Lời Chúa cnmc 5a _ các bài suy niệm

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A

(Ed 37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45)
MỤC LỤC
19. Theo Chúa sẽ tới được sự sống   Lm. Carolo Hồ Bạc Xái
20. Niềm hy vọng sống lại  Lm Giuse Đinh lập Liễm
21. Ladarô sống lại  R. Veritas
25. Sống và chết  Sưu tầm


1. Sự sống

Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy chương vàng về bộ môn đô vật. Khi trận đấu kết thúc, anh đã không vui mừng nhảy lên nhảy xuống, hay vung tay lên trời, cũng như không mỉm cười cúi chào đám đông. Trái lại, anh chỉ đơn giản quỳ gối xuống, cúi đầu cầu nguyện và làm dấu thánh giá. Hình ảnh này đã được chiếu trên màn ảnh truyền hình và người ta đã trông thấy những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má anh. Anh khóc không phải chỉ vì đã đạt huy chương vàng, mà còn khóc vì cách đó 2 năm, anh đã mắc phải bệnh ung thư, và trước trận đấu 18 tháng, anh đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây, khi dấn thân vào trận đấu quan trọng này, anh đã đoạt được chiến thắng lớn nhất trong đời mình. Với những giọt nước mắt này, anh đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn mọi người, cũng như đã trở nên giống chúng ta một cách tuyệt vời và đầy cảm động.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng.
Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu.
Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác bản thân cũng như cuộc đời cho Chúa vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng, đồng thời là một người Cha nhân từ và khoan dung, hằng yêu thương chăm sóc đến mỗi người chúng ta.




2. Sự sống.

Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến, vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái:
- Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thì thôi.
Trong khi đó, người Tây phương thì không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí, họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa.
Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm, muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống.
Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào.
Và để thực hiện mục đích này Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho nhiều người.
Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu.
Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.



3. Mở cửa mộ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.
Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.
Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.
Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.
Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.
Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.
Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?
2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?
3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?
4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?



4. Thầy là Sự Sống Lại.

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy.
Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết.
Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ.
Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy.
Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào...
Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ.
Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại.
Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em, và sự kinh ngạc của những người chứng kiến.
Trong sứ điệp nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ "hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm vui."
Thế giới văn minh nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida, những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông...
Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con người.
Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép kín trong ích kỷ.
Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria.
Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người.
Ước gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà bạn đang sống không?
Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức Thánh Cha: "Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong được đáp ứng"?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)



5. Lagiarô sống lại.

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)
Hôm nay đã là Chúa Nhật V Mùa Chay và Chúa Nhật tới đây là Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh. Tuần chúng ta được mời gọi suy niệm nhiều hơn và cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay như là một chuẩn bị cho chúng ta để cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa.
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa. Khi nói về sự sống lại thì nhiều người anh chị em chúng ta có lẽ nghe khó tin. Mới đây tập hợp điều tra về niềm tin của những người công giáo bền Italia về sự sống đời sau sau cái chết, kết quả cho biết rằng, mặc dù đa số tin có Thiên Chúa, nhưng khi được hỏi về niềm tin của họ vào sự sống đời đời thì họ tỏ vẻ do dự. Quan tâm của họ về sự sống đời đời xem ra như càng ngày càng ít đi, dường như có hai hoàn cảnh làm cho con người dễ xa lìa Thiên Chúa, quên đi cuộc sống đời đời. Đó là khi con người giàu sang, quyền quí hoặc khi gặp cảnh cùng cực thái qúa. Giàu quá dễ bị cám dỗ quên Chúa và nghèo quá cũng làm con người tuyệt vọng.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại biến cố Chúa Giêsu đến với gia đình chị em Martha, Maria và Lagiarô để mạc khải cho họ sự thật căn bản về sự sống đời đời: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ".
Vào hoàn cảnh mà Chúa Giêsu chọn để mạc khải sự thật này cho chị em Martha, Maria là cái chết của Lagiarô, người được Chúa thương. Đây có thể nói là một biến cố không thuận lợi chút nào, Lagiarô đã bị đau cần Chúa đến nâng đỡ chữa trị thì Chúa không đến, xem ra như lơ là hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu biết hoàn cảnh đau yếu của Lagiarô, nhưng Chúa vẫn trì hoãn không đáp lại. Một thử thách cho người bạn của Chúa, chờ đợi Chúa mau mắn đáp lại và ỷ lại vào tình bạn với Ngài, nhưng Chúa đã không đáp lại như lòng họ mong ước: "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết".
Rồi sau khi Lagiarô chết rồi, gia đình Martha và Maria đang sống trong sự tang chế đau buồn thì Chúa lại đến, và thay vì nói lời an ủi hay là một điều gì liền ngay theo như mong ước thường tình của con người trong hoàn cảnh tương tự như vậy, thì Chúa Giêsu lại nói điều mà Martha và Maria cả hai người đều không nghĩ đến, đó là Chúa mạc khải sự thật và sự sống đời đời, kêu gọi hãy tin vào Chúa, tin vào sự thật Chúa mạc khải: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết bao giờ".
Có thể nói là những lời chói tai, không hợp thời, lạc đề xem từ phía con người đang phải chịu thử thách, đang gặp phải những đau thương: "Nếu Thầy có mặt thì em con không chết". Sự đáp trả của hai chị em Martha, Maria và của hai người Do Thái đến chia buồn lúc đầu chưa được trọn hảo. Martha nghĩ đến sự sống lại ngày sau hết, còn hai người Do Thái có mặt ở đó quan sát xem Chúa Giêsu có làm gì để thay đổi hoàn cảnh hay không? Martha và Maria ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của mình để đến với Chúa, để gặp Chúa ở nơi mà Chúa muốn ở ngoài hoàn cảnh tang thương, tang chế của họ vào lúc đó để được Chúa hoán cải, để tuyên xưng: "Lạy Thầy, con tin".
Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria. Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó là Martha, Maria và Lagiarô.
Sống lại đầu tiên đó là sống lại với niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: "Lạy Thầy, con tin". Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người.
Vì biến cố phép lạ Lagiarô chuẩn bị cho biến cố lạ lùng nhất sắp diễn ra là biến cố chính Chúa chết và sống lại mà chúng ta sẽ cữ hành trong Tuần Thánh sắp đến. Chúa chết và sống lại để hoàn tất công trình cứu chuộc con người, để ban cho chúng ta được sống và sống lại với Chúa: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống và tin vào Ta sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta: phần con, con có tin điều đó hay không?
Ước chi mỗi người chúng ta cũng được khiêm tốn thưa như Martha, như Maria: Lạy Chúa, con tin. Đức tin làm cho con được sống thật, dù chết hay sống nếu con tin thì không còn gì phải lo lắng nữa. Xin Chúa hãy cho chúng ta được sống lại trong niềm tin của mình vào Chúa để rồi chúng con được sống và sống lại với Chúa mai sau. Amen.



6. Nối kết với Chúa Giêsu là Nguồn ban Sự Sống

(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Sự sống vô cùng quý báu
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà văn Jack London)
Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già.
Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào.
Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được.
Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn
Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì!
Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: "Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..."
* * *
Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người
Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn.
Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được!
Chính vì thế mà khi Lagiarô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù Lagiarô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Matta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức... Ngay cả Chúa Giêsu khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy.
Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống.
Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại
Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống".
Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giêsu được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù Lagiarô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giêsu kêu gọi: "Lagiarô, hãy ra đây!" thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng.
Sự kiện Chúa Giêsu làm cho Lagiarô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ... chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người.
Hãy kết nối với Chúa Giêsu để nhận được sự sống đời đời
Chúa Giêsu là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giêsu.
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện.
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho.
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể.
Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giêsu.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa.
Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con.
Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời.
Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con.



7. Niềm tin tín thác – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.
Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".
Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.
Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,
Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.
Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.
Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.
* * *
Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".
Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.
Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.
Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.
Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".



8. Tình thương mạnh hơn sự chết

(Suy niệm của cố Lm. Hồng Phúc)
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan. Chúa Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nagiarét thật là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa toàn năng.
Gioan, người đồ đệ Chúa thương yêu, đã sống bên cạnh Chúa, đã nhìn thấy, đã sờ đụng, đã chứng kiến quyền năng của Ngôi Hai Thiên Chúa trong bản thể của con người. Đây là một bản tuyên xưng Đức Tin sống động mà Công đồng Chalcédoine năm 451 đã long trọng công bố: “Ngôi Lời, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria về tính loài người, gồm hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không chia sẻ, không tách rời”. Đấng ấy Gioan đã nhìn thấy và minh chứng.
Ngài là một con người đích thực, biết yêu biết cảm. Gioan viết rằng tại làng Bêtania, “Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Lazarô”, nhưng hôm nay, Lazarô đã chết và chôn được 4 ngày rồi. Trên đường dẫn ra mộ để thăm người bạn cũ, Gioan nhìn thấy khuôn mặt Chúa nhiều lần biến sắc: Ngài bồn chồn, xao xuyến, Ngài khóc khi thấy hai chị em khóc nức nở: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết!”. Ngài là một con người đích thực, biết thương, biết cảm, biết chia sẻ tình bạn, biết liều mạng sống vì bạn hữu. Người Do thái nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết là chừng nào”. Nhưng qua khuôn mặt con người đó, sáng chói quyền năng của một ngôi vị Thiên Chúa. Gioan mô tả những chặng đàng Chúa đi xuống với sự chết để rồi cùng với người chết đi lên với sự sống. Lazarô, người bạn thân của Chúa, ốm nặng, tắt thở, được chôn cất và đã nặng mùi, vì đã 4 ngày. Đó là tất cả thảm trạng của sự chết, hình ảnh sự chết của tâm hồn do tội lỗi.
Nhưng Chúa là chủ sự sống, Ngài không để bạn hữu mình trầm luân mãi trong bóng tối sự chết. Gioan nhìn thấy hình ảnh đặc ân rửa tội đến một cuộc tái sinh, một cuộc vươn lên sự sống, do Đấng là “sự sống và là sự phục sinh” mang lại.
Đứng trước hầm mộ, Ngài kêu lớn tiếng như để tiếng Ngài rạng đến cõi âm u của sự chết. Và Lazarô đã ra khỏi mồ, được tháo gỡ khỏi “xiềng xích sự chết” (Tv 116, 8), được sống lại đầy sinh lực. Gioan nhìn thấy ở đây hình ảnh một người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội.
Vì thế, Giáo hội đọc lên trong ngày tái sinh trong giếng nước rửa tội cũng như trong nghi lễ tiễn đưa một tín hữu đến nơi an nghĩ cuối cùng Lời của Chúa phán trước phần mộ của Lazarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.
Ngài là ai mà tình thương mạnh hơn sự chết? Martha đã nói lên niềm tin của Bà cũng như niềm xác tín của chúng ta. “Thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.



9. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai? – Achille Degeest

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người.
1) Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến.
2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.



10. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng? – R. Veritas.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.
Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”
Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”
“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”
Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).
Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.
Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.
Thưa anh chị em,
Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?
Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.
Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.
Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.
Anh chị em thân mến,
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.
“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi.
“Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.



11. “Ta là sự phục sinh của ngươi” – André Sève.

Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:
- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?
Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.
Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.
Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”
Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?
Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”
Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:
- Ta là sự phục sinh.
Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.
Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.
Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.
Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.
Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.



12. Đức tin.

Chúng ta thường nghe nói:
- Chết là hết.
Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay:
- Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng.
Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói:
- Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin.
Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình:
- Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày.
Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha:
- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.
Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha:
- Con có tin điều đó không?
Và Martha đã tuyên xưng:
- Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian.
Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó.
Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta.
Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp.



13. Khóc

Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào.
Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng.
Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô.
Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp, Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối.
Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm.
Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo.
Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau, nhất là đối với các bà các cô.
Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác.
Trong đời này, người ta thường khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn, khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì họ.
Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó.
Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha.




14. Người bạn.

Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi xuống con thác chung với nhau!
Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”.
Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người.
Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.



15. Suy niệm của JKN.

Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy?
2. Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì về Đức Giêsu?
3. Đức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống lại
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Ê-li-sa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Su-nêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Đức Giêsu ra, ta thấy có Phê-rô cũng đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Đức Giêsu, Ngài đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45).
Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại – hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết – chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Đức Giêsu đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Đó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, “nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích” (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế – nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi – thì chỉ có một mình Đức Giêsu mà thôi.
2. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, và cũng là con người như chúng ta
Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm.
Việc Đức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Đức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người. Việc Đức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu. Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Sa-ma-ri (CN 3 mùa Chay) cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi. Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật.
Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời.
Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng “thổn thức trong lòng và xao xuyến” (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (câu 36).
Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai – kể cả Ngài – có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
3. Hãy yêu thương như Đức Giêsu đã yêu thương
Đức Giêsu đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu nhân bản của Đức Giêsu được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể là tình yêu giả hiệu. Chính “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại” (Tt 3,4), và “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Đức Giêsu là hiện thân của Cha đến thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Đức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và hành động. Amen.



16. Thầy là sự sống lại và là sự sống

(Chú giải của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự kiện Giờ của Đức Giêsu đến”.
Bản văn đọc trong Phụng vụ Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, nói về sự sống lại và sự sống, và quyết định của Thượng Hội Đồng là tìm cách giết Người.
Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại được đặt vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì Người không chỉ giới hạn vào việc chữa lành mộtchứng bệnh, nhưng đưa mộtngười từ cõi chết trở lại với cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối.
Những nét tiêu biểu của phép lạ này là: Người thực hiện hành vi ấy cho mộtngười bạn và giữa vòng các bạn hữu, nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong các trường hợp khác, trước tiên Đức Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những đối thoại, Người mới đưa người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi quyền lực sắp được thực hiện và là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực. Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng minh cho thấy là Người có quyền trên sự chết.
Sự cố này xảy ra sau khi các đối thủ của Người đã tìm cách bắt Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông sông Giođan. Tại đây Người nhận được tin bạn Người là Ladarô đau ốm (11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự cố này đưa đến chỗ Thượng Hội Đồng kết án tử cho Đức Giêsu.
Đọc bản văn này, độc giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố “sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại” (analepse),  “báo trước” (prolepse), để giới thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của bản văn” [Có thể đọc Lê Minh Thông, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào bản văn.].
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (11,1-6);
2) Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (11,7-16);
3) Đức Giêsu gặp hai chị em (11,17-38a);
4) Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (11,38b-44);
5) Kết luận: Ghi chú về đức tin (11,45).
3.- Vài điểm chú giải
- Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên Eleazar (Êlêadarô), mộttên rất quen thuộc vào thời Tân Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này.
- Bêtania (1): Có những người cho rằng đây là mộttên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng Bêtania gần Giêrusalem được mọi người biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi là El ‘Azariyeh, mộttên phái sinh từ “Ladarô”.
- làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1): Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các độc giả quen biết hai cô.
- là người sau này sẽ xức dầu thơm (2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã lấy tóc lau”) [Xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn] chân Người. Đây là một lời vừa nhắc lại vừa đón trước: việc xức dầu ở Bêtania chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa được bản văn nói đến? Ở đây, tác giả không đứng trên bình diện truyện kể, nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ lời trực tiếp với độc giả. Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào đầu truyện Thương Khó; vai trò này được ghi nhớ rất rõ trước cả khi TM IV được soạn thảo. Tác giả nại đến ký ức của độc giả nên mới nói về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành). Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc thái một lời đón trước.
- Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32.
- thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý rằng có mộtsự kết nối với phép lạ thứ hai ở Cana, cũng là mộtphép lạ ban sự sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho rằng có mộtsự tương đồng với sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở tiệc cưới Cana, Người đã không đáp ứng ước nguyện của Đức Maria ngay. Không mộtý kiến, mộtnguyện ước nào của loài người, cho dù đúng đắn, lại có thể chỉ cho Người cách xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18; 8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ được hoàn tất vào thời Ngài đã định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành trước giờ. Người ta không thể bắt Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4; 10,17-18).
- Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có thể so sánh để thấy những điểm tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10.
- ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện thần học, đây là mộtquy chiếu về Đức Giêsu (8,12; 9,5).
- đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ của Bản LXX), “ngủ là một uyển ngữ (euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10). Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh, chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên, cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng ấn mộtcuộc đời hạnh phúc vẫn tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước, những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai đã yên giấc (1 Cr 15,20).  
- được bốn ngày rồi (17): Chi tiết này được ghi nhận để chứng thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa.
- Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 6,39-45). Do c. 29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là Đức Giêsu đã đến.
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở Mt 16,16.
- Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14.
- thổn thức trong lòng và xao xuyến (33): “Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle của động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là những công thức Sê-mít để diễn tả các cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”, dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý mộtsự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là “bối rối, luống cuống”. Các học giả đã tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có những người thấy đây là cơn giận của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết và tác giả của nó là Satan; có những người khác thì cho rằng đây là cơn giận của Người khi đứng trước sự cứng lòng của người Do Thái. Rất có thể là như thế, bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc, Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu sắc hơn.
Ngoại trừ một lần động từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói về nước hồ bị khuấy động và dùng ở đây, động từ này chỉ được dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc hấp hối tại vườn Ghếtsêmani, dường như được Ga chuyển vào truyện này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp (12,27). Cái chết của Ladarô được Đức Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết của Người và cuộc chiến thắng nhất thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại của Người là chiến thắng trên Satan và cái chết.
- Đức Giêsu khóc (35): Đức Giêsu đã có mộtthái độ hết sức nhân bản khi đứng trước nỗi đau của người khác. Người ta hiểu là Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở đây tác giả Ga dùng một động từ để chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho] nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động từ này lại giống với động từ tác giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp cho bạn Người sống lại, tại sao Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta (c. 39) và của Maria.
- Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại (38): Mộ đứng như cái giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm. Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc với thi hài người chết.
- Đức Giêsu ngước mắt lên (41): Cử điệu ngước mắt nhìn lên là mộtcách mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện (x. Lc 18,13; Ga 17,1).
- Người kêu lớn tiếng (43): Động từ kraugazein chỉ được dùng 8 lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này được dùng 4 lần để nói về tiếng la hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu. Như vậy, dường như có thể rút ra mộtsự tương phản giữa tiếng kêu lớn của đám đông nhằm đưa cái chết đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan hô Đức Giêsu.
- chân tay còn quấn vải (44): Có người hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này không đúng chỗ vì đặt ra trong mộtbài tường thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có thể do mộtlý do thần học mà tác giả đã nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở 20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có thể là với ý là Người chẳng bao giờ cần đến chúng nữa, bởi vì Người không bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không chắc là tác giả có nghĩ đến số phận tương lai của Ladarô.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện đưa ta đến gặp một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức Giêsu có thể nói được rằng bất cứ kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi dậy từ cõi chết?
* Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6)
Đức Giêsu đã lui về mạn đông sông Giođan để tránh các đối thủ đang tìm cách bắt Người. Tại đây người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm; ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria” (11,1). Ladarô, em của cô bị đau ốm” (c. 2). Maria được giới thiệu bằng một câu đón trước: “là người sau này đã xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn Mácta được giới thiệu trước tiên như một người bạn (c. 5), rồi như một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài, Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu, nơi chỉ có các anh em chị em thôi.
Cũng như Đức Maria tại tiệc cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không trực tiếp bày tỏ mộtlời thỉnh cầu. Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho Người nếu Người đến gần Giêrusalem (x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana, Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới của mộtgia đình bằng hữu; rồi Người đã làm những hành vi quyền lực khác cho những người mà Người không quen biết. Lần này những điểm được nhấn mạnh là tình yêu thương và tình bằng hữu vẫn liên kết Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân cần riêng tư của Đức Giêsu đối với chúng ta là loài người. Người không theo đuổi mộtchương trình vật chất nào, trong đó kết quả thống kê quan trọng hơn những con người. Người coi chúng ta, những con người, là như những nhân vị mà Người quan tâm chiếu cố.
Dọc theo bài tường thuật, bằng nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc. 6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được sự kiện là các bạn của Đức Giêsu cũng chết mà Người không can thiệp gì?
Tác giả dùng thêm ba lời đón trước để cho thấy ý nghĩa của cái chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai gần như thế nêu bật sự khác biệt trong nhận thức của Đức Giêsu, là người biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì.
* Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (7-16)
Trước hết, Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền lực Người sắp thực hiện. Sau dấu lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh quang của Thiên Chúa” không phải là mộtvinh dự ích kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu độ loài người, những kẻ Ngài yêu thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ được thể hiện qua việc tôn vinh Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất là khi Người chịu giương cao trên thập giá, rồi Người chết và sống lại (12,23-32).
Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại.
Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thuộc về “giờ của Thiên Chúa. Nhưng dường như Người không đánh tan được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy!” (c. 16).
* Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a)
Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại Bêtania được mô tả bằng hai đặc điểm: Ladarô đã ở trong mồ được bốn ngày và có nhiều người quen biết đến với hai chị em. Theo quan niệm thời đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi.
Tất cả những người quen biết gia đình đã ở đó mà đành chịu bất lực khi đứng trước cái chết, và chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31). Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể thật sự thay đổi điều gì đó trong tình cảnh này và có thể đưa lại sự nâng đỡ đích thực bằng quyền lực thần linh của Người. Mácta đã đến găp Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai chị em đẵ lặp đi lặp lại câu này trong những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng có thể chữa lành những người đau ốm, nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là Người đã không đến đúng lúc. Nhưng rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể vượt qua sự chết mà vào sự sống.
Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước, ánh sáng và người mục tử nhân hậu; Người đã quy chiếu về chính mình Người những thực tại mà nhất thiết cuộc sống trần thế của chúng ta phải lệ thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người để được sống muôn đời. Nơi Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống bất tử của Người. Cuộc phục sinh giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc của cái chết; sống là kết hợp với Thiên Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho chúng ta và được liên kết với nhau trong đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin vào Người. Sự sống được Đức Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria.
Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là mộtdấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết, Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng đưa anh trở lại với cuộc sống trần thế, từ đó anh lại đi tới cái chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho thấy là cái chết không phải là một giới hạn đối với Người, nhưng Người có quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực của Người không phải là mộtcuộc sống trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Đức Giêsu muốn đưa cả Mácta, cũng như các môn đệ Người, đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên mộtlời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời được hàm chứa trong lời tuyên bố của Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38). Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình của Người đã nhắm tới trước: mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế ngược lại với các đối thủ của Đức Giêsu, những người đã trách Người là nói phạm thượng chống lại Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên Chúa dùng để thực hiện công trình cứu độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là Đấng sống trong mộtsự hiệp thông không có khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha: Người đã đến trong trần gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm (x. 11,42; 16,28).
* Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44)
Đức Giêsu bảo người ta dẫn Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và nhiều người khác đã đến để săn sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn người bất lực trước sức mạnh tàn nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của những người chắc chắn rằng cái chết là sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất một người thân là điều rất đau lòng; nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ người ấy lại cho riêng mình, trong khi người đó đang đi vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trước.
Đức Giêsu cho cất tảng đá che mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách thế giới người sống với thế giới kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu nguyện, đây là điều Người chưa bao giờ làm trong những hành vi quyền lực trước đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên của Người được tác giả Ga nhắc lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời Người. Về phần Người, Đức Giêsu tuyệt đối chắc chắn về sự kết hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần phải chứng minh cho Người bằng mộthành vi quyền lực. Nhưng điều mà Người nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu mới có thể thực hiện công trình của Người hầu cứu độ loài người. Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái: Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính Người để giúp đám đông hiểu rằng Người là sứ giả của Thiên Chúa.
Đối với Ladarô, người ta phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện: tảng đá đã được lăn ra một bên, và khăn liệm đã được đặt riêng ra (20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các môn đệ ý thức về sự kiện. 
* Kết luận: Ghi chú về đức tin (45)
Tất cả mọi người trong chuyện đều chứng tỏ họ thiếu đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin, cũng như lâu nay, là tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to lớn này của Đức Giêsu cũng là mộttrợ giúp niềm tin.
+ Kết luận
Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được mộtngười đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.  
5.- Gợi ý suy niệm
1. Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể không phải là giải quyết những vấn đề trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng bệnh. Người có làm các phép lạ để giải quyết các vấn đề đó, nhưng để các phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa người ta đến đức tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới được giải quyết tận căn, vì Người sẽ ban cho người ta sự sống đời đời.
2. Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang đi trên con đường đưa đến cái chết, tức khắc tôi nhận ra được giá trị của mỗi sự việc tôi đang đảm nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa ấy được giới thiệu: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận thấy cái chết không còn là mộtsức mạnh bách chiến bách thắng, mộtđịnh mệnh bi đát mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như mộtcửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu.
3. Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả những giới hạn của thân phận thọ tạo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống và chết như Người.
4. Sự can thiệp của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là mộtĐấng Vô Biên xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo của Người. Thiên Chúa đã nhập thể để làm người, mang mộttrái tim loài người. Người có thể cảm động, xao xuyến. Người yêu thương các bạn hữu của Người. Nhưng Người cũng bung quyền năng của Người ra để cho Ladarô sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con đường sống thật.
5. Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, vì Người là Lời tạo dựng của Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ chết, để rồi các đối thủ có thể chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì Đức Giêsu không muốn cứu lấy mộtmình Người. Khi đảm nhận thân phận con người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu được tất cả mọi người.



17. Chú giải của Alain Marchabour.

CHÚA GIÊSU LÀM CHO ANH LAGIARÔ SỐNG LẠI
Dấu lạ thứ bảy theo Tin Mừng Gioan là dấu lạ vĩ đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải xem dấu lạ này như là sự biểu hiệu trước cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu hơn là đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng.
Luôn luôn như thế trong Tin Mừng Gioan, đây là một bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Cả bài đều được sắp đặt chung quanh Chúa Giêsu; chính trong tương quan với Người mà mọi nhân vật được mời gọi thực hiện việc lựa chọn. Cảnh tượng xảy ra ở hai nơi. Ở bên kia sông Giođan (10,40-11,16) nơi Chúa Giêsu ở ẩn cùng các môn đệ và tại Bêtania (11,16-45) nơi ở của Lagiarô và hai chị. Theo Ga 1,28 thành phố bên kia sông Giođan cũng gọi là Bêtania. Như vậy, có hai “Bêtania”, ngăn cách bởi dòng sông Giođan, nơi này cách xa nơi kia trước tiên không phải về địa lý: có một Bêtania tĩnh lặng, đầy sức sống và lòng tin và một Bêtania náo loạn, đầy chết chóc. Bêtania, gần Giêrusalem, là nơi cư ngụ của Lagiarô, Matta và Maria, được giới thiệu ở đây như ba chị em. Lagiarô –có nghĩa là “Éléazar” (Thiên Chúa đoái thương) theo dạng thức Hy Bá- không được nhắc đến ở nơi nào khác. Cũng danh xưng này còn gặp thấy trong dụ ngôn về anh Lagiarô và ông nhà giàu (Lc 16) trong một tình huống không liên quan gì đến đoạn sách của chúng ta. Maria và Matta cũng không xuất hiện nào khác ngoài Lc 10,38-42.
Phần Dẫn: 1-6
Bài trần thuật mở đề như một truyện ngắn: “Có một người đau nặng”. Lagiarô được đề cập đến trong tương quan với hai cô chị Maria và Matta. Chị Maria được đánh giá dựa vào việc xức dầu thơm cho Chúa Giêsu. Bởi vì cô chị này được đặt quan hệ với “ngày mai táng” của Chúa Giêsu, ta có thể hiểu điểm giải thích này như cách hướng dẫn để suy ngắm: Maria được đặt liền bên cạnh sự tang tóc và sự chết.
Ở điểm này, hai chị em đều không khác nhau. Cô này cũng như cô kia đều được Chúa Giêsu thương mến, cả hai cô đều cho người đến báo cho Chúa Giêsu hay Lagiarô đau nặng. Có hai ghi chú khiến bài trần thuật trở nên bi thảm: Chúa Giêsu thương mến, thế nhưng Người còn lưu lại thêm hai ngày nữa! Điều trái nghịch này có thể là quan trọng. Nó còn lặp lại trong 11,36-37 dưới dạng thức lời xác quyết của người Do Thái: Kìa xem ông ta thương anh Lagiarô biết mấy!... Ông ta lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư!
Phần dẫn nhập này tạo cho Chúa Giêsu một tư thế duy nhất bởi lẽ người báo trước biến cố này như một căn bệnh không phải đưa đến sự chết mà là tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa và của Chúa Con.
Chúa Giêsu Và Các Môn Đệ: 7-16
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tạo nên một sự toàn nhất. Hơn nữa sự thống nhất của bài trần thuật được đánh dấu bằng sự bao hàm:
Người nói với các môn đệ (c.7)
Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê
người Do Thái tìm cách ném đá Thầy (c.8)
nào chúng ta đến với anh ấy (c. 15)
Tôma nói với các bạn đồng môn (c.16)
chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy.
Trong phần này, các môn đệ hành xử như thế theo hai thái độ. Trước tiên, các ông là đối tượng để Thầy dạy bảo. Quả thực, đứng trước cái chết của anh Lagiarô và những lời Chúa Giêsu nói, các ông tỏ ra không hiểu gì hết và cần lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chứng tỏ mình thông hiểu và mời gọi các môn đệ cùng chia sẻ: đối với Chúa Giêsu, cái chết của anh Lagiarô là một giấc ngủ: điều đó khiến hiểu rằng Người có thể “đánh thức” nếu anh ta nghe tiếng của Chúa Giêsu. Sau nữa, các ông đi theo Người và sau khi phản đối, cuối cùng các ông cùng tham gia vào chương trình của Người: “Nào chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy”. Thực tế, các ông chứng tỏ thế nào là môn đệ: lắng nghe Thầy và tiếp bước theo Thầy cho đến chết (các Tin Mừng Nhất Lãm sẽ đề cập đến “vác lấy thập giá của mình”).
Người kể chuyện khéo léo đưa vào một tựa đề thích hợp cho mỗi độc giả (mỗi người phải là môn đệ) và một sự quy chiếu vào biến cố đặc biệt bằng cách nêu tên ông Tôma và nhờ vậy tạo nên một căn cứ lịch sử cho bài trần thuật. Như vậy bài trần thuật vừa có tính lịch sử vừa có tính tượng trưng.
Chúa Giêsu Và Cô Matta: 17-27
Bài trần thuật chuyển ngay sang bên kia sông Giođan nơi diễn biến cuộc đối thoại với các môn đệ, tại Bêtania gần Giêrusalem. Tác giả tự do tóm tắt trì hoãn để đạt đến các mục tiêu của mình. Kể từ câu 20, tác giả dùng bài trần thuật ngay tại cổng làng Bêtania để khai triển hai cảnh song song trong đó mỗi chị em đều có một vai trò khác biệt nhau.
Cô Matta bỏ đám đông đang buồn thảm gồm cô Maria và nhiều người Do Thái để đi đón Chúa Giêsu. Việc đi đón này đặt cô Matta vào trong mối liên hệ đặc biệt tin tưởng khi đối diện với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu hiện diện, sự chết không thể lấn lướt được Người. Niềm xác tín này của cô Matta được diễn đạt bằng ba dụng ngữ.
Trước nhất cô xác tin rằng Chúa Giêsu có quyền trên sự chết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là cơ hội để cô tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu: “Con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Lời quả quyết giống như một lời cầu xin (như trong 2,3). Về điểm này, cô nhận biết Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, theo cung cách của Êlia và Êlisê, những vị mà Thiên Chúa ban cho quyền làm cho kẻ chết sống lại (1V 17,17-24; 2V 4,18-37). Thế nhưng đối với một tín hữu Do Thái, rõ ràng chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống, như lời của một kinh sư Do Thái minh chứng: “Ôi lạy Chúa, Chúa nắm trong tay ba bí quyết: quyền năng làm mưa gió, làm thụ thai trong lòng người nữ và làm cho kẻ chết sống lại”.
Khi Chúa Giêsu ẩn mình đi để nhắc cho Matta niềm tin của người Do Thái vào việc làm cho kẻ chết sống lại (Ga 11,23), cô liền tiếp theo Người để tin vào tín điều của dân Israel: “Con biết em con sẽ sống lại trong ngày sau hết”.
Nhất là khi Chúa Giêsu tỏ hiện như là sự sống lại và là sự sống, cô Matta liền vượt qua sự hiểu biết để tin: “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (11,27). Ở đây cô là dung mạo của người nữ tín hữu nhận biết nơi Chúa Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa kẻ sống vào giữa loài người. Ở đây Chúa Giêsu trổi vượt các ngôn sứ Êlia và Êlisê: Người được nhận biết như Đấng ban sự sống, theo mẫu hình của Thiên Chúa. Quả vậy, nhờ đức tin cô Matta đã hiểu rằng nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa ngự đến giữa loài người. Thật hoàn toàn hợp lý để cô Matta tuyên xưng Chúa Giêsu trong căn tính đích thực của mình, Đấng Mêsia của Thiên Chúa (cùng đích của Do Thái giáo) và Con Thiên Chúa. Như thế, cô tổng hợp Do Thái giáo (Đấng Mêsia) và sự mới lạ của Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Tiểu đoạn này đã đạt đến đích điểm khiến cho việc anh Lazarô ra khỏi mồ sau này trở nên tương đối, bởi vì vận may đặc biệt của anh đã trở nên thứ yếu: “Ở đây điều hệ trọng là “ai sống và tin vào Chúa Giêsu” (11,25).
Chúa Giêsu Và Cô Maria: 28-37
Người kể chuyện muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa hai chị em: họ gặp Chúa Giêsu tại cùng một địa điểm và thưa với Chúa Giêsu những lời như nhau. Thế nhưng lời đầu tiên của cô Maria chỉ lặp lại phần tiêu cực của điều cô em đã nói –“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây”- còn thiếu phần tuyên xưng đức tin. Trong hành động và trong lời nói, cô Maria vẫn còn chìm đắm trong tang chế: cô đang ở với người Do Thái đến chia buồn (cc. 31.33). Cô đang khóc lóc thảm thiết.
Có một niềm tin quá mức nơi cô Matta và một sự buồn thảm nơi cô Maria, ta có thể nói như vậy chăng? Các bản văn đều phóng khoáng và cô Matta người phụ nữ đầy lòng tin lại xuất hiện ở câu 11,39 với những dấu hiệu của sự thiếu tin tưởng. Thế nhưng, theo cách thức của nhà mô phạm, Gioan đã đánh dấu hai thái độ trước sự chết; cô Maria, được đề cập đến ngay từ phần đầu của bài trần thuật với vẻ tang tóc và chết chóc (c.2), tiêu biểu cho con người thất vọng vì sự từ biệt: sự buồn thảm thái quá khiến cô không thể đón nhận nơi Chúa Giêsu Đấng mặc khải của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Đứng Trước Anh Lagiarô: 38-45
Cuộc hội ngộ với anh Lagiarô được đặt liền sau đoạn đau thương khóc lóc và phiền muộn. Chúa Giêsu lặp lại địa vị Chúa Tể của mình và tỏ bày bằng ba cách:
a. Bằng lời nguyện xin cùng Chúa Cha qua đó biểu hiện sự kết hợp giữa Người với Chúa Cha và niềm xác tín được lắng nghe: “Con biết Cha hằng nhậm lời con”.
b. Bằng quyền năng của Người nơi các nhân chứng. Người ra lệnh hai lần: “Đem phiến đá này đi”. Cô Matta còn do dự được hướng dẫn đến vinh quan của Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ (11,4). “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Như thế đó, Chúa Giêsu không những giải thoát anh Lagiarô khỏi xiềng xích sự chết, mà còn không ràng buộc con người vừa mới được cứu thoát phải lệ thuộc vào mình. Người gởi trả anh Lagiarô về với sự sống.
c. Bằng sự can thiệp ngắn gọn nhưng hiện hữu của Người: “Người kêu lớn tiếng: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tiếng kêu này có tác dụng tạo được cho dấu lạ tính cách công khai không? Tiếng kêu có nêu lên được ý nghĩa tiếng nói của Người có thể vang đến xứ sở kẻ chết chăng? Cả hai ý nghĩa đều có thể, cùng với khả năng hướng đến tiếng kêu thảm thiết của Con Người vào thời cuối cùng lôi kéo kẻ chết ra khỏi mồ.
Anh Lagiarô
Khác hẳn với các nhân vật khác, nhân vật Lagiarô khá dài dòng: anh xuất hiện xuyên suốt bài trần thuật: anh là nguyên nhân làm phát sinh câu chuyện; anh là một câu chuyện của mỗi người và tạo cho tất cả các nhân vật khác khả năng làm cho sự chết một ý nghĩa. Anh xuất hiện với dáng vẻ thụ động, im lặng, một sự im lặng phong phú khiến cho mỗi nhân vật của bài trần thuật, và qua đó mỗi độc giả, đều có thể lên tiếng. Anh là người mặc khải cho mỗi người. Thoạt đầu, không có một yêu cầu nào đặc biệt: chính hai cô chị cho người đến nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. Sống lại ra khỏi mồ, anh Lagiarô tiếp tục im lặng và rút lui theo lời nói bí ẩn của Chúa Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Người kể chuyện quan tâm đến “phần để trắng” trong tiến trình của anh Lagiarô: bốn ngày anh ở trong mồ có ý nghĩa gì? Sau khi sống lại ra khỏi mồ, anh làm gì? Bài trần thuật đạt đến tột đỉnh cùng với việc tuyên xưng đức tin của cô Matta. Anh Lagiarô đã được “đánh thức” bởi vì anh đã nghe lời của Chúa Giêsu. Đấy là chỗ duy nhất trong bài trần thuật: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”.
Tuy nhiên, về cuộc hành trình cá nhân của anh Lagiarô, không có một dấu vết nào được thuật lại cho chúng ta ngoài sự kiện anh Lagiarô một trong những người đồng bàn cùng với Chúa Giêsu trong 12,2: Orgiène đã nói: “Anh Lagiarô đã trải qua một quãng đường dài, bởi vì anh đã đi từ ngôi mộ đến bàn tiệc của Chúa”. Anh biến khỏi bài trần thuật khi mà thánh sử thông báo rằng các vị thượng tế quyết định giết cả anh Lagiarô nữa (12,11): lời nói có hiệu quả đáng kinh ngạc. Chúng ta sẽ không còn biết gì về anh nữa, ngoài những tục truyền. Thánh sử đã đề cập khá đầy đủ về anh: từ nay cần phải nhường chỗ lại cho Chúa Giêsu, Người mà anh có nhiệm vụ chuẩn bị sự chết và sự vinh quang.
Chúa Giêsu Được Tỏ Hiện
Trọn bài trần thuật đều tập trung vào Chúa Giêsu. Trong mỗi phân đoạn, Người đều là biểu tượng chính yếu và lần lượt tỏ lộ một khía cạnh nhỏ về căn tính của Người, như được chứng mình khi ta nhìn thoáng qua các phần khác nhau của bài trần thuật.




18. Chú giải của Noel Quession.

Có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ Xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người (Ga 12,1-3). Anh Ladarô. Người bị đau nặng, là em của cô.
Bêtania ngày nay vẫn luôn mang tên bằng tiếng Ả Rập “El Azaneh", làng của Ladarô. Trong tiếng Do Thái “Beithaneiah" có nghĩa là "nhà của người nghèo". Bêtania! ở triền phía Đông của núi Ô-liu, ở 3 km phía Đông Giêrusalem, đó là phía mặt trời mọc trên Giêrusalem.. Đó là đỉnh của ngọn núi mà dưới chân nó, trên phía có bóng che, có vườn Ghết-sê-ma-ni ở phía thấp dưới. Bêtania! Đó là ốc đảo của ánh sáng và tình bạn hữu. Ở đó, trong một ngôi nhà thân hữu, Đức Giêsu đã sống hạnh phúc.
Hai chị em sai người nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng". Nghe vậy Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh". Đức Giêsu quí mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
Trong cuộc sống đầy xáo động và khó khăn của Chúa Giêsu. Bêtania là chốn cõi lòng được nghỉ ngơi. Theo thói quen, Tin Mừng giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn! được toả hào quang với địa vị Đức Chúa Phục sinh (và sự cám dỗ "theo thuyết một bản tính" rõ ràng là chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa nơi Người). Vậy mà, Thánh Gioan, người trông thấy rõ nơi Người Ngôi Lời, Con vĩnh cửu, cũng là người cho chúng ta thấy "con người" nơi Đức Giêsu. Người đã có nhiều tình bạn với nữ giới; như ta thấy rõ trong câu nói tinh tế và đơn sơ này: "Đức Giêsu yêu mến Mácta và em gái của cô", người cũng sẽ, lát nữa run lên vì xúc động và khóc.
Tuy nhiên sau khi được tin anh này lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày lại nơi đang ở. Rỗi sau dó, Người nói với các môn đệ: "Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê". Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?". Đức Giêsu trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình".
Sự sống lại của Ladarô là "phép lạ cuối cùng" của Chúa Giêsu, dấu hiệu cuối cùng mà người dành cho người Do Thái trong vụ tranh tụng giữa ánh sáng và bóng tối: ngay sau dấu hiệu này, trong Thánh Gioan, là cuộc Thụ Nạn bắt đầu (Ga 11,46-53). Khi đi sang miền Giuđê để cứu anh bạn Ladarô của mình, Đức Giêsu đi đón nhận cái chết của mình. Chúng ta chú ý là Đức Giêsu, mặc cho tình yêu của Người đối với hai người bạn gái, đã cố tình chậm đến gặp lại họ: Dù vẫn hoàn toàn nhân bản, Đức Giêsu không bao giờ để mình bị dẫn dắt bởi tình cảm của mình nhưng bởi ý muốn của Chúa Cha (4,34; 7,18; 8,29).
Người đã đợi cho Ladarô chết vì người biết thế, người không đến để tránh cho chúng ta khỏi đau khổ và tang chế, nhưng thay đổi những đau khổ và cái chết này nhờ sự sống lại của Người, chính Người cũng sẽ không tránh cái chết cho mình!
Nói những lời này xong. Người bảo họ: “Ladarô bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy Thầy đi đánh thức anh ấy đây. Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được anh ấy sẽ khoẻ lại". Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết, Thầy mừng cho anh em vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi nào chúng ta đến với anh ấy". ông Tôma, gọi là Đi-di-mô nghĩa là sinh đôi nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”.
Đức Giêsu luôn luôn gọi cái chết là một "giấc ngủ", và nhờ đó mời chúng ta thay đổi quan niệm của chúng ta về cái thực tại không thể tránh được này (Mt 9,24: Ga 11,11) Cái chết thể lý, đối với Đức Giêsu, là một giấc ngủ đơn sơ và tạm bợ; nấm mồ trở thành một nơi người ta nghỉ ngơi trong lúc chờ đợi thức dậy. Và Thánh Phaolô sẽ ca lên: "Hỡi người đang ngủ, hãy tỉnh giấc, ngày đã sáng rồi. Từ trong kẻ chết, người hãy trỗi dậy, và được sáng ngời" (Ep 5,14). Lạy Đức Giêsu, xin hãy giúp con hiệp thông thực sự ý tưởng của Chúa để cất khỏi sự chết cái đặc tính bi thảm của nó, để xem nó như sự "phát tình của Thiên Chúa" huyền nhiệm, khiến chúng con cuối cùng có thể tham dự vào cuộc sống hạnh phúc của nó: Những ai đã ngủ yên trong Đức Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ cùng đi với Người..." (1Tx 4,14), "bởi vì Đức Kitô đã sống lại từ kẻ chết, quả đầu mùa của những ai đã ngủ yên..." (I Cr 15,20). Vâng Đức Giêsu có thể "vui mừng" về cái chết của Ladarô. Ôi mạc khải! Mạc khải duy nhất có ích lợi... về cái chết.
Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiễu người Do Thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết, nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa. Người cũng sẽ ban cho Thầy” Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại". Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Đức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?". Cô Mácta đáp:Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô. Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian".
Mácta, như một phần lớn những người Do Thái thuộc thời cô, tin vào sự sống lại vào lúc tận thế... những ngày sau cùng! Điều mới mà Đức Giêsu yêu cầu cô tin, chính là một sự sống lại "hiện tại": "Thầy là sự sống lại!".
Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi độc nhất nghiêm chỉnh của lời Người, câu hỏi đặt ra cho mỗi người trong chúng ta khi đối diện với cái chết. "Ai tin vào Thầy dù đã chết sẽ sống". Thật? hay không thật? hay bạn không tin điều đó? Kinh Tin Kính của chúng ta đơn sơ và ngắn gọn: Đức Giêsu làng Nadarét, đã chết và đã sống lại! Điều đó đơn giản như một buổi sáng Lễ Phục sinh. Trong khi chờ đợi chết. chúng ta phải sống điều đó, phải tin điều đó. Bởi vì tất cả mọi người tin vào Đấng đã sống lại không thể sống một cuộc đời không có tình yêu, không cậy trông, không niềm vui được của sẻ. Nếu bạn phải chết chiều nay, bạn sẽ làm thế nào để có thể trải qua ngày này trước khi ôm lấy Chúa? Cuộc đời của một tín hữu đầy sự sống lại, đầy sự sống và đầy niềm vui. Thầy là sự sống lại và là sự sống Những lời kiêu kỳ gây hốt hoảng? Đó là một thằng điên nói ra... hay chính là Thiên Chúa. Cuộc sống mà Người nói đến, hiển nhiên có một bản tính khác với cuộc sống sinh lý này, chết là hết; nhưng là cuộc sống của Thiên Chúa. Ai tin Thầy thì sẽ không bao giờ chết. Đức tin, ngay từ bây giờ, là một sự vui hưởng trước đời sống đó, đời sống không chết, chính là đời sống của chính Thiên Chúa.
Nói xong. Mácta đi gọi em là Maria và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy. Nghe vậy cô Maria vội đứng lên và đến với Người... Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: ' Thưa Thầy nếu có Thầy ở đây em con đã không chết”. Thấy cô khóc và những người Do Thái đi theo cũng khóc, Đức Giêsu thao thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các anh để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: ' Thưa Thầy! mời Thầy đến mà xem". Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương Ladarô biết mấy". Có vài người trong nhóm họ nói: "ông ta mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?". Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.
Thật là tai hại, lại một lần nữa, khi những người phiên dịch đã không phán đoán tốt để cho người ta cảm thấy trong bản (dịch của họ, một tiểu tiết thật đẹp trong bản văn Hy Lạp, mà hiển nhiên là Gioan muốn thế. Ba lần, khi nói đến Mácta và Maria và những người Do Thái, Gioan dùng tiếng "Klainein" có nghĩa chính xác là "khóc, nức nở to tiếng" và chúng ta đoán những tiếng nấc và tiếng kêu ở Phương Đông, rất chan hòa tình cảm của mình, mà người ta thoáng nghe thấy nơi những bà khóc mướn chung quanh đám tang. Nhưng khi đến Đức Giêsu, Gioan thay đổi tiếng, và nói về "dakruein", có nghĩa là "khóc thổn thức lặng lẽ. Và từ này làm cho tôi trông thấy những giọt nước mắt âm thầm rơi trên mắt của một Giêsu làm chủ được mình, và cả khi Người đau khổ. Người vẫn khống chế được đau khổ riêng của mình.
Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: 'Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày! Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, thì chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?". Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha. vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con. Nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con".
Câu truyện dài dòng này, dẫn nhập vào cuộc sống lại của Ladarô, đi cho chúng ta hiểu là mục đích của trang này không phải là sự "tỉnh dậy" của cái chết thể lý của Ladarô, nhưng chính là sự tiến bộ trong đức tin của tất cả những người bao quanh Đức Giêsu. Và hành vi cảm tạ của Đức Giêsu, ta hãy chú ý điều này, không nhắm đến phép lạ mà Người sắp làm, nhưng đến sự kiện là phép lạ này sẽ giúp cho những người không tin hay những người yếu lòng tin "tin tưởng":
- Những môn đệ đã chống, không lên lại Giêrusalem, họ nghi ngờ, họ sợ.
- Mácta không muốn mở ngôi mộ, chị hoài nghi, tử thi đã để quá trễ ngày.
Những người Do Thái, cho dù họ có thiện cảm với ba chị em, không tới để khóc nức nở.
Đức Giêsu muốn cầu nguyện cho tất cả họ, cho tất cả những người khó lòng tin tưởng, cho tôi, cho các bạn. Và đức tin chính là gì vậy? Chính là nhìn nhận rằng Đức Giêsu đến từ chỗ khác. Đức Giêsu được sai đi. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin cái chỗ khác từ đó Đức Giêsu đến không? Trong trang này của Gioan, có 23 cuộc di chuyển nơi chỗ được nhắc đến: bên ngoài Giu-đê, về hướng Giu-đê, về hướng Bêtania, về phía nhà, về phía mộ, về phía Giêrusalem; nhưng trung tâm của tất cả những cuộc di chuyển này, dù bề ngoài thế nào, không phải là "ngôi mộ" có thể cuốn hút chúng ta nhìn vào, mà đó là một thế giới khác, thế giới của Chúa Cha, từ đó Đức Giêsu được sai đi! Không có nơi đó, vấn đề cái chết không được giải quyết.
Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô hãy ra khỏi mồ!". Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi". Đông đảo người Do Thái đã đến thăm cô Macta, và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm. Họ tin vào Người.
Vấn đề chính yếu, đối với con người, theo Đức Giêsu, trước hết không phải là có thể ra khỏi mồ một ngày kia, mà ngay từ bây giờ, đi từ sự chết sang sự sống bằng một đức tin gắn bó vào bản thân Đức Giêsu: "Họ tin vào Người", còn chúng ta?