc sâu đậm những biến cố lịch sử nầy. Người ta đặt bốn câu hỏi: Tại sao cử hành bữa ăn Vượt Qua đêm nay? Tại sao ăn rau đắng? Tại sao chấm rau đắng vào nước muối và tại sao vừa ăn vừa ngã người thoải mái? Rồi họ đọc lớn tiếng Sách Xuất Hành chương 12 và hai Thánh Vịnh 113 và 114.
Ly rượu thứ hai gọi là ly ghi nhớ mười tai hoạ Chúa đã giáng phạt Ai Cập để giải thoát dân Do Thái. Họ lần lượt lặp lại: Mưa máu, ếch nhái, chí rận, ruồi muỗi; gia súc chết, nước nóng, mưa đá, châu chấu, trời tối, con trai đầu lòng bị giết chết (Xuất Hành 7, 14-12,36)
Cao điểm của tiệc Vượt Qua: Ăn thịt chiên nướng (thịt quay)
Ly rượu sau cùng: uống để kết thúc tiệc Vượt Qua với bài hát “Halel” tức Alleluia trong Thánh Vịnh 115-118 cũng như tán tụng tình yêu Thiên Chúa bền vững đến muôn đời qua Thánh Vịnh 136. Lời chào từ biệt sẽ là: Hẹn gặp ở Giêrusalem năm sau!
Chúa muốn nói gì khi bảo: ‘Thầy sẽ không bao giờ ăn Lễ Vượt Qua nầy nữa, cho đến khi lễ nầy được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa’
Chúa tổ chức mừng Lễ Vượt Qua truyền thống Do Thái với các môn đệ hai ngày sớm hơn bình thường, vào tối Thứ Năm thay vì tối Thứ Bảy (Matt.26,18-20) Sau đó Ngài bị bắt, bị tra tấn, bị xét xử, bị hành hình và chết thảm thương trên Thánh Giá. Đúng là Chúa không còn cơ hội ăn mừng Lễ Vượt Qua truyền thống Do Thái nữa. 
“Cho đến khi Lễ nầy được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”. Theo truyền thồng, sau khi lần rượu thứ hai, Chúa Giêsu và các môn đệ ăn thịt chiên và bánh không men. Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh rượu Thánh Mình Máu Chúa. Như vậy Lễ Vượt Qua trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa tức Thánh Lễ trong Tấn Ước do chính Chúa Giêsu thiết lập trong bữa tiệc ly, vào đêm tối Thứ Năm trướcd khi Ngài bị nộp. 
Tiệc Vượt Qua nầy thật trọn vẹn có Chúa Giêsu như chiên Thiên Chúa (Gioan 1,29) bị sát tế để mang sự giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi (Thư I gửi Corintô 5,7) Trong Tân Ước, không phải con vật chết thay cho tội lỗi con người, nhưng là Con Thiên Chúa làm người. Mình và Máu con Thiên Chúa làm người thành lương thực nuôi sống con người trong hành trình về quê trời, về cuộc sống vĩnh cửu. Ai ăn uống Mình Máu Chúa sẽ không phải chết như trong Phúc Âm Gioan 6, 54. Trong Cựu Ước tổ tiên người Do Thái ăn thịt chiên hay ăn Manna trong Sa Mạc rồi cũng đã chết. Trong Tân Ước, máu thịt con Chiên Thiên Chúa ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Vì máu chiên bò Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì nầy Con xin đền để thành lễ vật hoàn hảo theo như Thánh Ý Cha (Thư Thánh Phaolô gửi Do Thái 10, 1-10)
“Rồi Người nhận lấy chén dâng lời tạ ơn… Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các Ông…’ Tường thuật bữa tiệc ly và việc Chúa lập Bí Tích Thánh Thể được tìm thấy trong:
Phúc Âm Thánh Luca 22, 7-23 như chúng ta thấy trong bài thương khó hôm nay: Rượu trước, bánh sau.
Phúc Âm Matthêô 26, 26-30: bánh trước, rượu sau.
Phúc Âm Matcô 14, 22-25: Bánh trước, rượu sau.
Phúc Âm Gioan 13, 21-30: Không mô tả cách thức rõ ràng, trọng tâm là những lời sau cùng của Chúa Giêsu về giới luật yêu thương và sự gắn bó với Chúa như cành nho và thân nho.
Trong Thư I Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Corintô 11,23-26: Bánh trước rượu sau.
Trong các Phúc Âm, trừ Luca đặt việc Chúa lập Bí Tích bThánh Thể sau khi chủ nhà mang bánh không men ra ăn với rau đắng. Lúc đó Chúa dùng Bánh thánh biến thành Mình Chúa. Kế đến khi uống ly rượu thứ hai, trước khi ăn chiên sát tế, Chúa thánh hiến rượu thành Máu Thánh Chúa.
Chúa lập Bí Tích Thánh Thể theo trật tự nào, bánh trước hay rượu trước?
Nhiều người đồng ý với cách thức: Bánh trước, rượu sau. Ví chỉ có Thánh Luca là nói khác: rượu trước, bánh sau. Sự thật, Thánh Luca là môn đệ của Thánh Phaolô sau nầy, Ông không có mặt trong bữa tiệc ly. Đang khi đó Matthêô và Gioan tham dự bữa tiệc ly và chứng kiến tận mắt việc lập Bí Tích Thánh Thể. Vậy thì tường thuật của Gioan và Matthêô phải chính xác hơn. Giáo Hội tán thành trật tự nầy: Trong thánh lễ, Linh Mục truyền phép bánh trước và rượu sau. Luật Phụng Vụ Thánh Thể cho phép người công giáo có thể chỉ tước máu Thánh Chúa. Nếu họ không thể rước Mình Thánh Chúa. 
Tại sao Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Thánh Lễ mà lại không công bố Phúc Âm nhưng thay vào đó có đôi người đảm trách những vai khác nhau để đọc “Bài thương Khó Chúa Giêsu Kitô theo thánh ….”
Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh không có công bố Phúc Âm Phúc. Nhưng Phúc Âm lại được đọc theo kiểu tường thuật những biến cố xảy ra trong quá khứ. 
Trong những Thánh Lễ, dù ngày thường hay chúa nhật Phúc Âm Phải được long trọng công bố bởi thừa tác viên có chức Thánh như Phó Tế, linh mục hay Giám Mục… Vì qua thừa tác viên có chức thánh, qua chính con người Chúa Kitô là đầu (in personna Christi Capitis), Chúa trực tiếp giáo huấn dân người như mặt đối mặt. Nên chúng ta thấy, Giáo dân không bao giờ được phép giảng ngay sau công bố Phúc Âm. Giáo dân không có chức Thánh để hành động in personna Christi Capitis. Phải để cho linh mục trong hình ảnh Chúa Kitô là thủ lãnh ban huấn dụ cho dân Chúa.
Trong Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh. Phúc Âm không được long trọng công bố mà chuyển sang hình thức tường thuật. Chúa Giêsu bị bắt, chịu đánh đòn, chịu hành hình và bị giết chết. Chúa dường như thua cuộc trước thế lực của tà thần…Chúa đình chỉ những huấn lệnh mặt đối mặt. Người khác, không cần người có chức thánh, đóng vai trò “kể chuyện” tường thuật những biết cố đau thương của cuộc đời Chúa. Kết thúc tường thuật, sách bài đọc ghi chú: Không có tuyên bố “Đó là Lời Chúa! Và thừa tác viên tường thuật im lặng trở về chỗ mình”. 
Còn chúng ta, những người tin Chúa, chăm chỉ lắng nghe và theo những bước chân cứu rỗi của Chúa. 
III. Thực hành Phúc Âm
Thói đời đen bạc:
Suốt ba năm truyền đạo đi từ Bắc chí Nam, Chúa làm nhiều phép lạ chữa bệnh tật và cho người chết sống lại. Chúa thi ơn bố đức cho thật nhiều người. Hôm nay người ta trải áo choàng trên lưng lừa, đặt Chúa lênh, chặt cành lá lót đường, và hô to “Hoan hô Con Vua Davít, Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!”
Chỉ mấy ngày sau thôi, sáng sớm ngày Thứ Sáu, trong sân tổng trấn Philatô. Người ta hò hét: Đóng đinh nó vào thập giá! Xin tha cho Baraba! Đóng đinh nó vào thập giá!
Từ trên ghềnh đá, Chúa đã nghe tiếng. Tiếng người thọ ơn vu cáo mình làm loạn.
Từ trên ghếnh đá, Chúa đã nhìn thấy: Người ăn no, đòi đóng đinh kẻ hoá bánh ra nhiều.
Chúa đã nhìn thấy, chắc Chúa buồn lắm: Tình đời mau đổi thay!
Chúa đã nhìn thấy, nhìn thấy dáng con đàng xa.
Tình con cũng đổi thay! Tôi cũng buồn lắm khi người thọ ơn vô tâm phản bội.
Tuần Thánh, dịp để nhìn thấy tình Chúa và tình người.
Thứ Năm Tuần Thánh, giờ canh thức với Chúa.
Tôi có cơ hội để nhận ra những phản bội của mình dành cho tình thương bao la của Chùa. 
Cũng như đừng thất vọng khi thấy những trở mặt ngay trong lòng Giáo Hội và với người của Giáo Hội.
“Thầy ấy hoàn toàn thay đổi từ ngày làm linh mục: Không một lời hỏi thăm, không thèm ghé nhà như trước và giả vờ không thấy con dù chạm mặt”
“Tôi điện thoại, nhắn máy, Cha không trả lời. Tôi đến tận nhà xứ bấm chuông xin gặp. Cha ra tận cửa chào hỏi đôi câu rồi mau mau cáo biệt vì bận nhiều việc quá!” Lời tâm sự của một linh mục lớn tuổi nói về sự trở mặt của một chủng sinh sau khi làm linh mục và được làm Cha xứ. Không giận, không buồn, không oán trách. Chúa còn bị môn đệ trở mặt bằng chiếc hôn phản bội. Không chào hỏi hay không thân tình tiếp đãi… chuyện nhỏ.