LỜI CHÚA TUẦN
16 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 16A - THỬA RUỘNG LÒNG
NGƯỜI
CNTN 16B
- ĐỘNG LÒNG THƯƠNG VỚI NHÓM 12 VÀ DÂN CHÚNG
THỨ BA -
LÀM THEO Ý CHA TRÊN TRỜI
THỨ SÁU
- HẠT ĐƯỢC MỘT TRĂM, HẠT ĐƯỢC BA MƯƠI...
CNTN 16A - THỬA RUỘNG LÒNG NGƯỜI
Lời Chúa: Mt 13, 24-43
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân
chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng
mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa
lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ
nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong
ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta
đã làm như thế." Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi
xin đi nhổ cỏ." Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các
anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến
mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó
mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta."
Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước
trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi
thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến
nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó."
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng:
"Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho
đến khi bột dậy men." Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với
dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm
lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những
điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian."
Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các
môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng
trong ruộng cho chúng con nghe."
Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người.
Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái
gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các
thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào,
thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu
tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả
chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói
như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe."
TRUYỆN KỂ
1. Khuynh hướng bất bao dung
Có lần Liên Hợp Quốc đã chọn nguyên một năm làm
"năm quốc tế về lòng khoan dung" để giảm thiểu khuynh hướng bất bao
dung ngày càng gia tăng trong nhân loại.
Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều
xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ. Bất bao dung là đòi trừng
trị ngay những người xấu: một người làm gì đó có hại cho ta, ta trả đũa ngay.
Do nóng vội, có khi ta không suy nghĩ kỹ xem biết đâu chính ta có gì sai lỗi
nên người kia mới cư xử với ta như vậy. Khi người kia bị ta tấn công, họ cũng
có thể cho là bị tấn công oan ức nên lại trả đũa ta. Thế là hai bên cứ leo
thang. Thực ra có mấy ai hoàn toàn tốt, cũng như có mấy ai hoàn toàn xấu. Thái
độ bất bao dung phát sinh từ suy nghĩ cho mình là tốt, hoàn toàn đúng và người
ta là xấu, hoàn toàn sai.
Trên bình diện cá nhân và khu xóm, bất bao dung khiến
người ta khó sống chung hòa thuận với nhau. Trên bình diện quốc tế, bất bao
dung dẫn đến những cuộc chiến tranh khu vực. Mà xung đột và chiến tranh chẳng
mang lại ích lợi gì, chỉ toàn gây hại. Chính vì trên thế giới có quá nhiều cuộc
chiến tranh khu vực cho nên Liên Hợp Quốc mới thấy cần đề ra một năm quốc tế về
lòng bao dung.
Muốn bao dung thì phải biết mình và biết người: biết
mình cũng có lỗi lầm, và biết người cũng có những điều tốt. Muốn lấy cái rác
trong mắt người ra thì trước hết phải lấy cái xà trong mắt mình đã.
2. Cái nhìn thiển cận
Thiển cận là chỉ thấy gần chứ không thấy xa, chỉ thấy
bề ngoài mà không thấy bề trong. Do thiển cận nên người ta bất bao dung, mất
kiên nhẫn.
Thiên Chúa có thể bao dung và kiên nhẫn vì Ngài vừa
thấy hiện tại vừa thấy tương lai, vừa thấy bề ngoài vừa thấy bề trong.
3. Lành dữ cộng sinh
Nghe bài dụ ngôn "cỏ lùng" hôm nay, có người
sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ
lùng cùng tồn tại trong ruộng mình! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách
nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân
từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu: "Hỏi kẻ lành là
ai, kẻ dữ là ai?" Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen
rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi.
Cái lý đo nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt
rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống
như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà quy
chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo
những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm
điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi
loại trừ, lên án anh em là cỏ lùng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự
phụ: "Tôi nói thật, bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đường trước
các ông kia đấy!"
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ,
kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai
tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được sự dữ.
"Kẻ lành" Monica đã cảm hóa được "kẻ dữ" Augustinô và cả
hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Hội Thánh.
4. Người đảng viên quốc xã Schindler
Những ai đã từng xem cuốn phim Schindler's List hẳn
đều ghê tởm vai chính của phim đó, tên là Oskar Schindler, một đảng viên Ðức quốc
xã, đã từng giết hại rất nhiều người.
Thế nhưng nhiều người đã từng biết ông thì lại ca tụng
ông như một ân nhân cứu mạng cho hàng ngàn người khỏi bị Ðức quốc xã giết. Thậm
chí có người còn nói: "Ông ta là cha, là mẹ và là niềm hy vọng độc nhất của
chúng tôi."
Sự thật là thế nào? Sự thật, Oskar Schindler không
phải là một vị thánh, mà là một con người với nhiều dằng co mâu thuẫn: trước hết
ông là một người chồng bất trung đã bỏ vợ và chạy theo một cuộc sống ăn chơi
thác loại; ông cũng là một người công giáo nhưng lại không sống đạo; ông là đảng
viên đảng Quốc xã Ðức từng tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh do đảng này phát động;
chính ông đã thú nhận rằng ông hy vọng khi chiến tranh thắng lợi thì ông sẽ có
hai cái rương đầy vàng; ông còn hành hạ nhiều người Do Thái...
Nhưng bên trong ông lại có một con người khác. Ðó là
một người tốt. Nhiều lần đang cư xử như một người xấu, ông lại hướng về bên
trong con người tốt ấy. Thấy những từ nhân bị hành hạ tàn nhẫn, ông không chịu
nổi và nhiều lần dám đứng lên bênh vực họ. Hai lần ông đã bị bỏ tù vì những
hành động như thế.
Sự thật về Oskar Schindler là như thế: vừa là quỷ dữ
vừa là thiên thần, trong lòng ông vừa có cỏ lùng vừa có lúa tốt.
5. Trái tim phân chia
Sau nhiều năm phải sống trong trại tập trung, văn
hào Alexandre Solzhenitsyn đã nghiệm ra được những ý tưởng sau:
Tôi đã học được một bài học lớn nhờ những năm bị
giam trong tù.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một
người trở nên tốt như thế nào.
Tôi đã dần dần nhận ra rằng đường biên giới phân
chia giữa tốt và xấu không nằm giữa các nước hay các giai cấp hay các đảng phái
chính trị, mà nằm ngay trong lòng mỗi người.
Ngay trong những trái tim ngập tràn sự ác vẫn còn
sót lại một đầu cầu nhỏ nối với sự thiện.
Và ngay trong trái tim tốt nhất của các trái tim vẫn
còn tồn tại gốc rễ sự ác.
6. Cải tà qui chính
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề:”Hãy xuống
những con đường tồi tàn này." Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính
từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã
sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị
ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời
mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh
đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ
đã, anh mới qùi gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng:”Tôi bầy tỏ với
Chúa những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những
thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể
khóc đuợc... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được."
Sau khi Piri vừa cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp
lại:”Amen." Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri:”Tôi cũng
tin Chúa." Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng
chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu,
nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói:”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng
Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài
thôi."
7. Giai thoại về thánh Antôn.
Một hôm thánh nhân nghe tin một người thợ giầy tiến
bộ hơn Ngài về đường nhân đức. Lòng hăm hở tiến đức đã thúc đẩy Ngài quyết chí
đi tìm người thợ giầy kia để học hỏi cách tu đức của người ấy.
Sau những ngày cố công tìm tòi, Ngài đã gặp được người
thợ giầy kia. Thoạt thấy công việc của người thợ giầy, thánh nhân hơi nản lòng,
vì thấy sinh hoạt duy nhất của người này là đóng giầy. Nhưng để cho bõ công đi
tìm kiếm, thánh nhân đã trao đổi với người thợ giầy kia về lối sống tu đức.
Thánh nhân hỏi người thợ giầy về chương trình sống hằng
ngày của người thợ ấy. Người này cho biết một ngày của ông được chia ra làm ba
phần như sau:
- 8 giờ cho công việc của người thợ giầy.
- 8 giờ cho việc cầu nguyện.
- 8 giờ cho việc ăn uống nghỉ ngơi.
Sau khi nghe người thợ giầy nói, thánh nhân nản lòng
vì chính Ngài đã dành cho hết cả ngày để cầu nguyện chứ không phải chỉ tám tiếng.
Thánh nhân hỏi cách xử dụng tiền của ông ta. Người
này cho biết 1/3 dành cho ông, 1/3 dành cho Giáo hội, 1/3 dành cho người nghèo.
Nghe vậy thánh nhân cho rằng người thợ giầy này
không thể nhân đức hơn Ngài được vì Ngài đã dành tất cả của cải của Ngài cho
người nghèo chứ không phải chỉ 1/3.
Cuối cùng thánh nhân khám phá ra người thợ giầy phải
sống giữa một thành phố sa đọa, chung quanh đầy những người tội lỗi và gương xấu,
và ông thợ giầy đau khổ về chuyện đó, ông không ngớt kêu cầu cùng Chúa cho họ,
và ông hằng cầu nguyện cho kẻ có tội chung quanh ông. Và thánh nhân chợt nhận
ra rằng đó là điều mà Ngài thua kém người thợ giầy. Ngài thấy rằng Ngài chưa có
được sự thao thức về những nỗi khổ đau của những người chung quanh, trái lại,
Ngài lại đi tìm cho một mình một cuộc sống an phận với nếp sống ẩn tu.
8. Tâm hồn -- thửa ruộng
Ở Do Thái, “cỏ lùng” là một loại cỏ dại được gọi là
darnel. Nó rất giống cây lúa khi mới mọc lên. Loại cỏ dại này mọc ở khắp nơi và
hiện hữu ở ruộng lúa. Chính vì nó giống cây lúa, nên ban đầu rất khó phân biệt
với lúa...
Khi trổ bông thì người ta mới phân biệt được sự khác
nhau giữa cỏ lùng và lúa, nhưng lúc đó thì rễ của cỏ và lúa đã quấn với nhau
nên không thể nhổ một mình cỏ được. Hạt cỏ thì độc không ăn được.
Tâm hồn chúng ta được trình bày bằng hình ảnh thửa
ruộng. Một thửa ruộng có lúa tốt xanh tươi nhưng cũng hiện hữu cỏ lùng phát triển
không kém tựa lúa xanh và có khi nhìn thấy giống nhau.
9. Lòng tốt chiến thắng
Có một tên cướp đi vào một ngôi làng nọ. Hắn lẻn vào
nhà vị bác sĩ duy nhất trong làng và dự định đến khuya sẽ kề dao vào cổ ông và
bắt ông nói ra chỗ cất tiền bạc cùng những của cải quý giá, rồi sẽ giết ông để
giữ bí mật.
Đêm ấy, đột nhiên có điện thoại từ người thân của một
đứa trẻ đang bị bệnh rất nặng từ làng bên cạnh cầu cứu bác sĩ. Lúc ấy là vào
mùa đông, trời đổ tuyết rất lớn, mưa gió bão bùng. Làng đứa trẻ bị bệnh lại
cách xa một quả núi. Đi đến đó quả có nhiều nguy hiểm trên đường, mà trời đã
quá khuya, trong khi ông đã trải qua một ngày làm việc quá mệt mỏi.
Gác điện thoại, ông bác sĩ quyết định không đi, thở
dài đi đến giường nghỉ ngơi cho lại sức. Nhưng rồi ông lẩm bẩm “Mình không đi
bây giờ lỡ đứa trẻ có thể chết thì làm sao?" Vậy là ông lấy lại tinh thần,
ông mặc thêm áo, cầm theo cây đèn bão. Rồi ông mở cửa, ra đi. Dáng ông liêu
xiêu trong gió tuyết.
Sáng hôm sau khi bác sĩ trở về, tên cướp đón ông ngay
trước cửa nhà, sụp xuống dưới chân vị bác sĩ, nói: “Ông có biết tôi chờ ông suốt
từ đêm qua tới giờ không?”
“Xin ông vào nhà để tôi khám bệnh cho ông” – Vị bác
sĩ đáp lại.
Tên cướp nói: “Không phải thế. Tôi là một tên cướp.
Đêm qua tôi đã ẩn nấp trong nhà ông. Tôi muốn bắt ông khai ra chỗ giấu của cải
và sẽ giết ông. Nhưng hôm qua giữa trời gió tuyết ông đã bất chấp nguy hiểm đi
chữa bệnh cho người ta. Tôi đã rất xấu hổ vì định làm hại một người như ông.
Khi ông ra đi trong đêm, ông không chỉ cứu đứa trẻ làng bên kia, mà còn cứu
chính bản thân ông. Và ông biết không, ông còn cứu cả tôi nữa!"
10. Loan truyền sự ác
Mới đây bên Hoa Kỳ, một học sinh 15 tuổi đã mang
súng tiểu liên cưa nòng vào nhà trường, bắn bừa bãi vào các thầy cô và các học
sinh khác làm chết và bị thương nhiều người. Ở sở thú Detroit người ta phải
thuê thêm 4 nhân viên để bảo vệ các thú vật khỏi bị khách tham quan quậy phá. Một
con Kan-gu-ru Úc còn nhỏ bị lạc mất mẹ, đã bị đám con nít trêu chọc và ném đá đến
chết. Tại hồ nuôi cá sấu, nhiều người lớn đã ném những mẩu điếu thuốc xì gà còn
cháy dở vào những chú cá sấu đang nằm tắm nắng và thích thú reo hò khi thấy tro
lửa làm cháy phỏng da khiến loài bò sát này quằn quại đau đớn. Tại gia đình, có
những em nhỏ khi thấy con chó hay con mèo đang nằm ngủ trên sàn, đã đá mạnh vào
bụng, khiến chúng kêu rú lên và các em cười lên khóai trá...
Những điều điên rồ đáng kinh tởm đó khiến chúng ta
phải tự hỏi: Tại sao sau hơn hai mưoi thế kỷ rao giảng Tin Mừng mà tội ác vẫn
còn hiện diện khắp nơi như vậy? Chúng ta có thể và phải làm gì để loại trừ các
tội ác ấy ra khỏi môi trường mình đang sống? Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu
đã gián tiếp trả lời cho các thắc mắc này qua ba dụ ngôn về Nước Trời là cỏ
lùng, hạt cải và men trong hũ bột.
11. Giá trị của đau khổ
Thiên Chúa cho phép sự ác xuất hiện để thử thách và
thanh luyện con người. Trong chuyện ông Gióp, Thiên Chúa đã cho ma quỉ được thử
thách đức tin của ông (x. G 1,12; 2,6). Như vậy đau khổ thử thách cũng có giá
trị vì những lý do sau
a) Đau khổ giúp ta nên hoàn hảo hơn: Chẳng hạn lần đầu
dùng dao, ta đã vụng về nên bị đứt tay, từ đó ta sẽ rút kinh nghiệm để ngày
càng sử dụng dao thành thạo hơn.
b) Tội lỗi và đau khổ sẽ giúp ta khiêm tốn và thông
cảm với tha nhân hơn: Nhờ đã từng bị đau mắt hay đau răng, bị đau khổ vì người
yêu phụ bạc… mà chúng ta sẽ dễ cảm thông với những ai bị đau khổ như vậy, nhờ
đó lòng đạo đức nơi ta cũng được gia tang.
c) Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành: ngụ ngôn
Trung Hoa có câu chuyện sau: Một ông già ở gần biên giới có con ngựa rất quí tự
nhiên bị mất tích. Một tuần sau, con ngựa ấy quay về trang trại dẫn theo một
con ngựa cái khác cũng xinh đẹp và quí hiếm như nó. Từ khi có hai con ngựa quý,
cậu con trai ông chủ ngày ngày cùng chúng bạn chơi đua ngựa. Một hôm anh ta bị
té gẫy chân. Năm sau, khi quân địch tấn công vào các làng biên giới, mọi trai
tráng trong làng đều bị động viên lên đường chiến đấu nơi tiền tuyến, mười người
đi thì bị chết chin người. Riêng con trai ông lão vì bị què chân không phải nhập
ngũ nên còn sống… Câu chuyện này cho thấy điều dữ có thể là khởi đầu cho điều tốt
và ngược lại. Nếu người ta có thể biến một điều xấu thành tốt, thì Thiên Chúa
quyền năng nhân hậu cũng có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Thánh Phao-lô đã viết
như sau: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”
(Rm 8,28). Bài “Mừng vui lên” (Exultet) hát trong đêm Phục Sinh đã gọi tội
nguyên tổ là “tội hồng phúc”, vì nhờ tội này mà Thiên Chúa đã ban Đấng Cứu Thế
cho nhân loại chúng ta.
d) Chấp nhận đau khổ còn là cách chứng tỏ một tình
thương thực sự: Trong đời sống thường ngày, đau khổ của người này có thể thành
nguyên nhân đem lại hạnh phúc cho người kia. Chẳng hạn: Sự cực khổ của cha mẹ sẽ
mang lại hạnh phúc cho con cái. Do đó khi chấp nhận chịu thua thiệt đau khổ để
người khác được hạnh phúc là dấu hiệu của một tình yêu thực sự. Đức Giêsu đã thể
hiện tình yêu tột cùng khi chịu thiệt rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã lập
bí tích Thánh Thể để nên của ăn và ở cùng Hội Thánh luôn mãi.
12. Không gì là quá muộn
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự
do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại một câu
chuyện như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam
Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng toi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được
gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn
Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng toi là đại dương mênh mông, với các
đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là “điểm hẹn” của ba biển cả: Ấn Độ dương,
Biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm
thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào
mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt
trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động
tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn
chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời
chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng
từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
13. Thế chỗ Chúa Giêsu trên thập giá
Truyện kể rằng có thầy ẩn tu nọ tên là Cébastien thường
đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân
chúng tôn kính một tượng thánh giá với tước hiệu là “Tượng Chúa ban ơn."
Thấy dân chúng có lòng tin thường tới cầu xin ơn
lành, thầy Cébastien cũng thêm lòng tin cậy. Một hôm, nhân lúc vắng người, thầy
đến quỳ gối trước tượng thánh giá và đơn thành khẩn nguyện:
- “Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với
Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thập giá."
Rồi thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên thánh
giá mong được đáp lời. Một lúc sau thầy nghe như từ trên thánh giá có tiếng
phán bảo:
- “Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Tqa trên thập
giá, nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe
gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết."
Thầy Cébastien đã hứa, và được Chúa Giêsu cho lên thế
chỗ Ngài trên thập giá. Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến quỳ trước tượng thánh
giá cầu nguyện. Nhưng không ai hay biết về việc thế chỗ đổi ngôi giữa Chúa
Giêsu và thầy Cébastien.
Một hôm có người đến quỳ cầu nguyện. Xong, ông đứng
dậy ra về bỏ quên lại dưới ghế cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy, thầy
vẫn yên lặng. Một lúc sau có người nghèo đói vào nhà nguyện. Ông ta vui mừng trố
mắt nhìn túi tiền tưởng là của Chúa ban cho, rồi xách túi tiền ra đi. Kế đó có
chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì phải xuống tàu đi
xa. Chàng thanh niên vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm
túi tiền. Không thấy đâu, ông nghĩ là chàng thanh niên đã lấy trộm, nên điệu
chàng đến trình cảnh sát. Không cầm lòng được nữa, từ trên thập giá, thầy
Cébastien hô lớn tiếng:
- “Đứng lại!”;
Mọi người ngạc nhiên dừng lại, và thầy phân trần sự
việc. Sau đó người phú hộ ra đi tìm người nghèo đói để lấy lại túi tiền và
chàng thanh niên cũng vội vã ra đi cho kịp chuyến tàu. Khi không còn ai trong
nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng phán bảo thầy Cébastien:
- Con hãy xuống ngay khỏi thập giá! Con không xứng
đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ im lặng như lời con hứa.
Thầy Cébastien vội vã phân trần:
- Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được
cảnh bất công đó?
14. Tội nào được tha thứ?
Có tội ác nào tày trời đến độ không thể tha thứ được
không? Tap chí Times đã nêu ra câu hỏi trên đây khi trích dẫn câu trả lời của một
vị luật sư người Capuchia.
Cách đây ba năm, một Mục sư đã rửa tội cho một giáo
viên ở một vùng sình lầy thuộc tỉnh Battanapan, ở mạn TÂy Campuchia. Mới đây
người giáo viên này tiết lộ mình đã từng làm giám đốc cơ quan mật vụ của Khờ-me
đỏ. Sau 20 năm lẩn trốn, nay ông thú nhận là ông đã trực tiếp nhúng tay vào vụ
thảm sát ít nhất là 12.000 người Khờ-me.
Người Mục sư mà cha mẹ và với gần 2.000.000 đồng bào
ruột thịt bị người Khờ-me đỏ sát tế trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, đã nhận
định về cuộc trở lại của người giáo viên này như sau:
Thật là kỳ diệu, Kitô giáo có thể thay đổi cuộc sống
con người. Nếu Chúa Giêsu đã thay đổi người giáo viên này, thì Người cũng có thể
thay đổi tất cả mọi người.
Ông Duo tức người giáo viên này, một hôm đã đến nghe
vị Mục sư thuyết giảng, sau đó ông đã xin chịu phép rửa, ông nói rằng, trong suốt
thời thơ ấu và ngay cả khi lớn lên ông không bao giờ được yêu thương. Giờ đây
tin nhận Chúa Kitô, ông cảm thấy tâm hồn được tràn ngập yêu thương.
Mục sư ghi nhận rằng, cuộc thay đổi nội tâm đã ảnh
hưởng đến toàn diện con người của ông. Trước kia ông lầm lỳ ít nói, nay ông vui
vẻ và cởi mở với tất cả mọi người. Trước kia quần áo ông xốc xếch, thì nay ông
ăn mặc chỉnh tề. Sau khi đón nhận phép rửa và tiết lộ tông tích của mình, ông
Duo đã bị chính quyền Campuchia bắt giữ hồi tháng 5.1998, hiện nay ông đang bị
giam tại một nhà từ gần trung tâm Tollen, tức là nơi trước đây ông đã từng tham
vấn, hành hạ và sát hại hàng trăm ngàn người đồng bào ruột thịt của mình.
Nhận định về tay đồ tể khát máu Khờ-me, người luật
sư Lobin đã nói như sau: một câu chuyện mang lại niềm hy vọng cho nhân dân
Campuchia, họ đã trải qua quá nhiều năm trong tăm tối. Khi đón nhận Chúa Giêsu,
họ đã được mang lại ánh sáng trong cuộc sống của họ. Thật vậy, đã đến lúc người
Campuchia cần phải từ bỏ thù hận để sống yêu thương.
15. Ba cái sàng
Thời trẻ, có một lần, một người bạn của Socrates chạy
tới tìm ông. Người bạn này vừa thở vừa cao hứng nói: “Mình nói với cậu chuyện
này, đảm bảo là ngoài sức tưởng tượng của cậu.”
“Chờ chút!” Socrates vội vã ngăn anh ta lại và nói:
“Những lời mà cậu định nói với tôi, cậu đã dùng ba “cái sàng’ để lọc qua chưa?’
Người bạn của Socrates với vẻ mặt không hiểu, lặng
im và lắc đầu.
Socrates nói: “Lúc mà cậu muốn nói cho người khác một
việc gì đó, ít nhất cũng nên dùng ba “cái sàng” lọc qua một lượt. Cái thứ nhất
gọi là chân thật, cậu phải xem xem chuyện mà cậu muốn nói cho người khác có
đúng sự thật không?”
Anh bạn tiếp lời: “Tôi là nghe được trên đường đi tới
đây, mọi người đều nói như vậy chứ tôi cũng không biết là có đúng sự thật
không.”
Socrates lại nói tiếp: “Vậy thì nên dùng “cái sàng”
thứ hai của cậu để kiểm tra đi. Nếu như nó không phải là sự thật, thì ít nhất
cũng là có thiện ý tốt chứ? Chuyện mà cậu muốn kể với tôi có phải là có thiện ý
không?”
Người bạn kia nghĩ nghĩ một lát rồi nói: “Không có,
thậm chí còn ngược lại nữa”, người bạn này nói xong dường như cảm thấy có chút
xấu hổ, liền cúi mặt xuống đất.
Socrates không ngần ngại mà nói tiếp: “Vậy thì chúng
ta lại dùng cái sàng thứ ba xem thử xem, việc mà cậu vội vã để nói cho mình biết
có phải là việc quan trọng không?’
“Cũng không phải là việc quan trọng!”
“Một việc không quan trọng mà lại không xuất ra từ
thiện ý, hơn nữa cậu còn không biết có phải là sự thật không, thế thì cậu cần
gì phải nói ra? Nói ra cũng chỉ tạo thành phức tạp cho hai người chúng ta mà thôi.”
Socrates cũng từng nói: “Đừng nghe và tin vào lời
nói của những người bàn luận thị phi hay là người gièm pha, phỉ báng. Bởi vì lời
mà họ nói cho bạn không phải là xuất từ thiện ý, họ đã vạch trần việc riêng tư
của người khác thì đương nhiên cũng sẽ làm như vậy với bạn.”
16. Tội đáng sợ nhất
Một hôm Satan ra lệnh cho một người kia phải thi
hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không nó sẽ cướp linh hồn người đó. Ba
điều đó là: giết cha, hành hạ người em, uống rượu. Người đó ngẫm nghĩ: giết
cha, đánh đập người em là điều trái với đạo lý làm người, còn uống rượu thì dễ
quá, ai mà không làm được. Thế là anh ta quyết định đi uống rượu. Lúc đầu anh
ta còn làm chủ được, nhưng về sau không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say
lúy túy và kết quả đã diễn ra đúng như qủy mong đợi. Anh ta đã giết cha, hành hạ
người em và còn làm nhiều điều tội lỗi khác.
Quả thực, con người hơn mọi tạo vật khác là có khả
năng biết phân biệt điều thiện điều ác, biết chọn lựa điều nào nên làm hay
không nên làm, và vì thế chỉ có con người mới phải nhận lãnh trách nhiệm về việc
làm của mình. Có một chuyện ngụ ngôn kể rằng:
17. Một cách diệt cỏ lùng
Một nhà hiền triết dẫn các học trò đến trên bãi cỏ
hoang và hỏi các học trò: Làm thế nào để diệt trừ hết cỏ hoang này?
Một học trò thưa: “Dạ thưa thầy, chỉ cần có một cái
xẻng thôi là xong hết ạ!”Nhà hiền triết khe khẽ gật đầu. Một người học trò khác
như phát hiện ra điều gì mới, nói tiếp: “Dạ thưa thầy, đốt lửa để diệt cỏ cũng
là một cách rất hay đấy ạ!”Nhà hiền triết im lặng mỉm cười, ra hiệu gọi một người
khác. Người học trò thứ ba nó: “Thưa thầy, rắc vôi lên cũng có thể diệt được hết
tất cả các giống cỏ đấy ạ!" Tiếp ngay sau đó là người học trò thứ tư anh
ta nói: “Diệt cỏ phải trừ tận gốc, chỉ cần nhổ được rễ lớn là xong hết!"
Các học trò đã lần lượt nói hết suy nghĩ của mình, nhà hiền triết mới nói: “Muốn
diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ có một cách hay nhất, đó là hãy trồng cấy mùa
màng lên đấy. Cũng như vậy, muốn để linh hồn không phải buồn lo tản mạn, thì
cách duy nhất là hãy chiếm cứ nó bằng những đức tính tốt."
18. Cỏ dại đáng sợ nhất
Lance Edward Armstrong, sinh năm 1971, là một cựu vận
động viên đua xe đạp chuyên nghiệp nổi tiếng người Mỹ. Ông từng được biết đến
như một vận động viên xe đạp đã phá kỷ lục giải Tour de France, khi giành chiến
thắng bảy lần liên tục, sau khi vượt qua bệnh ung thư tinh hoàn, nhà sáng lập
và chủ tịch của Tổ chức Lance Armstrong, một tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ cho bệnh
nhân ung thư. Tháng 10 năm 2012, Lance Armstrong bị phát hiện liên quan đến vụ
bê bối doping và bị tước hết mọi danh hiệu vô địch và bị cấm thi đấu môn xe đạp
suốt đời.
Tên khai sinh của ông là Lance Edward Gunderson,
sinh ngày 18 tháng 9 năm 1971. Khởi nghiệp đua xe đạp vào năm 1990, Armstrong
đã chuyển lên thi đấu chuyên nghiệp chỉ một năm sau đó. Tháng 10 năm 1996, ông
được chẩn đoán là mắc ung thư tinh hoàn với một khối u đã di căn tới não và phổi
và tiên lượng bệnh ban đầu xấu. Quá trình điều trị ung thư của ông bao gồm giải
phẫu não và tinh hoàn, hóa trị kéo dài.
Mặc dù vậy, Armstrong vẫn tiếp tục thi đấu, và đến
năm 1999, đã giành được chiếc áo vàng danh giá Tour de France lần đầu tiên và
giữ được ngôi vị này trong 7 lần liên tục, được ghi nhận trong lịch sử bộ môn
đua xe đạp đường trường, là người duy nhất chiến thắng 7 lần liên tiếp, phá vỡ
kỷ lục trước đó là giành chiến thắng 5 lần từng đạt bởi Miguel Indurain,
Bernard Hinault, Eddy Meckx, và Jacques Aquetil.
Tuy nhiên, sự nghiệp một đời của Armstrong bị xóa bỏ
sau một bản cáo buộc của Ủy ban Phòng chống Doping Hoa Kỳ U.S. Anti-Doping
Agency - USADA), kết tội Armstrong và các tay đua đội Bưu điện Mỹ đã thi đấu
gian lận bằng cách sử dụng chất kích thích và tìm cách qua mặt các cuộc kiểm
tra doping. Sau khi xem xét và đồng ý với các cáo buộc này, ngày 22 tháng 10
năm 2012, Liên đoàn xe đạp quốc tế đã ra phán quyết tước 7 danh hiệu vô địch
Tour de France và cấm thi đấu suốt đời đối với Armstrong, đặt dấu chấm hết của
cựu vận động viên đua xe đạp từng là tấm gương về nỗ lực tập luyện và thi đấu.
(Wikipedia)
Lance Armstrong đã hoàn toàn mất tất cả vì trò gian
lận. Hạt giống nghị lực ganh đua xen với cỏ dại doping đã gây ra thảm họa.
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn cây lúa và cỏ dại
tranh sống cho đến ngày chung thẩm.
19. Cỏ dại hay lúa tốt?
Gia đình tôi đã mua một căn hộ 10 năm về trước, và
chúng tôi đã chuyển đến căn hộ này vào mùa xuân. Tôi nhận thấy có một giống cỏ
lạ trong vườn nhà mình. Khi loại cỏ này lớn lên vào mùa hè, tôi khám phá ra
chúng không còn giống một loại cỏ dại nữa. Đó là loại rau ăn được, tên khoa học
là Antium lappa. Rễ của nó màu trắng, dài đến 1 mét khi nó lớn và rất khó để nhổ
lên. Rễ của giống cây này sẽ bị gãy và tự phân hủy, trước khi tôi có thể bứng
nó đi. Tôi còn khám phá ra một điều thú vị về loại cây Antium lappa này. Nhiều
người đã dùng nó như một vị thuốc để chữa bệnh. Đó cũng là một loại thảo mộc mà
bông của nó có thể được dùng để dệt vải. Khi người ta lấy sợi bông này dính vào
lông cừu, thì rất khó để gỡ ra. Đây là loại cỏ dại đối với tôi và gia đình, những
đối với những người biết công năng của nó, thì nó chẳng còn là một loại cỏ dại
nữa. Phân biệt cỏ dại với một loại thảo mộc hữu ích, tùy thuộc vào sự hiểu biết
của từng người.
20. Phân biệt là việc của Chúa
Câu chuyện diễn ra trong một cánh đồng với hai nhân
vật chính đối nghịch nau. Một bên là người chủ, người đại diện cho Thiên Chúa
và gieo hạt giống tốt; bên kia là kẻ thù, đại diện cho Satan và gieo cỏ lùng.
Với thời gian trôi qua, cỏ lùng cũng lớn lên giữa
lúa và khi đối diện với sự thật này thì người chủ và các tôi tớ của ông có thái
độ khác nhau. Các tôi tớ thì muốn can thiệp vào và nhổ cỏ lùng, nhưng người chủ,
một người quan tâm trên hết là việc giữ lại lúa, thì lại bác bỏ và nói: “Không
được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng." Với hình ảnh
này, Chúa Chúa Giêsu nói là việc trong thế giới này sự lành và sự dữ thì quá
đan xen vào nhau đến nỗi thật không thể tách và loại trừ hết mọi sự dữ.
Chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi mới có thể thực hiện
điều này, và Ngài sẽ thực hiện trong Dịp Phán Xét Chung. Hoàn cảnh hiện tại, với
tất cả sự mập mờ và tính cách hỗn tạp của nó, là cánh đồng của sự tự do, cánh đồng
của sự tự do của người Kitô Hữu, mà trong đó việc khó biện phân giữa điều tốt
và điều xấu lại diễn ra.
21. Cần gieo hạt giống tốt
Trên một tờ báo nọ có câu chuyện tếu lâm đáng suy
nghĩ: Một bé trai được mẹ cho ghé chơi nhà ông nội trong dịp cuối tuần. Ông thấy
cháu mình chơi với bạn rất hăng say, nhưng hễ mở miệng ra là có những lời không
thanh lịch cho lắm. Nội mới gọi cháu cưng lại trách:
- “Cháu học kiểu ăn nói du côn của đứa nào vậy? Từ
nay trở đi ông cấm không được chơi với những thứ đó nữa nghe chưa.”
Đứa cháu vừa thở dài vừa nói:
- “Nếu thế thì từ nay cháu phải nghỉ chơi với bố
cháu hay sao?
Ông nội:!!! (Thì ra nó học được từ bố nó.)
Hỡi bạn, Thiên Chúa đang cần chúng ta tiếp tay với
Ngài để gieo vào gia đình, cộng đoàn, và lòng người những hạt giống tốt. Có thể
là những hạt rất bé như hạt cải, nhưng hiệu năng vô cùng lớn lao. Có thể là những
hạt đơn sơ âm thầm, nhưng lại như nắm men làm dậy biết bao đấu bột. Hãy gieo đi
những hạt giống yêu thương, chân thật, trung tín, nhẫn nại, quảng đại, thứ
tha... Chắc chắn hoa trái mai ngày sẽ là một mùa hân hoan và hạnh phúc tràn đầy.
22. Gieo và gặt
Cô Mary, một giáo viên trẻ, ước được thành công
trong nghề; rủi thay, trong lớp, có một học sinh rất bướng bỉnh, Bill; cậu biến
lớp học thành rạp xiếc. Cô Mary buồn vô cùng. Một buổi sáng, cô ngồi vào bàn lấy
giấy viết một câu gì đó. Bill xuất hiện, cậu hỏi, “Cô đang viết gì thế?”; “Cô
đang viết một lời cầu nguyện đây em." Bill nhạo lại, “Chúa có đọc được chữ
tốc ký không?”; “Ngài hiểu hết mọi sự, Ngài có thể nhậm lời cầu của cô nữa."
Nói xong cô gấp tờ giấy, bỏ vào tập sách. Giờ ra
chơi, Bill đánh cắp tờ giấy đó. Hai mươi năm sau, tình cờ, Bill gặp lại tập vở
thời thơ bé, trong đó có tờ giấy của cô giáo xưa. Bill đọc, “Lạy Chúa, xin đừng
để con phải thất vọng, Bill quá bướng bỉnh, phá phách, con không điều khiển nổi
lớp. Xin Chúa đánh động tâm hồn em. Bill có thể trở nên người tốt, cũng có thể
trở nên người xấu; một thiên thần hay một tướng quỷ."
Lời kinh sau cùng bổ vào tâm hồn người thanh niên
như một nhát dao cắt thấu tim, vì Bill đang toan tính làm một việc tày đình.
Bill trầm ngâm nhiều ngày; cuối cùng, chàng cương quyết đổi đời. Ít lâu sau,
thành phố Bronx biết đến Bill, như một người cha của hàng trăm trẻ mồ côi.
23. Xắn tay áo lên để xây dựng
Có một sinh viên 22 tuổi học tại đại học Simon
Fraser ở Canada. Tên cậu ấy là Terry Fox. Năm 1977, cậu bị ung thư và bị cưa
chân phải. Huấn luyện viên bóng rổ ở trường trung học mà trước đây cậu đã học
khi hay tin buồn này, ông liền gởi cho Terry bài báo nói về một người bị cưa
chân đã thi chạy giải Marathon Nữu Ước. Bài báo gây hưng phấn cho trí tưởng tượng
của Terry. Cậu biết mình chỉ còn sống thêm một vài năm nữa, vì thế cậu muốn được
làm một điều gì cho có ý nghĩa với những năm còn lại này. Cậu bèn quyết định cố
gắng chạy băng ngang qua cầu Canada từ Newfoundland đến British Columbia với
khoảng cách là 5000 dặm (khoảng 9000 km). Cậu yêu cầu người ta bảo trợ cho cậu
và cậu sẽ cho mọi người biết mọi diễn tiến về bệnh của cậu để họ nghiên cứu bệnh
ung thư. Suốt 18 tháng, Terry đã tập chạy trên chiếc chân giả.
Cuối cùng, ngày 12/4/1980, Terry bắt đầu chạy. Cậu
nhúng chiếc chân giả của cậu vào Ðại Tây Dương và bắt đầu chạy băng ngang qua
Canada. Trong túi cậu có toàn bộ giấy tờ hứa bảo trợ lên tới một triệu đô la.
Sau 114 ngày và 3000 dặm đường: bất thình lình Terry ngã gục xuống. Căn bệnh
ung thư đã lan đến buồng phổi cậu. Cậu không thể hoàn thành cuộc chạy. Khi nghe
tin báo Terry bị quỵ xuống, dân chúng khắp nơi ở Canada liền gởi đến nhiều tặng
vật bào trợ cho cậu ở bệnh viện. Trong nhiều tiếng đồng hồ, số tiền bảo trợ cho
cậu lên tới 24 triệu đôla. Vài ngày sau đó, Terry qua đời.
Nếu như kẻ nào đó có quyền nguyền rủa bóng tối thì kẻ
ấy phải là Terry. Tuy nhiên cậu ta rất cao thượng nên đã không làm thế. Cậu đã
quyết định thắp lên một ngọn nến. Và ánh sáng ấy từ đó sẽ mãi mãi tỏa chiếu ra.
Một cuốn phim đã dựng lại cuộc đời cậu. Một con tem đã phát hành để ca ngợi cậu.
Và cậu là nhân vật trẻ nhất đã từng nhận được vinh dự cao nhất của quốc gia tức
huân chương Canada. Mãi đến hôm nay, Terry vẫn còn khích động trí tưởng tượng của
nhiều người.
Câu chuyện của Terry vẫn được tiếp nối. Donald
Marrs, một người đưa thư 44 tuổi, sống ở Cincinnati, cùng bị bệnh ung thư giống
Terry. Quá xúc động vì câu chuyện của Terry, ông bèn hoàn tất cuộc chạy cho cậu.
Ông khởi sự từ phía dưới Chicago và trong 3 tháng đã tới được cầu Golden Gate
Bridge. Khi ông chạy xuyên qua chiếc cầu này thì một cơn mưa phùn rơi xuống
nhưng ông vẫn tiếp tục chạy. Và khi ông nhúng tay vào Thái Bình Dương hoàn tất
cuộc chạy của Terry thì một chiếc cầu vồng khổng lồ đã bắc ngang qua bầu trời.
Ðó là một kết thúc phi thường cho một cuộc chạy phi thường.
24. Từ tấm lòng
Thượng Đế ra lệnh cho một vị thần đến gặp một người
đạo đức nọ muốn gì và bảo anh sẽ có bất kỳ thứ gì mà anh ta khao khát. Nhận được
tin tốt lành, anh ta trả lời: “ồ, nhưng tôi đã rất hạnh phúc rồi. Tôi đã có tất
cả những gì tôi muốn."
Vị thần giải thích rằng Thượng Đế muốn tặng anh một
món quà, thì tốt hơn cả là hãy chấp nhận.
Người đàn ông tốt bụng này liền trả lời: “nếu quả là
vậy, xin Thượng Đế phù hộ cho tất cả những ai đến với tôi đều được hạnh phúc”
Kể từ đó, mỗi khi người đạo đức này xuất hiện ở đâu,
cây khô héo trở thành tươi tốt, những con vật đau ốm trở nên khoẻ mạnh, những
con người bệnh tật được chữa lành,
những người bất hạnh trút bỏ được mọi gánh nặng, những
ai đang mải đấu tranh tìm thấy an bình, và những ai gặp khó khăn đều tìm được lối
thoát.
Người đạo đức tốt bụng phấn khởi ra đi khắp thế giới
và mang hạnh phúc đến cho muôn người. Amen.
25. Lúa và cỏ lùng
Hồi tháng 4-2014 vừa qua, thủ lãnh Boko Haram xác nhận
trách nhiệm bắt cóc hơn 300 em nữ sinh tại ký túc xá ở Chibok trong bang Borno
thuộc miền bắc Nigeria. Một số em trốn thoát, nhưng những kẻ bắt cóc còn giữ gần
300 em. Ông nói rằng: “Việc bắt những bé gái tiếp thu nền giáo dục Tây Phương để
mang đi bán là một việc mà tổ chức của ông thực hiện theo lệnh của Thượng Đế.”
Thượng nghị sĩ Mỹ Amy Klobuchar cho biết một số bé gái chỉ có 15 tuổi đã bị
Boko Haram mang đem bán cho các chiến binh của họ để “làm vợ nhí” với giá 12 đô
la. Nhóm này đã phá hủy hơn 200 trường học ở Nigeria và giết hại nhiều học
sinh.
Nghe tin ấy, nhiều người chúng ta tự hỏi sao Chúa
không sai thiên thần vặn cổ cho bọn đó chết hết đi. Không chỉ bọn ấy nhưng mà
còn tất cả bọn du côn, hại dân bán nước nữa.
Chúng ta tự hỏi: “Tại sao Chúa tốt lành lại để sự dữ
phát triển như vậy?” Chúng ta muốn nhổ sạch những nết xấu ngay lập tức. Nhưng
thực tế xem ra như David Hume nói: “Các thụ tạo của Chúa vượt ngoài tầm kiểm
soát và Chúa bất lực để chữa trị nó. Như chúng ta, Chúa chỉ còn cách nhìn xem
và chờ đợi.” Không, các thụ tạo vẫn còn trong vòng tay Chúa nhưng Chúa nhẫn nại,
chờ đợi. Romano Guardini viết rất đúng: “Nhẫn nại đòi hỏi sức mạnh - sức mạnh lớn
lao. Nhẫn nại siêu việt ở nơi Đấng Toàn Năng. Bởi vì Chúa là Đấng Toàn Năng,
Chúa có thể nhẫn nại với thế giới.”
26. Hãy kiên nhẫn sống tốt
Văn hào người Nga Dostoieveski, với tác phẩm nổi tiếng
như "Tội ác và hình phạt", "anh em nhà Karamazov..." là người
đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm vì lý
do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng như một phép lạ, vào giữa lúc bị
hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh được tha. Người viết tiểu sử của ông đã kể
lại như sau: "thời gian ngồi tù đã in đậm nét trên quảng đời còn lại của
ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông
chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương, dù họ
có phạm tội những tội ác tày trời đi nữa, thì tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của
những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ hơn là đáng kết tội.
Khi bước xuống khỏi máy chém, Dostoievski thấy mọi sự
như vô nghĩa. Điều duy nhất còn ý nghĩa đối với ông chính là tình yêu, và cho
dù trong suốt 30 năm sau, cộng đoàn của ông có đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi,
của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương. Một
lần bị đưa lên máy chém cho ông hiểu rằng: con người đau khổ, tất cả mọi người
đều đáng cảm thông và thương mến.
Tất cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng để
diễn đạt câu nói: "Hỡi người anh em, không gì có thể ngăn cản tôi yêu
thương bạn"
27. Loại bỏ dịp tội
Ở Scotland, nghề canh nông đã được hiện đại hoá với
kỹ thuật máy móc tối tân, nhưng còn một công việc cần phải được làm cẩn thận bởi
bàn tay con người. Vài ngày trước khi mùa thu hoạch lúa mạch, bạn sẽ thấy một số
đông dân chúng đi bộ băng qua cánh đồng lúa để nhổ những cây lúa dại. Lúa mạch
là nguồn nông sản chính yếu cung cấp lương thực cho người dân Scotland. Một món
ăn thông dụng được ưa thích khắp nơi trong nước làm từ lúa mạch là món cháo đặc,
ở Mỹ gọi là oat meal, một món ăn điểm tâm vừa dễ nấu, vừa bổ dưỡng lành mạnh,
không gây gia tăng chất béo, cholesterol, trong động mạch. Do đó mùa gặt lúa mạch
là một sinh hoạt rất quan trọng.
Điều rất đơn giản mà những người nông dân phải làm
là nhổ những cây lúa mạch dại ra khỏi ruộng lúa trước khi thu hoạch. Nếu để những
cây lúa dại này trong lúc gặt, những hạt giống của nó sẽ rớt xuống và mọc lên
tràn ngập cánh đồng trong mùa sắp tới. Sự khác biệt giữa lúa dại và lúa mạch thật
rất tinh tế. Chỉ sau một hai ngày làm việc, bạn sẽ biết phân biệt rõ ràng. Điều
lạ lùng là cây lúa dại thường lớn hơn và khoẻ mạnh hơn lúa thật làm bạn nghĩ rằng
phải giữ chúng lại. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy rằng nhánh và hạt
lúa dại dài hơn, nhưng lại lép. Điều này giúp ta hiểu tại sao những người nông
dân phải chờ đợi cho đến khi mùa thu hoạch đến mới nhổ những cây lúa dại đi, vì
chỉ khi đó bạn mới phân biệt được rõ ràng.
28. Tốt quá hay xấu quá?
Những người phụ trách các show hài hước kể chuyện
vui thường có thói quen bắt đầu vào câu chuyện như sau: “Kính thưa quý vị, tôi
có vài tin vui và vài tin buồn xin gửi đến quý vị."
Có một cuộc đối thoại tưởng tượng xảy ra như sau: “Một
ông kia gặp người bạn và nói: “Tôi đã trúng số mấy chục ngàn đô la." Người
bạn trả lời: “Tốt quá." “Không, khi đến Thuỵ Sĩ chơi trượt tuyết tôi đã
xài hết rồi, và còn bị gãy chân nữa chứ." “Xấu quá." “Không, trong thời
gian nằm bệnh viện, tôi gặp và yêu một cô y tá rất xinh đẹp, rồi tôi đã cưới cô
ta." “Tốt quá." “Không, nhưng chẳng may cô ấy lại không thích ở Mỹ,
và đòi chúng tôi phải ở lại Âu Châu." “Xấu quá." “Không, chúng tôi mua
nhà ở Paris và kiếm được một việc làm cho hãng xuất khẩu." “Tốt quá."
“Không, hãng bị phá sản, và chúng tôi bị mất nhà." “Xấu quá." “Không,
trong hoàn cảnh túng quẫn, tôi đã xem lại mục đích, giá trị của đời mình và thấy
rằng tôi đang sống lầm lạc." “Tốt quá." “Không, vợ tôi đã không chấp
nhận quan điểm của tôi, và chúng tôi dần dần xa cách nhau." “Xấu
quá." “Không, trong lúc hôn nhân bị khủng hoảng, chúng tôi đến với người cố
vấn hôn nhân giúp chúng tôi nhận ra sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa." “Tốt
quá." “Không, vì chúng tôi quá tập trung vào Thiên Chúa nên đã mất hầu hết
bạn bè ở Paris và gây ra đụng chạm với cha mẹ vợ." “Xấu quá."
Cứ thế mà tiếp tục. Lúc tốt, lúc xấu. Đời là thế! Tốt
và xấu đi đôi với nhau: “Vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng
như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất
chính."
29. Nhận xét không thành kiến
Có một câu chuyện cổ kể về một ông vua ở Ba Tư muốn
dạy cho bốn người con trai một bài học về sự phán đoán. Bốn người con phải lên
đường đi tìm một cây đào trong những thời điểm khác nhau. Trước tiên, vào mùa
đông nhà vua ra lệnh cho người con trai lớn nhất phải lên đường. Vào mùa xuân,
người con kế tiếp phải ra đi. Đến mùa hè, người con thứ ba ra đi. Cuối cùng,
khi mùa thu về người con út phải ra đi. Sau đó nhà vua đã gọi tất cả bốn anh em
lại để hỏi xem họ diễn tả cây đào như thế nào.
Người con cả nói cây đào giống như một gốc cây khẳng
khiu trơ trụi. Người con thứ cãi lại, cây đào nở đầy hoa mầu hồng rực rỡ. Người
con thứ ba không đồng ý, cây đào cành lá xanh tươi. Người con thứ tư nói tất cả
các anh đều sai. Đối với anh, nó đeo đầy trái trên cành!
“Này các con”, nhà vua nói, “mỗi người đều đúng cả."
Trong khi nhìn vào những cặp mắt lúng túng của các con, nhà vua giải thích.
“Các con thấy đó, mỗi người đã nhìn thấy cây đào trong mỗi mùa khác nhau, do đó
tất cả các con đã diễn tả rất đúng điều đã nhìn thấy. Bài học cho các con là phải
từ bỏ sự phán đoán của mình cho tới khi các con nhìn thấy cây đào trong bốn mùa
của nó."
30. Tình yêu có giá trị tuyệt đối
Một em bé lúc 13 tuổi bị mọi người xua đuổi, vì em mắc
bệnh phong cùi nên mất quyền sinh sống với cộng đoàn. Một nhà truyền giáo bật
chợt đi ngang qua nhìn thấy vậy, ông cảm thấy thật đau lòng nên vội vàng xuống
xe bênh vực cho em. Không những nhà truyền giáo này chỉ bênh vực cho em bé bất
hạnh. Mà còn đem em về trung tâm của mình để săn sóc.
Vừa khóc vừa cảm động, em hỏi nhà truyền giáo:
- Lại sao ông tốt với tôi như vậy?
Em bé gọi nhà truyền giáo bằng ông, vì đây là một
linh mục Công giáo đang công tác mục vụ cho bệnh nhân ở làng bên cạnh.
- Lại sao ông tốt và lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên tôi và dựng
nên con.
Tất cả chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh
của Ngài, và được Ngài yêu thương cách trọn vẹn, Ngài cũng muốn chúng ta yêu
thương liên đới với nhau. Vì chính Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian là
Đức Kitô để giúp cho mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm vị của mình là
con cái Thiên Chúa. Vì thế, vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con. Và từ đó em
bé 13 tuổi bị bệnh phong cùi này không những không quên được những cử chỉ của
nhà truyền giáo, mà còn xin được làm đồ đệ của Chúa Giêsu và dùng những năm
tháng còn lại của đời em để săn sóc cho các người phong cùi khác nặng hơn em lại
trung tâm người phong cùi của nhà truyền giáo.
"Vâng lời Ngài, cha xin săn sóc cho con. Vâng lời
Chúa dạy, tôi phục vụ anh chị em."
31. Giá trị của nụ cười
Theo yêu cầu, một nhà đạo đức đã kể lại kinh nghiệm
đời mình như sau:
- Giai đoạn đầu tiên, tôi được Thiên Chúa cầm tay, dẫn
tới xứ sở của hoạt động và tôi đã ở lại đó nhiều năm. Tiếp đó, Ngài trở lại đưa
tôi đến xứ sở của niềm đau, tại đây, trái tim tôi được thanh luyện khỏi mọi
dính bén với của cải trần gian. Sau đó, Ngài dẫn tôi đến miền đất của cô đơn, ở
đó mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân đều bị thiêu rụi. Và rồi tôi có thể đi vào xứ
sở của thinh lặng, trước mặt tôi, mầu nhiệm của sự sống và sự chết đều được bày
tỏ.
Nghe thế, người ta liền hỏi:
- Phải chăng ngài đã đạt tới giai đoạn cuối cùng của
cuộc tìm kiếm.
Nhà đạo đức trả lời:
- Chưa đâu, ngày nọ, Thiên Chúa nói với tôi: Lần này
Ta đưa con vào thẳm cung của đền thánh để con được đi vào cõi lòng Ta.
Thế là tôi đã đến xứ sở của nụ cười.
Người Tây phương thường bảo: Một vị thánh buồn là một
vị thánh đáng buồn vậy. Niềm vui phải chăng là nét chính yếu trên khuôn mặt của
một vị thánh.
32. Cứ để cả hai cùng lớn lên
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự
do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại câu chuyện
như sau:
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam
Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng tôi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được
gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn
Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng tôi là đại dương mênh mông, với các
đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là điểm hẹn của ba biển cả: Ấn Độ Dương, biển
Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy
mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn dập vào mỏm
đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt
trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động
tôi và nói: “Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn
chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời
chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng
từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào
trong bóng tối dày đặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành,
biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông,
chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại
sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẽ. Nếu
đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có
ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại
để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Fiorello LaGuadia là một trong những thị trưởng nổi
tiếng của New York, ông được dân New York yêu mến vì lòng nhân hậu của ông. Họ
gọi ông là “Bông Hoa Nhỏ” vì ông có vóc dáng thấp bé và lúc nào cũng có một đóa
hoa cẩm chướng đính trên ve áo.
33. Tình và lý
Một buổi tối giá lạnh đầu năm 1935, tại một khu phố
nghèo nhất New York, ông xuất hiện trong một phiên tòa và đích thân xử một vụ
kiện.
Đó là vụ kiện một người đàn bà lớn tuổi bị kết tội
ăn trộm một ổ bánh mì. Bà vừa khóc vừa kể chuyện con rể bỏ rơi vợ và hai đứa
con. Con gái bà đang ốm, hai đứa cháu đói lả. Bà phải lấy trộm một ổ bánh cho
con và cháu ăn; còn ông chủ tiệm bánh mì thì khăng khăng: “Thưa quý tòa, thật
là kinh khủng khi phải sống với một người hàng xóm ăn trộm."
Ông thị trưởng phải xử thế nào đây? Ông ra phán quyết:
- Luật pháp không dung thứ cho bất cứ một hành động
xấu nào. Tôi thấy cần phải phạt tội ăn cắp của bà. Hình phạt cho tội ăn cắp là
20 đôla hoặc ngồi tù mười ngày.
Công bố bản án xong, ông thị trưởng rút 20 đôla
trong túi đưa cho bà lão nộp phạt, rồi quay xuống cử toạ ông nói:
- Bà lão đã bồi thường cho tội ăn cắp, còn phần quí
vị, tôi yêu cầu mỗi người đóng 50 xu tiền phạt vì đã sống dửng dưng đến độ để
cho một người trong thành phố chúng ta phải ăn cắp vì nghèo đói.
Nói xong, ông bảo viên biện lý đi thu tiền. Chiếc mũ
ông thị trưởng được chuyền tay một vòng cho mọi người. Khi chiếc mũ trở về, người
ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông trao tất cả cho bà lão. Câu truyện bản tiếng Anh
-
Tất cả những người có mặt trong phiên tòa ấy, sau
khi nộp tiền đã đứng dậy vỗ tay vang dội.
Sự công bằng và tình yêu thương thường bị coi là hai
điều tương phản với nhau nhưng vẫn phải có nhau để tồn tại.
La
Fontaine kể chuyện một con nai soi mình xuống nước. Nó rất hài lòng về bộ gạc
to lớn của nó: “Bộ gạc này sao mà đẹp thế, sao mà oai hùng thế, sao mà dễ
thương thế!”, nhưng lại rất buồn và bất mãn với bốn cái chân: “Chúng nhỏ quá, xấu
quá, không hợp chút nào với thân xác lực lưỡng của mình!” Đang miên man nghĩ
như thế thì nó chợt thấy bóng một người thợ săn. Nó vội vã chạy trốn ngay. Lúc
đó nó mới thấy khổ sở vì bộ gạc cồng kềnh, vướng víu giữ chân nó lại, không cho
nó chạy thoát nạn, và nó phải chết vì cái đã làm cho nó hài lòng và hãnh diện!
Vì
thế, ĐHY Nguyễn văn Thuận đã giúp chúng ta phân định: “Ở trong nhà thờ suốt
ngày chưa hẳn là nhân đức, nếu còn bắt lý lẽ, nếu còn phản ứng theo khôn ngoan
thế gian, còn tự ái… Gioan và Giacôbê ở với Chúa luôn, nhưng Ngài phải hỏi:
“Chúng con có tinh thần của ai?”
34. Thiên Chúa là tình yêu
Năm
1887, một vụ giết người cướp của đáng sợ xảy ra tại Paris. Thủ phạm là Pranzini
đã giết hai phụ nữ một cách dã man để tước đoạt đồ nữ trang. Ngày 13 tháng 7,
Pranzini bị kết án tử hình. Báo chí và người đương thời đều gọi anh là “tên đồi
bại ghê tởm”, “ác quỷ”, “kẻ hung ác cực kỳ xấu xa.” Lúc đó, mặc dù chỉ mới 14
tuổi nhưng với một tâm hồn hết sức cao thượng và quảng đại, chị thánh Têrêxa
Hài đồng Giêsu chỉ thấy Pranzini là một người đáng thương hơn là đáng ghét, và
hết lòng ao ước cứu sống tâm hồn anh ta.
Chị
rủ chị gái Céline cầu nguyện và làm nhiều việc hy sinh để xin ơn thống hối tội
lỗi cho anh. Chị đã ghi trong cuốn “Tự thuật của một tâm hồn”: “Tôi đã xác tín
tận thâm tâm rằng những ước nguyện của chúng tôi sẽ được đoái nhận, nhưng để
cho mình can đảm tiếp tục cầu nguyện cho kẻ tội lỗi, tôi thưa với Chúa tôi tin
chắc rằng Ngài sẽ tha thứ cho Pranzini bất hạnh đáng thương, và tôi xin điều ấy
cho dù anh ta không xưng tội hay tỏ dấu sám hối. Tôi đã tin tưởng như thế vào
lòng nhân từ của Chúa Giêsu, nhưng tôi vẫn xin một ‘dấu chỉ sám hối’, chỉ để an
ủi mình.”
Trước
đó, Pranzini đã từ chối lãnh nhận các phép sau hết; nhưng vào phút chót, ngày
31/8, trước khi lên máy chém, anh đã xin cho được cây thánh giá và hôn kính hai
lần. Têrêxa rất xúc động khi thấy báo chí thuật lại như thế, và coi đó như một
dấu chỉ cho biết Chúa chấp nhận điều chị xin.
Thiên
Chúa là tình yêu, mà công việc của tình yêu là “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,7).
35. Nhẫn nại và khoan dung
Ngày
xưa, ở miền đông Ả Rập có ông vua tên Sariya. Vì hoàng hậu ngoại tình nên nhà
vua từ một con người hiền lành đã trở nên hung bạo. Vua căm ghét tất cả các phụ
nữ. Và để trả thù phụ nữ, mỗi ngày vua cưới một người vợ, qua một đêm chung sống,
sáng hôm sau, vua ra lệnh giết chết người vợ ấy. Khắp nơi, dân chúng rên xiết
trước sự tàn bạo của ông vua.
Một
ngày nọ, có một thiếu nữ tên Sêhêrazat vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang, lại có tài
kể chuyện, đã tình nguyện vào cung làm vợ vua để cảm hóa vua.
Đi
với nàng còn có cô em gái, hai chị em thay phiên kể chuyện cho vua nghe. Mỗi
đêm một truyện, đêm này qua đêm khác, truyện nào cũng hấp dẫn, truyện nọ liên
quan đến truyện kia, khiến cho vua say sưa lắng nghe không sao dứt được. Cứ thế,
suốt trong một nghìn lẻ một đêm, với tài kể chuyện, hai chị em đã cảm hóa được
nhà vua, khiến ông quên khuấy việc giết người. Vua thay đổi tính tình, bãi bỏ lệnh
bắt các thiếu nữ và cưới nàng Sêhêrazat làm vợ.
“Nghìn
Lẻ Một Đêm” giống như một bức thảm Ba Tư tuyệt đẹp, được đan dệt bằng trăm
nghìn câu truyện phong phú, vẽ tả một xã hội mà trong đó người tốt kẻ xấu lẫn lộn.
Có người đang tốt trở nên xấu. Có người đang xấu trở nên tốt, như câu chuyện
nàng Sêhêrazat mà chúng ta vừa nghe.
Câu
chuyện dụ ngôn “Cỏ Lùng và Lúa” Chúa Giêsu kể trong bài Tin Mừng theo thánh
Matthêu hôm nay cũng diễn tả một thực tại tương tự: trần thế như cánh đồng bao
la, trong đó, cỏ lùng và lúa lẫn lộn, người tốt kẻ xấu ở bên cạnh nhau. Tuy
nhiên, người chủ ruộng đầy lòng kiên nhẫn, không tiêu diệt cỏ lùng ngay, nhưng
chờ đợi đến mùa gặt. Cũng thế, Chúa đầy lòng nhẫn nại và khoan dung chờ đợi người
tội lỗi hoán cải để được lãnh nhận tình thương cứu độ của Ngài.
CNTN 16B - ĐỘNG LÒNG THƯƠNG VỚI NHÓM 12 VÀ DÂN CHÚNG
Lời Chúa: Mc 6, 30-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật
lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông:
"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Vì lúc ấy
dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống.
Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ
hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta
đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật
đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy
dỗ họ nhiều điều.
TRUYỆN KỂ
1. Thương đàn chiên bơ vơ
Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là:
Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục
Berlin trước lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và
chiến tranh lạnh thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ
nguyên mới hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên
nhân lành, thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.
Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ
súng xuống, sau hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ
tịch Palestin đã về nước và tuyên bố: “Palestin và Israel cùng một tổ tiên."
Họ không còn những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng
tín, tan nát. Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.
Người ta đã kể đến những vĩ nhân có công trực tiếp
chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông
Walesa: chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông Gorbachov: tổng bí thư Liên bang
Xô viết và ông Reagan: tổng thống Mỹ. Thực ra, họ chỉ là những sứ giả hòa bình
của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá bức tường chia rẽ hận thù giữa
loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân tộc, giữa cá nhân với cá nhân.
2. Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ
Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên
tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn
tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh
vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một
quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang
lên một tiếng trẻ con "Hãy cầm lấy mà đọc." Augustinô ngó xuống thì
thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu
"Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa."
Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu
cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên
tĩnh của tâm hồn.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần
có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu
lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên
khi nó không an nghỉ trong Chúa."
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng
hôm nay là Lời Chúa khuyên: "Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ..." Để
thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại,
hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh
thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với
ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
3. Ngài chạnh lòng thương
Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo
sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau
trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý
kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị
giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên.
Cuối cùng người bạn hỏi: "Làm sao anh có thể
làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế?" Vị giáo sư đáp:
"Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc
chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế."
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài
vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại
kéo đến. Thấy vậy, "Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
Ông giáo sư có thể khóa kín cửa
lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút
nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và
vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên
mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện
nhất trong trường (Flor McCarthy).
4. Anh có mài rìu không?
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia
đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và
bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ
nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng
cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ
Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh
tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi,
đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc
hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần.
Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì
theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày
thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất
trong các công nhân ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi
đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi
làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan
nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu
không?
"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một
chút" (Mc. 6,31).
5. Bí quyết để thành công
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington
Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng,
ông đã trả lời:"Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi
mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi."
P. Doncoeur đã quả quyết:"Không một vĩ nhân nào
đã thành công mà khong đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện."
Ernest Hello cũng quả quyết:"Tâm hồn càng nhận
được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động."
Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của
ông:"Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút
người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ
đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của
mình cho ngay thẳng."
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng "mài
rìu" cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ
ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng
tĩnh dưỡng tâm hồn.
6. Quan tâm đến mọi người
Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói:
"Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn
kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong
ngày hoàn toàn đổi hướng và - Nào ai biết được? - Có khi cả đời sống bạn. Đó
không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường
nét của bạn mỗi ngày."
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng
lưu Ấn độ, đã viết trong tập tự thuật của ông:"Từ xưa cho đến mãi bây giờ,
sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi
người. Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ
cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình."
Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay
những người khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa.
7. Cần được viếng thăm.
Chân phước Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến
thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon.
Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý
tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi
Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một
việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế?
Chị điều dưỡng đáp:"Họ mong ngóng có người đến thăm họ." Lúc nào họ
cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là
một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay." Nhưng không một ai đến, và ngày
nào cũng thế."
"Không một ai đến"! Câu nói này ám ảnh Mẹ
Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa,
cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất.
8. Chúa săn sóc chu đáo
Đức Cha Tihamer Toth có kể một câu chuyện như thế
này trong cuốn sách Ngài viết gửi cho các bạn trẻ.”Một hôm kia có một chàng
thanh niên vô rừng đốn củi. Đến trưa anh ta tìm đến một gốc đa cổ thụ thật lớn
để nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nằm dưới gốc cây nhìn lên anh thấy những cành lá thì thật
là rườm rà nhưng những quả đa thì trái nhỏ, anh phải cố gắng lắm mới nhìn thấy.
Thấy như vậy nên anh ta nghó thầm:
“Lạ thật. Cây thì khổng lồ. Lá thì lớn mà trái thì
nhỏ xíu! Thật là chẳng cân xứng tí nào."
Rồi anh ta tự nghĩ:
- Nếu tôi mà là Chúa thì tôi sẽ cho cây đa mang trái
to như trái bí, lá to như lá chuối. Như thế mới cân xứng. Tội cho cây bí! Thân
thì yếu ớt mà lại phải đeo những trái lớn. Cây chuối mảnh khảnh mà lại phải
mang những tấm lá to như tấm phản. Quả thật là Chúa chẳng công bằng tí nào…Hay
là không có Chúa…mọi loài mọi vật đều tự nhiên mà có!
Suy nghĩ miên man như vậy được một lát thì anh thiếp
ngủ đi lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Giữa lúc anh ngủ say như thế thì có một
cơn gió lốc thổi rất mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi của anh một trái đa. Anh
giật mình tỉnh dậy vừa xuýt xoa vừa suy nghĩ:
- May quá, phải mà trái đa lớn như trái bí thì kể
như là bữa nay mình tận số rồi. Thế ra Đức Chúa Trời khôn ngoan thật. Ngài xếp
đặt tất cả rồi đấy chứ. Thảo nào mà người ta thường nói: “Trái dừa rớt bao giờ
cũng tránh người."”Quả sầu riêng bao giờ cũng rơi vào ban đêm." Công
việc của Chúa thật là kỳ diệu.” Bằng tình yêu thương Người luôn lo lắng cho
chúng ta.
9. Tìm được chủ chiên
Hôm ấy Augustinô vừa thực hiện xong một cuộc tranh
luận. Trở về nhà bạn của mình là Alpius, ông cảm thấy tâm hồn vô cùng trống rỗng.
Lúc đó tự nhiên ông nghĩ tới Chúa, ông buột miệng thưa với Ngài: “Lạy Chúa, đến
bây giờ, đến bây giờ Chúa còn nổi giận sao? Chúa không xóa đi những lỗi lầm quá
khứ của con ư? Bao lâu nữa? Bao lâu nữa? Ngày mai ư? Đến mãi ngày mai sao? Tại
sao không lập tức ngay bây giờ.” Thế rồi ông khóc, khóc như một đứa trẻ. Một
ông tiến sĩ giáo sư đại học khóc…khóc như một đứa trẻ. Tâm hồn ông bị dày vò. Bỗng
nhiên ông nghe thấy từ ngôi nhà bên cạnh tiếng nói của một em bé nói vọng sang:
“Hãy cầm lấy và đọc đi. Hãy cầm lấy và đọc đi.” Nét mặt ông đổi sắc. Ông không
khóc nữa. Ông chạy thẳng lại chỗ Alpius cầm lấy cuốn thư của Phaolô gửi cho
giáo đoàn Roma. Im lặng. Ông từ từ mở ra và đọc thấy ngay ở đầu trang những lời
như thế này: “Anh em chớ sống trong say sưa, trong lạc thú dâm ô, trong cãi cọ
và phân bì nữa - Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng quá chăm lo về xác thịt và
làm phỉ lòng nó.”
Ông gấp lại, không đọc thêm nữa. Bằng ấy thôi cũng
đã đủ để ông nhận ra được ánh sáng và con đường. Ông quyết định làm lại cuộc đời.
Ông cho Mẹ ông biết quyết định đó. Và bà nói đây là ngày đẹp nhất trong cuộc đời
của Bà.
Vâng Augustinô đã trở lại thực sự. Ông quay hẳn một
góc 180 độ. Sự trở lại của Ông đã đem lại không biết bao nhiu lợi ích cho các
linh hồn. Bằng cương vị của một Linh mục rồi một Giám mục, Augustinô đã giúp
cho rất nhiều người tìm về với Chúa.
10. Yên lặng và suy nghĩ
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mu-ke-di, một hôm hỏi thầy
giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bê-na-rét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ
châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và
đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu,
không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?"
Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một
khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho
mỗi khoản một nguồn sống không?" Mu-ke-di thưa: “Thưa thầy, con không tin
như vậy." Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào,
thảo nào, thất bại là ở đó."
Ông Uyn-li-am Phin-lơ, môt doanh nhân thành đạt, lúc
đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi
nhuận hằng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm
của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã
thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe ra-đi-ô hay
ca nhạc, không xem ti-vi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy
nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho
các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công."
11. Lời nguyện gây ấn tượng
Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn
lao, lòng yêu mến chất chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà
Vérônique, một phụ nữ Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi,
nhưng phải sống và làm bạn với căn bệnh cùi đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu
nguyện của bà như sau:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con,
con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa
đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng
thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái
lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ,
con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột
xinh xắn của con, thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng
chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi
khô queo nham nhúa. Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm kiều của con
đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn
dâng lên Chúa lời tạ ơn… Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh
phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến
nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm hồn…”
Và còn nữa…, còn nữa những lời tâm sự với Thiên Chúa
của một con người bị coi là bất hạnh tột cùng, bị coi là tàn tạ không còn gì để
đáng sống. Ấy vậy mà từ trong nội tâm của bà Vérônique, lại tỏ lộ một sức mạnh
lớn lao của sự sống, một tình yêu và lòng tín thác dũng mãnh, mà không phải bất
cứ một người bình thường nào cũng có thể có được, đừng nói chi đến một người
tàn tật như bà. Bà Vérônique đã cầu nguyện, một lời cầu nguyện cho thấy một
lòng mến Chúa mạnh đến nỗi không một bất hạnh nào có thể làm lung lay.
12. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm
sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ
nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một
đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở
phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào
không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa
của chúng.
Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được
bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân."
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng
người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là
Bé Chó. (nguồn: Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng
em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn
ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính
tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ
dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở
nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh,
mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời
đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)
13. Lòng gặp lòng
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một
ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện,
được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng
giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta
nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước
Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?" Cụ già chất
phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả.
Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi."
Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng
ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già,
chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm
của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để
chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
14. Vui hưởng cuộc đời
Cha ông đã bảo: "Tri túc tiện túc, đãi túc, hà
thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?" Có nghĩa là: Biết đủ
là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao
giờ mới nhàn?
Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia
giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác
bên cạnh thuyền của ông. Ông hỏi: "Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh
cá?" Ngư phủ đáp: "Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?" Thương
gia hỏi: "Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?" Ngư phủ
hỏi lại: "Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?"
Vị thương gia trả lời: "Anh có thể kiếm thêm tiền
và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều
cá hơn và kiếm thêm tiền. Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có
như tôi." Ngư phủ hỏi: "Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?"
Vị thương gia nói: "Lúc đó anh có thể ngồi xuống
vui hưởng cuộc đời."
Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển
cả: "Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?"
15. Điều đáng xin
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người
Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm
1942, đưa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật
đó cho đến năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người
cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa.
Trong một trang nhật ký, ông viết: “một người đàn
ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: ‘Con không
muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa Giêsu cúi xuống
hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều có thể cho được’.
Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp
tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các phép lạ."
16. Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, kể lại:
"Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, khi tôi còn là
Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa Giám Mục với xe tăng
thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa Giám Mục cũng thắp
có giới hạn.
Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi vào
bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu nguyện
xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy tôi
ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang.
Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên
đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ
ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm
sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục,
nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.
Số mạng tôi ở trong tay Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi
nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai, suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần
tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời
tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh
của tôi." (Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức Hồng Y Benadô Law tại
Boston).
17. Các ông kể lại cho Người
Một Giám mục gần Sao Paulo (Thủ đô Brasil) đã biết
rõ tinh thần của phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Ngài muốn tinh thần tốt
đẹp ấy cũng được thâm nhập vào giáo phận của ngài. Ngài mời một nhóm linh mục của
nhóm Focolare đến giảng tĩnh tâm. Họ đã đến, nhưng ngay những ngày đầu tiên họ
gặp phải một sự chống đối rất nặng nề và cảm thấy trở ngại rất nhiều trong việc
giảng huấn. Sau đó, vào giờ nói chuyện với các linh mục, họ nhận ra rằng giữa
các linh mục và Giám mục có một sự căng thẳng rất trầm trọng.
Họ trình bày với Đức Giám mục về chuyện đó, ngài hứa
sẽ sẵn sàng xin lỗi các linh mục trong Thánh lễ ngày mai về những khuyết điểm
sai lầm và bất công trong suốt thời gian qua. Ngài muốn sống đúng theo câu
khuyên của Chúa: "Khi con dâng lễ, nếu chợt nhớ ra có ai bất bình với con,
hãy để lễ vật đó trước bàn thờ rồi đi làm hoà với anh em con trước đã, rồi bấy
giờ hãy đến mà dâng lễ vật." (Mt 5,23-24).
Trong Thánh lễ, Đức Giám mục đã khiêm tốn xin lỗi cộng
đoàn linh mục, nhưng điều đó vẫn không mang lại một kết quả nào. Ngài hiểu rằng
cần phải tiến thêm một bước nữa. Ngài tìm đến từng phòng để nói chuyện riêng với
mỗi linh mục. Cử chỉ này đã làm cho các linh mục rất đỗi xúc động. Các ngài bắt
đầu cởi mở, trình với Đức Giám mục hết mọi khó khăn, mọi vấn đề của các ngài.
Các ngài bộc lộ hết tâm hồn mình cho Giám mục và chấp nhận Giám mục như là người
anh, như chính Chúa Giêsu, và tạo nên một sự cảm thông sâu xa giữa hai bên.
Trong tuần phòng đó, tất cả đã trở nên một đại gia
đình, và cuối tuần phòng, Đức Cha đã có một quyết định quan trọng: Ngài thay đổi
cách thăm viếng. Từ nay, ngài sẽ ở lại chung sống hai ba ngày với từng linh mục
trong mỗi giáo xứ, để tạo một bầu khí huynh đệ giữa linh mục và Giám mục. Và từ
đây các linh mục cũng rất ước mong đến ngày Đức Giám mục đến thăm xứ mình.
(ĐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng)
18. Chân dung mục tử nhân lành
Đại dịch Covid-19 tấn công nước Ý, rất nhiều bệnh
nhân nhờ máy trợ thở được cứu sống.
Báo Tuổi Trẻ đưa tin: cha Giuseppe Berardelli (72 tuổi)
bị nhiễm bệnh, phải dùng đến máy trợ thở. Cạnh giường bệnh của cha, một thanh
niên bị bệnh cũng đang trong tình trạng nguy kịch và rất cần máy trợ thở, nếu
không có máy trợ thở, bệnh nhân sẽ chết vì phổi bị đông đặc.
Cha yêu cầu được nhường máy trợ thở cho thanh niên
đó. Các bác sỹ không dám quyết định, nhưng vì sự cương quyết của cha, họ đã lấy
máy cha đang thở đặt cho anh thanh niên và anh được cứu sống.
Phổi của cha bắt đầu bị đông đặc, sau 3 ngày, cha đã
tắt thở trong bình an. Đám tang của cha không người đưa tiễn, vì phải cách ly
tránh lây lan dịch bệnh. Tin này được loan đi, và mọi người cảm phục tinh thần
hy sinh cao cả, cha đã vui lòng chịu chết để cứu sống người anh em. Cha đã áp dụng
cho đời mình thân phận hạt lúa mì: thối rữa, mục nát, để hạt giống đâm chồi, nảy
lộc, trổ sinh hoa trái cho đời.
Cha là mục tử tốt của đoàn chiên, khi dám hy sinh lợi
ích cá nhân, cứu sống người anh em. Quyền lực của tình yêu thật là đặt thiện
ích lên trên tư lợi bản thân. Quyền lực yêu thương đó nhất thiết phải phát xuất
từ Thiên Chúa, cội nguồn tình yêu và sự sống. Trong quyền lực này, Thiên Chúa
đã thực hiện những công trình kỳ diệu: cứu độ/ban sự sống thật cho nhân loại.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình
bày chân dung vị mục tử nhân lành, Chúa Giê-su được sai đến, để chiên được sống
và sống dồi dào.
19. Martin Luther King cầu nguyện
Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh
cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo
được hành triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ xem ông như vị anh hùng, người xướng
ngôn đồng thời cũng là mục tử của họ. Nếu không có ông, vào những năm ấy đám
dân da đen có lẽ chả khác gì đám dân bơ vơ lạc lõng được nhắc đến trong Phúc Âm
hôm nay. Đám dân này được ví như bầy cừu không ai chăn dắt. Cũng giống như Chúa
Giêsu và các môn đệ Ngài thuở xưa, King và các đồng sự ông thường khó được yên
thân đi tìm cho mình một chốn an bình vắng vẻ để nghỉ ngơi. Chẳng hạn, một đêm
nọ, sau một ngày làm việc mệt nhoài trong vùng Montgomery thuộc bang Alabama,
King leo lên giường ngủ bên cạnh bà Coretta vợ ông. Lúc này bà đã ngủ say.
Nhưng ông vừa mới chợp mắt thiêm thiếp thì chuông điện thoại vang lên. Ông vội
choàng dậy ngay để khỏi làm bà Coretta thức giấc. Lúc bấy giờ một giọng nói giận
dữ bên đầu dây kia vọng ra: "Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi
không cần đến anh nữa, bắt đầu tuần tới xin ông vui lòng đừng bén mảng tới
Montgomery nữa..." Nói thế rồi kẻ gọi điện cúp máy ngay. Bất thình lình
bao nhiêu nỗi sợ hãi chụp xuống trên người Luther King như một toà nhà đang đổ
xuống. Lòng can đảm của ông hầu như bị tiêu tan. Ông đứng dậy đi vào nhà bếp
pha một ly cà phê uống cho ấm dạ, đoạn ngồi xuống lặng lẽ suy nghĩ phương cách
thoát ra khỏi cảnh ngộ ở Montgomery mà không mang tiếng là một kẻ hèn nhát.
Lúc bấy giờ với chút ít can đảm còn sót lại, ông gục
đầu khấn xin Chúa bằng những lời sau đây: "Lạy Chúa, con đang đảm nhận sứ
vụ mà con nghĩ rằng chính đáng, nhưng giờ đây con vô cùng sợ hãi. Dân chúng
đang mong chờ con lãnh đạo, và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì chính họ cũng sẽ
trở nên yếu hèn nhát đảm. Nhưng con đang ở nẻo đường cùng và chẳng biết phải
làm sao đây. Con không thể nào một mình đương đầu nổi trách nhiệm này nữa."
Đoạn nổi bật nhất trong lời cầu nguyện của Tiến sĩ
King là câu này: "Dân chúng đang trông chờ con lãnh đạo họ và nếu con tỏ
ra khiếp nhược thì họ cũng sẽ trở nên nhát đảm." Nếu cần mượn lại cách diễn
đạt của bài Phúc Âm hôm nay, lời cầu ấy có thể diễn tả cách khác như sau:
"Họ sẽ trở nên như bầy chiên không người chăn."
20. Lincoln cầu nguyện
Một trong những vị chỉ huy quân đội Liên Bang trong
cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ là tướng Sickles. Ông kể cho chúng ta biết ngay trước
trận đánh ở Gettysburg, Tổng thống Lincoln cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên
vai mình. Lập tức ông cầu nguyện với Chúa. Chính Lincoln đã nói về lần cầu nguyện
ấy như sau: "Chưa bao giờ tôi cầu nguyện hăng say đến thế. Phải chi tôi có
thể lập lại nguyên vẹn lời nguyện này. Tôi cảm thấy mình cần phải đặt tất cả niềm
tín thác nơi Thiên Chúa tối cao. Chỉ một mình Ngài mới có thể cứu đất nước khỏi
sự diệt vong sau khi quì gối đứng lên, tôi cảm thấy lời cầu xin đã được Chúa chấp
thuận. Tôi chắc chắn rằng lời cầu nguyện đã có kết quả." Cũng một cách thức
tương tự nhưng hơi khôi hài hơn, Harry Truman đã kể cho các phóng viên sau ngày
đầu tiên nhận chức Tổng thống của ông: "Các bạn thân mến, nếu các bạn đã từng
cầu nguyện thì xin hãy cầu nguyện cho tôi lúc này đây. Tôi chẳng bíết quí bạn
đã từng bị bó cỏ khô nào đè trên người chưa, chứ nếu các bạn hỏi tôi về những
gì đã xẩy đến cho tôi ngày hôm qua, thì tôi xin thưa là tôi đã cảm thấy như mặt
trăng, các vì sao và các tinh tú đổ sụp xuống trên tôi vậy."
21. Tình yêu có sức biến đổi
"Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh
lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt."
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng
đoàn mình như sau:
Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã
dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng
tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng
tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ
Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu
cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương.
Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào
hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng
tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai
khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người
Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều
chào hỏi niềm nở với chúng tôi.
22. Đi tìm con người
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy
nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm
soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói
chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên
sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy." Nhà hiền triết trả lời:
“Ta tìm con người." Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy
ngẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho
đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.
Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người
một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên
không người chăn dắt.
23. Tìm về nội tâm của bản thân
Cách đây một vài năm, tờ báo Wall Street Journal có
cho đăng tải trên trang đầu một bài viết với tựa đề "Ở một vài hãng sở, mỗi
ngày đều có những dấu hiệu về việc đạo đức." Ví dụ: hãng Reynolds
Industries, một hãng tại Salem, SC luôn có một nhà nguyện và một vị linh mục
tuyên úy được trả lương. Hay tại hãng Midwest Federal Savings and Loan tại
Minneapolis, MN, ban chấp hành đã thiết lập một nhà nguyện thay vì một nhà nghỉ
ngơi cho các nhân viên.
Một bài báo khác trong tờ báo New York Times gần đây
đã viết về những thương gia trong thành phố New York: "Các thương gia đã
xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những
người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể thông cảm với nhau những khó khăn trong
công việc hằng ngày."
Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân
viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan
Plaza: "Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến
đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không."
Tất cả những điều nói trên của các nhà thương gia đều
giống như điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài trong bài Phúc Âm:
"Hãy đi... vào nơi hoang vắng và tìm chỗ nghỉ một chút."
24. Dung mạo Chúa Giêsu
Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người
Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm
1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật
đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin
tưởng, phó thác vào Thiên Chúa.
Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người
đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài:
"Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà
thôi." Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người
đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được."
Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời
bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng
mô tả các phép lạ."
Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng
tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều,
Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu
là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết
yêu thương.
26. Dây cung sao không căng mãi?
Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với
chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một
người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một
việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui
chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?"
Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông
ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo
căng ra?"
“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ
đàn hồi và không thể bắn tên."
Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây
cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu
tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng
nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự
chú tâm hoàn toàn của tôi."
27. Ly nước nặng bao nhiêu?
Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.
Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong
cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:
- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?
- Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong
bao lâu chứ? Một khán giả nói.
- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu
tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong
một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ
phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó
càng trở nên nặng hơn.
Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục
chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn
chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi
lại tiếp tục cầm nó lên."
Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc
sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi
ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một
gánh nặng nào.
28. Động viên không cần lời
Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải
đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ,
căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là
Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo
ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm
tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn
khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi
với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông
cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi
lòng của mình.
29. Tình yêu biết quan tâm là sức mạnh cho cuộc sống
Cha Badinger Germain người Pháp kể lại rằng: “Một buổi
sáng nọ tôi có hẹn với một thiếu nữ trong một quán cà phê vào lúc 6 giờ sáng.
Cô ta thất vọng về cuộc đời. Tôi gắng hết sức để thuyết phục khuyên bảo cô,
nhưng vô ích. Sau đó, đến 7 giờ 30 phút, cô phải đến sở làm. Đến 9 giờ cô điện
thoại lại cho tôi. Giọng của cô thật vui tươi.
Ngạc nhiên, tôi hỏi lý do thì cô giải thích rằng:
- Chính người bán vé xe điện ngầm đã làm cô thay đổi.
Và cô nói thêm: “Thực ra, lúc đầu con chỉ có ý gặp cha để than van chứ chẳng muốn
nghe cha khuyên giải điều gì. Sau khi rời quán cà phê đi đến trạm xe điện ngầm,
con đã gặp bà bán vé xe điện thật dễ thương. Bà đã cười thật tươi và nói:
- Chà, cô mặc áo đẹp quá. Màu thật là hợp với màu
tóc của cô.
Ngạc nhiên, con hỏi lại:
- Tại sao bà lại khen tôi như thế ?
Bà ta giải thích:
- Cô coi, trong nghề của tôi, không có gì nhàm chán
cho bằng cả ngày chỉ có một động tác đổi những vé xe điện ngầm này để lấy tiền.
Vì thế, để tạo cho cuộc đời và công việc nhàm chán này một ý nghĩa, tôi cố gắng
nhìn xem trong đám những khách hàng của tôi có điều gì để khuyến khích họ
không, nhất là khi tôi thấy họ có vẻ buồn bực hoặc cáu kỉnh. Thí dụ, đối với
ông nọ tôi nói: “Chà ông hai có cà vạt đẹp quá." Ông ta bèn chỉnh lại cà vạt
rồi mỉm cười.
Vừa rồi khi thấy cô bước đến, đôi mắt đỏ hoe, tôi
nghĩ: “Cô này chắc có điều gì đau khổ đây, mình phải nói một câu gì đó dễ
thương với cô. Cô thấy không, làm như thế là đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa.
Nếu tôi không làm như thế, thì trong nghề của tôi thực không có gì là thích
thú."
Đúng là người phụ nữ bán vé xe điện ngầm này đã biết
quan tâm đến người khác và sự quan tâm ấy đã đem đến một niềm vui thanh thản
cho chị.
30. Đón nhận sức mạnh từ Kinh Thánh
Chúng ta biết thủ tưởng Ấn Độ là ông Gandhi, dù ông
không phải là người Công giáo, nhưng ông rất say mê đọc Thánh Kinh, đây là sách
gối đầu giường của ông, ông thường nghiềm ngẫm vài chương trước khi đi ngủ, và
khi vừa thức dậy!
Nhờ đức tin này mà ông đã đuổi quân đội Anh quốc về,
trả độc lập tự do cho dân tộc Ấn, không những thế, người Anh còn giúp Ấn Độ kiến
thiết đất nước như một nước đồng minh!
Hỏi có nhà cách mạng nào trên trần gian này dành độc
lập cho dân tộc lại không hao tốn tiền của, sức lực, xương máu? Chỉ có ông
Gandhi, không mất một giọt mồ hôi, một đồng xu nào để giải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị ngoại bang.
Với trải nghiệm ấy, ông nói: “ĐỜI CHỈ THÀNH CÔNG,
BAO LÂU NGƯỜI TA DÁM THÍ NGHIỆM SỐNG CHÂN LÝ!” Mà chỉ có Lời Chúa mới thực sự
là chân lý! (x Ga 18,38)
31. Biết sống tự do
Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia
giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác
bên cạnh thuyền của ông. Ông hỏi: "Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh
cá?" Ngư phủ đáp: "Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?"
Thương gia hỏi: "Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?"
Ngư phủ hỏi lại: "Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?"
Vị thương gia trả lời: "Anh có thể kiếm thêm tiền
và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều
cá hơn và kiếm thêm tiền. Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có
như tôi." Ngư phủ hỏi: "Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?"
Vị thương gia nói: "Lúc đó anh có thể ngồi xuống
vui hưởng cuộc đời."
Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển
cả: "Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?"
32. Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ.
Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của
nhiều người. Mỗi lời nguyện đều chất chứa nỗi lòng, tình yêu, sự tha thiết của
những con người thích chìm trong cầu nguyện.
Lời cầu nguyện số 4 gây trong tôi nhiều cảm động và ấn
tượng. Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn lao, lòng yêu mến chất
chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà Vérônique, một phụ nữ
Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi, nhưng phải sống và làm
bạn với căn bệnh phong đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu nguyện của bà như
sau:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con,
con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa
đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng
thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái
lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay.
"Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối
tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con, thế
mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những
ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.
"Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm
kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn,
con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin
dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng
bao giờ biết đến nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm
hồn...”
Lời kinh phản chiếu trái tim nhân hậu của Chúa Cứu
Thế: "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động
lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều."
33. Cần nghỉ ngơi đôi chút
Một nhà thám hiểm vùng Amazon (Braxin) cố gắng thực
hiện một cuộc hành trình cấp tốc băng qua khu rừng già. Tất cả đều tốt đẹp
trong hai ngày đầu. Nhưng đến này thứ ba, những thổ dân khuân vác không chịu di
chuyển, họ nói: “Chúng tôi không thể tiếp tục nữa. Chúng tôi phải để cho linh hồn
và thể xác đồng nhịp với nhau.”
Tất cả chúng ta đôi khi cũng cần phải dừng lại một
chút để linh hồn theo kịp thể xác. Tiến sĩ William G. Menninger viết: “Tôi khẳng
định rằng các vị lãnh đạo cần dùng một ít thời gian để xem xét mình đang đi về
đâu… Bạn có biết là mình đang đi đúng hướng không, và quan trọng hơn là bạn muốn
đi về đâu?
Có ích lợi bất ngờ nào mà tôi đã cảm nghiệm được qua
việc thực hành suy tư trong thinh lặng không?
Hãy ở yên tĩnh trong nơi vắng vẻ, và bạn sẽ gặp được
Ngài trong chính bạn (Thánh Têrêsa).
34. Một mái chèo thuyền đứng tại chỗ
Có một tu sĩ trẻ thắc mắc về chăm ngôn của Dòng mình
“Cầu nguyện và làm việc.” Rồi một ngày kia, Viện phụ bảo anh chèo thuyền qua hồ
với ngài. Viện phụ chèo trước, nhưng chỉ với một mái chèo và kết quả là thuyền
chỉ xoay tròn mà không đi được. Tu sĩ trẻ nói: “Thưa cha, nếu không chèo hai
mái, chúng ta sẽ chẳng đi được.” Viện phụ trả lời: “Đúng, mái chèo bên phải là
cầu nguyện, mái chèo bên trái là làm việc. Nếu không hài hòa được chúng, con vẫn
chỉ ở trong vòng xoáy.”
Tôi có luôn cố gắng giữ cân bằng giữa công việc và cầu
nguyện không? Tôi nhận thấy thế nào khi có sự cân bằng?
Mỗi kitô hữu cần cầu nguyện nửa giờ mỗi ngày khi bận
rộn. Nếu không bận lắm, cần cầu nguyện một giờ mỗi ngày (Thánh Phanxicô
Salêsiô).
35. Lòng nhân hậu
Trước tình trạng thất nghiệp trầm trọng, một nhân
viên chính phủ xúc tiến việc trợ giúp nông dân nghèo hạt giống và một số cải tiến
cần thiết. Ngày nọ, ông tình cờ gặp một phụ nữ ở khu đồi Tennesse. Bà sống
trong một căn nhà sàn bẩn thỉu, các cánh cửa sổ phủ đầy hắc ín. Nhân viê chính
phủ hỏi bà: “Nếu tôi cho bà 200 đô la bà sẽ làm gì?” Bà suy nghĩ một lát rồi
nói: “Tôi nghĩ là tôi sẽ cho người nghèo”
Câu truyện về người phụ nữ sau đây và về Salomon mời
gọi tôi tự hỏi: Tôi đã bị mù lòa độ nào bởi nhu cầu bản thân, đến nỗi tình yêu
của tôi không thấy được nhu cầu của anh em?
Tôi đã gặp trên đường phố một thanh niên rất nghèo,
nhưng biết yêu thương. Chiếc mũ của anh quá cũ, áo khoác rách rưới và nước thấm
qua cả đôi giày, nhưng có những tinh tú lấp lánh xuyên qua linh hồn anh (Victor
Hugo).
36. Cần có thời giờ để biết mình
Cách đây nhiều năm, bác sĩ W.R.Luxton đã viết: “Tôi
không cường điệu về tầm quan trọng của thói quen suy tư trong thinh lặng đối với
sức khỏe thể xác, tâm trí và linh hồn. Cuộc sống của con người thời đại cực kỳ
bất ổn. Chúng ta cần phải khám phá đời mình trong thinh lặng và chậm rãi trước
mặt Thiên Chúa”
Từ khi bắt đầu dành thời giờ để cầu nguyện và suy tư
trong thinh lặng, kinh nghiệm ấy đã tác động tôi ra sao?
Đôi khi chúng ta phải đi đây đó để cảm nghiệm nỗi cô
đơn. Chỉ những ai học cách sống trong cô đơn mới hiểu được mình và cuộc đời.
Tôi ra khỏi nhà, dạo bộ, nhìn ngắm cây cối và bầu trời. Tôi lắng nghe âm thanh
của cái vắng vẻ. Ngồi trên tảng đá… tôi nhủ thầm: Anh là ai, Sandburg? Anh từ
đâu đến và đang đi về đâu? (Carl Sandburg).
37. Giáo hội cần các Kitô hữu điên
Tại một đại hội giới trẻ, một Giám mục Mỹ đã giảng một
bài sôi nổi; trong đó, ngài lặp đi lặp lại ‘câu thần chú’: “Giáo Hội cần những
Kitô hữu điên!" Quan điểm của ngài thật rõ, Kitô hữu phải đi ngược lại các
xu hướng thời đại. Khi làm điều đó, bạn trông có vẻ “điên”, nhưng nó lại trông
giống Chúa Giêsu. “Điên” khi Kitô hữu trở nên công cụ của Chúa cho tha nhân
trong một thế giới ích kỷ; “điên” khi thực hiện công lý trong một thế giới bất
công; “điên” khi yêu thương trong một thế giới hận thù; “điên” khi tha thứ
trong một thế giới tranh chấp. Và hôm nay, bạn và tôi “điên” khi cần cho mình một
‘nơi thanh vắng’ trong một thế giới điên đảo xô bồ hơn bao giờ hết!
Thế giới đang quay; và xem ra mọi người đang biến ‘sự
bận rộn’ thành một ‘huy hiệu danh dự’. “Mọi chuyện thế nào, thưa cha?”; “Khá
điên! Khá bận!" Lời ấy mang một thông điệp ngầm, “Tôi đáng giá, vì tôi bận."
Không! Đó không phải là ‘huy hiệu danh dự’, nhưng là dấu của một cuộc sống mất
cân bằng, một sứ vụ mất cân đối, và một nội tâm mất chiều sâu!
“Mọi vấn đề của nhân loại đều bắt nguồn từ việc con
người không thể ngồi yên lặng trong phòng một mình!” - Blaise Pascal.
38. Thị trưởng Madeleine
Một chiều nọ, tại Montreuil (Pháp), một đám cháy lớn
xảy ra ngay trong khu vực có nhà ông cảnh sát trưởng. Người ta thấy một người lạ
mặt chữa cháy một cách hăng say, đặc biệt là, duy có anh ta đủ can đảm xông vào
ngọn lửa, để cứu hai con ông cảnh sát, và đưa hai em ra ngoài an toàn. Từ đó
người lạ này được dân địa phương giúp đỡ, anh xưng tên Madeleine. Anh tận tụy với
mọi người, sống vui vẻ, đầy tình thương, đầy bác ái, anh chiếm được cảm tình từ
người già đến trẻ con nơi anh cư ngụ. Kết quả là trong kỳ bầu thị trưởng, anh
đã đắc cử. Ông thị trưởng Madeleine sống đơn sơ, thương yêu, giúp đỡ mọi người.
Ông sống bình dị, bác ái, lo mở mang nhà dưỡng lão, trường học, viện cô nhi, viện
tế bần. Ông thường có mặt trong các gia đình tang chế, thích đi thăm viếng những
người bệnh, hơn là tới những cuộc hội hè, yến tiệc linh đình. Ông được mọi người
kíng trọng, yêu quí…
Nhưng một số các mệnh phụ trong tỉnh, bạ mồm, bạ miệng,
đồn đại với nhau rằng: ông là một nhà phù thủy. Lý do ông có một căn phòng kín,
không cho ai lui tới, có lẽ ông luyện bùa phép ở đó chăng? Thực ra thì ông đó
có một căn phòng đặc biệt, đặc biệt không phải ở chỗ căn phòng được trang hoàng
lộng lẫy, hoặc chứa những dụng cụ ma quái, mà nó chỉ là một căn phòng rất đơn
sơ, đơn sơ tới nỗi căn phòng duy có một chiếc bàn, trên bày hai chân đèn bằng bạc.
Ông thường ngắm nghía và tôn trọng hai chân đèn này như một bảo vật quý nhất của
đời ông. Câu truyện hai chân đèn này cũng có thể là biến cố quan trọng nhất của
đời ông. Biến cố đó như sau:
Thực ra ông thị trưởng Madeleine có tên thực là Jean
Valjean. Jean Valjean mồ côi cha mẹ từ nhỏ, và sống với người chị. Gia đình người
chị quá nghèo, lại có tới bảy người con. Một hôm gia đình không còn gì ăn, Jean
Valjean, ban đêm, tới cửa hiệu bánh của lão Mobe, đập tủ kính, lấy trộm một chiếc
bánh đưa về cho bảy đứa cháu. Jean Valjean bị bắt, ra tòa. Tòa kết án Jean
Valjean năm năm khổ sai về tội ăn trộm ban đêm, có phá nhà cửa…
Nhưng ở tù được bốn năm, anh vượt ngục. Jean Valjean
bị bắt lại, và tòa tăng án lên năm năm nữa. Như vậy là anh còn phải ngồi tù 6
năm. Vào tù lại được ba năm, Jean Valjean lại vượt ngục, và lần này anh cũng
không thành công, kết quả tòa lại tăng án thêm ba năm nữa. Tổng cộng Jean
Valjean bị giam đúng 13 năm. Thời gian 13 năm ngồi tù: Anh suy nghĩ tình đời éo
le, luật lệ bất công của xã hội” vì một chiếc bánh mà phải xiềng xích giam giữ
khổ sở 13 năm tù… Jean Valjean quyết tâm, ra khỏi tù, anh sẽ trả thù người đời
cho hả giận.
Khi anh ra tù, với số tiền lộ phí nhà giam cấp cho
anh, anh đi bộ về quê nhà. Giữa đường, trời tối, anh vào một quán ăn, nhưng khi
người ta khám phá ra anh là một phạm nhân mới được tự do, thì không một ai giám
chứa chấp anh, mặc dầu anh có đủ tiền để trả một bữa ăn và qua một đêm trọ. Thế
là anh lại phải lang thang ngoài phố, và cuối cùng định ngủ đêm dưới tháp
chuông, của một ngôi thánh đường. Nhưng có mấy bà đi nhà thờ chỉ cho anh biết:
anh có thể tới ngủ nhờ nơi tòa giám mục của đức cha Myrien gần đó. Đức cha
Myrien là con người đạo đức, sống bác ái, quảng đại với mọi người. Thấy nhà
thương nhỏ hẹp, tồi tàn, bà bệnh nhân lại đông, ngài đã sẵn sàng nhường tòa
giám mục để làm bệnh viện, còn ngài thì sang ở bên nhà thương tồi tàn đó. Cổng
tòa giám mục rộng mở suốt đêm ngày, vì ngài cũng chả có gì mà phải canh giữ.
Tối đó, Jean Valjean tới tòa giám mục xin ở trọ một
đêm. Anh bỡ ngỡ vì chính đức cha Myrien niềm nở đón tiếp anh, coi anh như một vị
khách quý, ngài bắt người giúp việc soạn bữa, để anh cùng ngồi bàn dùng cơm
chung với ngài. Cũng như thường lệ, khi có khách, ngài bắt đưa bộ muỗm dĩa bạc
để tiếp anh. Jean Valjean không nói lý lịch của mình, mà chính đức cha Myrien
cũng không đả động gì đến lý lịch của anh. Anh được đức cha Myrien gọi anh bằng
“ông”: tiếng mà suốt đời anh chưa được ai gọi bao giờ. Tuy nhiên anh vẫn còn
nuôi lòng lòng căm thù hận đời. Đêm đó Jean Valjean được Đức Cha Myrien cho ngũ
trong phòng khách thông liền với phòng ngài… Nửa đêm thức giấc, anh sang phòng
đức cha, là dùng chiếc dùi cui để hạ sát đức cha, ngõ hầu vơ vét đồ đạc trong
nhà, rồi tẩu thoát. Nhưng khi tới giường đức cha Myrien, thấy đức cha đang ngủ
ngon, nét mặt toán ra một vẻ thánh thiện, bình thản, êm đềm đáng kính, nên anh
không nỡ tâm sát hại đức cha mà chỉ qua phòng ăn lấy bộ đồ muỗn dĩa bạc, rồi tẩu
thoát.
Sáng sớm, người giúp việc càu nhàu, và cho đức cha
biết là “ông khách quý” của đức cha đã ra đi, mang theo bộ muỗm dĩa quý nhất của
tòa giám mục. Đức Giám Mục chỉ cười và coi như không có chuyện gì xẩy ra. Nhưng
lát sau, người ta thấy cảnh sát điệu Jean Valjean vào tòa Giám Mục, vì cảnh sát
đã bắt được anh, khám xét, thấy trong hành lý của anh có bộ muỗm dĩa bạc. Cảnh
sát nghi là anh đã ăn trộm những đồ này của tòa Giám Mục và giải anh vào gặp đức
cha Myrien để tìm hiểu thực hư. Nhưng đức cha Myrien vừa thấy anh, ngài đã niềm
nở chào anh và nói: “Hôm qua tôi đã cho anh bộ muỗm dĩa, tôi còn cho anh cả đôi
chân đèn trong phòng ngủ, đôi chân đèn này cũng bằng bạc đấy, ít ra bán cũng được
200 quan, sao anh lại bỏ quên không lấy?” Rồi ngài đưa cả đôi chân đèn trong
phòng ngủ cho anh. Thấy vậy cảnh sát bỏ đi, vì cho là chính đức cha đã tặng anh
các đồ vật đó. Khi cảnh sát đi rồi, Jean Valjean sững sờ đứng một mình với đức
cha, và đức cha nói nhỏ với anh: “Thôi con đi, con đừng bao giờ quên lời cha.
Con hứa với cha là con sẽ dùng số tiền này bán các đồ này, để làm lại cuộc đời,
sống lương thiện, giúp ích cho xã hội.” Jean Valjean, một người đã nung nấu hận
thù dòng dã 13 năm, nhưng qua một đêm sống với đức cha Myrien, anh đã đổi thành
con người mới, bỏ lòng hận thù, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Anh không về quê, mà anh đã qua Montreuil vào đúng
buổi chiều xẩy ra đám cháy. Chính anh đã liều mạng xông vào lửa, cứu hai con của
ông cảnh sát trưởng khỏi bị chết cháy… và anh đã đổi tên là Madeleine. Anh trân
trọng giữ hai chân đèn của đức cha Myrien để luôn luôn ghi nhớ và thực hành điều
đức cha dậy anh.
Đại văn hào Victor Hugo (một người tuy ác cảm với
tôn giáo) đã viết cuốn Les Misérables (Những con người khốn khổ) tạo ra hai
nhân vật Jean Valjean và Myrien để chứng minh trải qua các thời đại, chính các
công việc bác ái, từ thiện của Giáo Hội, và chính những con người sống tinh thần
yêu thương của Chúa Giêsu, đã cải tạo được biết bao phần tử sa đọa, biết bao
con người nguy hại cho gia đình, cho xã hội.
39. Giêsu hiệp hành
Một nhà văn Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ
20 đã được phong danh hiệu “ông vua phóng sự đất Bắc.” Nhà văn đó chính là Vũ
Trọng Phụng, một cây viết hiện thực và tả chân tài tình. Ông nổi tiếng với
thiên phóng sự “Cơm Thầy Cơm Cô.” Thiên phóng sự này tả lại cảnh đời tăm tối và
bi thảm của những người làm thuê, làm mướn hoặc đi ở đợ hay làm “cu li.”
Để có thể lột tả được hết những cảnh đời khổ đau cùng
cực, ông đã sống như một người dân đen giữa đám người khốn cùng ấy. Trái tim
ông đã hòa cùng nhịp đập với họ. Đến nỗi vì làm việc quá cực khổ, ông bị ho lao
và qua đời lúc mới 27 tuổi.
Chúa Giêsu chính là một vị Thiên Chúa cao cả đã bước
xuống thân phận thấp hèn của con người để hòa mình vào cuộc sống đau khổ của
con người. Trái tim mục tử của Chúa cũng đã bồi hồi xúc động trước những con
người bất hạnh. Phải chăng đó cũng phải là trái tim của chúng ta? Phải chăng đó
cũng là con đường Chúa đang mời gọi chúng ta bước theo?
40. Thời gian cho tâm hồn
Một nhà thám hiểm vùng Amazon (Braxin) cố gắng thực
hiện một cuộc hành trình cấp tốc băng qua khu rừng già. Tất cả đều tốt đẹp
trong hai ngày đầu. Nhưng đến này thứ ba, những thổ dân khuân vác không chịu di
chuyển, họ nói: “Chúng tôi không thể tiếp tục nữa. Chúng tôi phải để cho linh hồn
và thể xác đồng nhịp với nhau.”
Tất cả chúng ta đôi khi cũng cần phải dừng lại một
chút để linh hồn theo kịp thể xác. Tiến sĩ William G. Menninger viết: “Tôi khẳng
định rằng các vị lãnh đạo cần dùng một ít thời gian để xem xét mình đang đi về
đâu… Bạn có biết là mình đang đi đúng hướng không, và quan trọng hơn là bạn muốn
đi về đâu?
Có ích lợi bất ngờ nào mà tôi đã cảm nghiệm được qua
việc thực hành suy tư trong thinh lặng không?
Hãy ở yên tĩnh trong nơi vắng vẻ, và bạn sẽ gặp được
Ngài trong chính bạn (Thánh Têrêsa).
41. Cầu nguyện và làm việc
Có một tu sĩ trẻ thắc mắc về chăm ngôn của Dòng mình
“Cầu nguyện và làm việc.” Rồi một ngày kia, Viện phụ bảo anh chèo thuyền qua hồ
với ngài. Viện phụ chèo trước, nhưng chỉ với một mái chèo và kết quả là thuyền
chỉ xoay tròn mà không đi được. Tu sĩ trẻ nói: “Thưa cha, nếu không chèo hai
mái, chúng ta sẽ chẳng đi được.” Viện phụ trả lời: “Đúng, mái chèo bên phải là
cầu nguyện, mái chèo bên trái là làm việc. Nếu không hài hòa được chúng, con vẫn
chỉ ở trong vòng xoáy.”
Tôi có luôn cố gắng giữ cân bằng giữa công việc và cầu
nguyện không? Tôi nhận thấy thế nào khi có sự cân bằng?
Mỗi kitô hữu cần cầu nguyện nửa giờ mỗi ngày khi bận
rộn. Nếu không bận lắm, cần cầu nguyện một giờ mỗi ngày (Thánh Phanxicô
Salêsiô).
42. Tâm hồn cần được săn sóc
Cách đây nhiều năm, bác sĩ W.R.Luxton đã viết: “Tôi
không cường điệu về tầm quan trọng của thói quen suy tư trong thinh lặng đối với
sức khỏe thể xác, tâm trí và linh hồn. Cuộc sống của con người thời đại cực kỳ
bất ổn. Chúng ta cần phải khám phá đời mình trong thinh lặng và chậm rãi trước
mặt Thiên Chúa”
Từ khi bắt đầu dành thời giờ để cầu nguyện và suy tư
trong thinh lặng, kinh nghiệm ấy đã tác động tôi ra sao?
Đôi khi chúng ta phải đi đây đó để cảm nghiệm nỗi cô
đơn. Chỉ những ai học cách sống trong cô đơn mới hiểu được mình và cuộc đời.
Tôi ra khỏi nhà, dạo bộ, nhìn ngắm cây cối và bầu trời. Tôi lắng nghe âm thanh
của cái vắng vẻ. Ngồi trên tảng đá… tôi nhủ thầm: Anh là ai, Sandburg? Anh từ
đâu đến và đang đi về đâu? (Carl Sandburg).
CNTN 16C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - DẤU LẠ GIÔ-NA
Lời Chúa: Mt 12, 38-42
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng:
"Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ."
Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ!
Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri
Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất
ba đêm ngày như vậy.
Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ
này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng
đây có Ðấng cao trọng hơn Giona.
Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế
hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của
vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon."
TRUYỆN KỂ
1. Từ khiêm nhường đến hoán cải
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi. Hai năm sau Anh học ở trường
sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp, đã đi thám hiểm nước Ma rốc ở châu Phi và
được huy chương vàng. Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều. Anh đi
nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này: “Lạy Chúa, nếu
Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng
10-1886. Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học
đạo. Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội. Anh ngần ngại, nhưng
đã chấp nhận quỳ xuống, và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu
lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy. Chúa đưa Anh trở
lại không bằng những dấu lạ lùng, nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở
Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất
ngây, nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
2. Dấu Chỉ Yêu Thương
Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người
Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại
khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù,
ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật
cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời
Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là
lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi
không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng
vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng
13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục
sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng
giá."
Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai
đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử
thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó
Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
3. Thấy Chúa là thấy sự sống
trong tất cả
Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và thề sẽ không bao
giờ đứng dậy cho đến khi nào gặp được Chúa. Một cô bé đang chơi với một quả
bóng thấy thế hỏi:
-Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này để chờ đợi Chúa
sao?
-Đúng thế, trước lúc nhắm mắt lìa đời, ta muốn tin chắc rằng có
một Thiên Chúa. Ta cần một dấu chỉ.
-Nhưng tới nay ta chưa nhận được dấu chỉ nào.
-Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít thở, mỗi khi cụ
ngửi một cánh hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi có một đứa bé
chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ khóc, mỗi khi
cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu chỉ trong mưa
gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ, nhưng tại sao cụ chưa
tin? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ. Chúa ở trong cháu. Không cần phải tìm kiếm, vì
Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu: ”Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ
đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy
Chúa là thấy sự sống trong tất cả."
Cụ già ngạc nhiên trước những lời như thế từ miệng một cô bé nhỏ
xíu.
Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn: Má cháu căn dặn: “Này Lily,
nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là
thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả” (Chờ đợi Chúa).
4. Đúng là bàn tay Chúa làm việc
Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Gioan Maria Vianney phải
bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của
cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. Rất may lúc ấy địa phận đang trải
qua một thời gian thiếu linh mục nên thầy Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch.
Và lẽ dĩ nhiên là lần nào cũng... trượt.
Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy
thầy bền chí… nên gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:
- Thầy có lòng đạo đức không?
- Thưa có.
- Thầy có kính mến phép Thánh Thể?
- Thưa có.
- Thầy có siêng năng lần hạt không?
- Thưa có.
Cha chính địa phận quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy
bền chí, chứ nếu khảo hạch mãi thì cũng chẳng đi đến đâu, không bao giờ đỗ được."
Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều
tâm hồn trở về với Chúa. Năm 1925, Đức Piô XII đã đặt Ngài làm bổn mạng các cha
xứ.
5. Dấu hiệu nhận dạng của Chúa
Một vị Giám Mục trong một chuyến đi công tác, phải đi ngang qua
một giáo xứ nhỏ ở ngoại thành. Ngài tạt xe vào thăm. Khi vừa tới nơi thì ngài
thấy có một lớp Giáo lý dành cho người dự tòng đang học. Hỏi cha xứ, ngài mới
biết lớp này sắp mãn khóa và các học viên lớn tuổi này sẽ được chịu Bí Tích
Thánh Tẩy.
Vị Giám Mục chợt nảy ra ý muốn, muốn kiểm tra trình độ Giáo Lý của
họ nên hỏi: “Theo các anh chị, dựa vào đâu mà người khác có thể nhận ra các anh
chị là người Công giáo?”
Mọi người nhìn nhau, không thấy ai lên tiếng trả lời. Rõ ràng
đây là một câu hỏi quá bất ngờ. Vị Giám Mục lập lại câu hỏi thêm nhiều lần nữa,
và ngài đã kín đáo làm một dấu Thánh Giá nhỏ trên ngực như để muốn nhắc khéo một
câu trả lời đúng đắn cho cả lớp học và cũng là để gỡ thể diện cho cha xứ...
Bất ngờ, một người dự tòng đứng dậy và mạnh dạn trả lời: “Thưa Đức
Cha, theo con nghĩ, dấu chỉ để mọi người biết chúng con là người Công giáo,
chính là... Tình Yêu ạ!”
Vị Giám Mục, và cả cha xứ lúc ấy đều suýt buột miệng bảo: “Sai”
nhưng cả hai đều kịp dừng lại, các ngài thấm thía hơn ai hết câu trả lời của
người dự tòng trẻ tuổi kia.
Vâng, người đó đã trả lời rất đúng, không những đúng bài bản mà
còn đúng ý Chúa nữa.
Chắc không ai trong chúng ta quên lời của chính Chúa Giêsu: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương
nhau” (Ga 15,35).
Khi người ta hỏi về nạn phá thai thì mẹ Têrêsa trả lời: “Đối với
tôi, đây là dấu chỉ cho thấy hoặc là xứ sở này quá nghèo đói đến nỗi không thể
chăm sóc cho những cuộc sống Chúa dựng nên, hoặc dân chúng nước này đang chạm
phải một sai lầm to lớn."
6. Phép lạ của tình yêu
Hồi đầu kỳ hè 2007, báo chí không tiếc lời trầm trồ về sự kiện cậu
bé Trần Văn Truyền, 14 tuổi, đang làm rẫy với cha, đã trực tiếp cứu sống 11 người
và tham gia vớt thi thể của 8 nạn nhân khác trong một vụ đắm thuyền tại vùng biển
rất nguy hiểm dưới chân đèo Hải Vân. Khi ra tay nghĩa hiệp, Truyền không hề
nghĩ mình đang thực hiện một hành động cao cả, dũng cảm và ngoạn mục để người
ta phải thán phục.
Cậu nói: “Cháu thấy người sắp chết nhiều quá nên lao ra cứu họ
thôi chứ có nghĩ chi mô!” Trong cuộc đời tại thế của Người, Đức Giêsu đã làm nhiều
phép lạ; nhưng Người chỉ làm vì tình thương. Không bao giờ Người làm phép lạ để
được người ta thán phục, hoan hô. Người không đáp ứng đòi hỏi của những người
Biệt Phái và kinh sư, vì họ xin dấu lạ chỉ để thoả mãn tính hiếu kỳ.
Đừng bao giờ tham vọng sẽ tìm thấy phép lạ cả thể nếu chúng ta
không nhìn ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn chan hoà trong đời sống hằng ngày.
Chúng ta được mời gọi sống yêu thương bằng hành động cụ thể, để tiếp tục cho
phép Chúa làm ‘phép lạ’ cho bao người, qua dụng cụ của Ngài là chính chúng ta.
7. Tầm quan sát
Tạp chí Time đăng ở trang nhất câu truyện “Núi đá cao”, ca ngợi
vẻ đẹp và sự uy nghi của khu nghỉ mát nổi tiếng này. Thêm vào câu truyện là nhận
xét của Daniel Webster, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ năm 1852: “Chúng ta muốn gì ở khu
vực vô giá trị này, một khu vực của loài cầm thú hoang dã và hung bạo, một khu
vực của cát trôi và những cơn lốc xoáy, một khu vực của cây xương rồng và sói
thảo nguyên. Chúng ta hy vọng gì vào sa mạc mênh mông và những rặn núi bất tận
này?” Môsê cũng đã gặp những lời chỉ trích tiêu cực như thế.
Tôi để cho thái độ tiêu cực và những lời phê bình ảnh hưởng như
thế nào đến hành động của tôi?
Môsê có thể đi xa thế nào được, nếu ông làm một cuộc thăm dò ở
Ai cập (Harry Truman).
8. Khiêm nhường để thấy
Paul Cezanne được xếp vào số những họa sĩ vĩ đại nhất thế giới.
Ông đã vẽ trong vòng 35 năm trước khi được mọi người công nhận. Khi một người
chuyên buôn bán trong nghệ thuật phát hiện ra ông và đem triển lãm các bức họa
của ông ở Paris, Cezanne thật cảm động. Cùng với người con trai bước vào phòng
triển lãm, ông không thể tin vào những điều mình thấy. Ông nói với con: “Con
nhìn kìa! Cha không thể tin được! Ngay cả những bức họa của cha mà người ta
cũng đem đặt vào khung kìa!”
Sự khiêm nhường của Cezanne và lời của tiên tri Mica mời gọi tôi
nhớ lại xem ai là người thực sự khiêm nhường mà tôi biết? Cái gì khiến cho lòng
khiêm nhường có sức lôi cuốn?
Khiêm tốn không phải là cúi xuống cho đến khi bạn nhỏ bé hơn
chính mình, nhưng là đứng thẳng theo đúng chiều cao của bạn, giáp mặt với những
cái tự nhiên cao hơn, để bạn có thể nhận ra cái nhỏ bé vĩ đại của bạn là gì
(Philips Brooks).
9. Đức tin nhìn và thấy
Gedeon chẳng là gì cả khi Thiên Chúa kêu gọi ông dẫn đạo dân
Israel. Để minh xác Thiên Chúa kêu gọi mình, Gedeon xin một dấu chỉ. Ông đặt tấm
vải ngoài trời và xin Thiên Chúa cho sương xuống ướt tấm vải, trong khi ở xung
quanh vẫn khô ráo. Khi Thiên Chúa đã làm như ông xin, Gedeon vẫn nghi ngờ.
Câu truyện của Gedeon cho thấy một điều quan trọng: dấu chỉ
không thể thay thế được lòng tin.
Tại sao đôi khi tôi lại cảm thấy khó tin? Hãy đến bên bờ vực thẳm!
Không, chúng con sẽ rơi xuống mất!
Họ đã đến bên bờ vực thẳm, Này đẩy họ, nhưng họ đã bay qua được.
(Thánh Apolliaris)
10. Cái thấy của đức tin
Hạnh các thánh thuật lại câu chuyện sau đây: một vị thánh đang
chầu Thánh Thể, bỗng có người báo tin ở ngoài đang xảy ra một phép lạ và người
ta kéo tới xem đông lắm. Ngài trả lời ở đây cũng đang diễn ra một phép lạ trong
nhà chầu, nơi bí tích Thánh Thể và ngài đang chiêm ngắm.
Con người chúng ta vốn có tính hiếu kỳ: Nghe nơi đâu có chuyện kỳ
lạ, thì lập tức đổ xô tìm đến. Do đó, dễ có nguy cơ coi phụ là chính, thấy giả
tưởng thật. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại có vẻ không chuộng đánh bóng mình qua
những phép lạ huy hoàng, hoành tráng. Cụ thể, khi làm phép lạ biến nước thành
rượu, hóa bánh ra nhiều, Chúa cũng làm như một việc bình thường, tự nhiên đến mức
không ngờ! Thậm chí dấu lạ lớn nhất là ban ơn cứu độ cho nhân loại vậy mà Chúa
cũng khởi đầu rất bằng cách sinh ra như một bé thơ và chịu chết như một tử tội.
Dấu lạ đích thực chính là Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra làm người và đã chết, đã
sống lại vì yêu thương ta.
Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa đang hiện diện trong Lời của
Ngài, trong tấm bánh được bẻ ra trong Thánh Thể, bạn có ý thức sự hiện diện đó
chưa?
10. Cỏ thành lúa
Năm 1770, tại một nhà thờ Ý, hai chú giúp lễ kèn cựa nhau ‘ai ở
bên phải’ cha chủ sự. Cuộc cãi vã trở nên ồn ào, dẫn đến ẩu đả. Castiglioni
dùng chân đèn đánh vào đầu Della Genga, máu chảy! Giáo dân la lên, “Ném chúng
ra ngoài! Trục xuất chúng!" 55 năm sau, Vatican cử hành Năm Thánh, Della
Genga, nay là Giáo Hoàng Lêô XII, tiến ra, bắt đầu với nghi thức mở cửa đền thờ.
Quay sang vị Hồng Y bên cạnh, ngài nói khẽ, “Đưa cho tôi cái búa!" Với nụ
cười ranh mãnh, Castiglioni đáp, “Như con đã đưa chân đèn cho ngài ngày trước?"
Không thể tin được! 4 năm sau, Castiglioni, Giáo Hoàng Piô VIII, kế vị bạn
mình!
“Lạy Chúa, Chúa chỉ nhìn
lúa, Chúa không nhìn cỏ! Chúa khoan hồng chừa chỗ cho con sám hối. Cho con đừng
bao giờ nhổ ai, ném ai; nhất là ném chính linh hồn con!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
THỨ BA - LÀM THEO Ý CHA TRÊN TRỜI
Lời
Chúa: Mt 12, 46- 50
Khi
ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng
ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh
em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia."
Nhưng
Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?"
Rồi
Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ
ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy."
TRUYỆN KỂ
1. Xin đến, để thực thi ý Chúa
Đức
cha Gioan Baotixita Bùi Tuần chia sẻ hành trình ơn gọi giám mục của Ngài:
‘‘Khi
tôi được gọi làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên, đất nước và Giáo hội Việt
Nam đang sôi động chuyển biến từng ngày, từng giờ. Tình hình thì rất nghiêm trọng,
còn tôi thì rất hèn mọn, yếu đuối.
Tôi
vâng lời Toà Thánh trong muôn vàn lo âu. Với tâm tình phó thác, tôi nói với
Chúa: “Này con xin đến, để thực thi ý Chúa."
2. Bà có phải là Mẹ của Giêsu không?
Vào
một buổi tối mùa đông nọ, một người phụ nữ đang ngồi trên xe hơi đi ngang qua một
con đường trong thành phố. Bà thấy một em bé trai, đi chân không, áo quần rách
rưới, nhìn chăm chú và thèm muốn các đôi giày để sau tủ kính của một hiệu buôn.
Bà cho dừng xe lại, bước xuống xe, lại gần vỗ nhẹ vào má em, vừa cười vừa nói:
-
Em làm gì ở đây vào giờ lạnh buốt thế này?
-
Em xin Chúa Giêsu cho em một đôi giày. Bé trả lời.
- Vậy
thì đi theo cô.
Bà
vừa nói vừa cầm tay em bé dẫn đi.
Hãy
thử xem Đức Giêsu cứu giúp những đứa trẻ như em và làm chúng hạnh phúc không?
Bà
đi vào tiệm buôn, một nơi quá quen thuộc đối với bà. Bà mua cho em một đôi tất
len dày và một đôi giày chắc chắn rồi tự tay bà xỏ cho em. Em bé đứng há hốc miệng
nhìn, chẳng nói được một lời nào. Khi người đàn bà sắp từ giã em, em chăm chăm
nhìn bà, nước mắt trào ra, và hỏi bà:
-
Bà ơi! Bà có phải là Mẹ của Giêsu không?
3. Anh em của Chúa
Abraham
Lincoln là tổng thống Hoa Kỳ lần kia vào một bệnh viện, tổng thống thấy một
thương binh trẻ, chân bị bó bột trông rất đau đớn. Tổng thống thông cảm và tỏ
ra lòng biết ơn đối với người lính trẻ đã hy sinh cho tổ quốc và đồng bào. Tổng
thống cúi xuống hỏi:
- Bạn
cần tôi giúp gì không?
Người
lính không nhận ra người hỏi mình là ai, nhưng cũng khiêm tốn đáp lại rằng:
-
Nhờ ông viết dùm cho tôi lá thư, gởi về thăm cha mẹ tôi.
Tổng
thống đã viết theo lời đọc của người lính: Ba mẹ kính mến, con là Josepth đã bị
thương nặng, nhưng may còn sống. Con gửi lời thăm mến ba mẹ, nhất là con cám ơn
ba mẹ đã dạy dỗ, nên con đã biết làm trọn bổn phận của người Công giáo. Bác sĩ
bảo: chắc con khó lành hẳn được. Con cầu Chúa chúc lành cho ba mẹ, xin Chúa cho
ba mẹ cũng như con được lòng vâng theo thánh ý Chúa. Cho con hôn hai em con là
Jean và Marie.
Ký
tên: Josepth.
Tiếp
đó tổng thống ghi thêm “thư này do Abraham Lincoln viết giùm." Khi anh
thương binh trẻ đọc lại lá thư, anh rất kinh ngạc, vì thấy tên tổng thống ký ở
dưới, anh liền nhìn tổng thống với lòng kính phục và hỏi:
-
Thưa Ngài, vậy Ngài là tổng thống nước Mỹ?
Tổng
thống trả lời:
-
Phải.
Rồi
tổng thống nói tiếp.
- Bạn
đã nhận ra tôi là tổng thống, bạn còn muốn tôi giúp gì nữa?
-
Xin Ngài nâng đỡ cẳng chân đau của tôi một chút,
Tổng
thống ngồi xuống giường, bên cạnh thương binh với tấm lòng biết ơn của một vị Tổng
thống. Tổng thống đã nâng đỡ cẳng chân đau của người thương binh trẻ suốt đêm
mà ngủ.
4. May mắn hơn
Vào
tháng 3 năm 2007, cặp vợ chồng diễn viên điện ảnh Mỹ, Brad Pitt và Angelina
Jolie, đã nhận bé Phạm Quang Sáng làm con nuôi. Bé Sáng thật may mắn khi trở
nên thành viên của gia đình Pitt và Jolie. Chắc chắn bé sẽ được hưởng những quyền
lợi như những người con khác của cặp vợ chồng nổi tiếng này.
Trong
đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định rằng những ai thi hành ý muốn của
Cha đều là mẹ, là anh em của Ngài. Như vậy, chúng ta còn may mắn hơn vì được là
thành viên của gia đình Thiên Chúa, với chỉ một điều kiện là làm theo ý của
Chúa Cha, Đấng ngự trên trời.
5. Người thân của Chúa
Cách
đây nhiều năm, tạp chí This Week đăng câu truyện có thật về một cậu bé người Hà
Lan bị kết án tử, vì đã cố gắng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã. Cậu
đã viết cho cha cậu trong lá thư tuyệt mạng như sau: “Xin bố đọc lá thư này một
mình, rồi cẩn thận nói lại với mẹ con… Trong một giây lát vào khoảng 5 giờ, tự
nhiên con cảm thấy mình gần gũi Thiên Chúa. Con đã chuẩn bị đầy đủ cho cái chết…
Còn đã xưng tội và rất thanh thản.”
Đã
bao giờ tôi cảm thấy thanh thản vì được Thiên Chúa nhân từ tha thứ một cách đặc
biệt chưa?
Lòng
thương xót là cầu vồng mọc trên đám mây khi cơn bão trôi qua, là ánh sáng bay
lượn trên tòa phán xét (Edwin Hubbell Chapin).
6. Tìm điều Chúa muốn
Một
cơn khủng hoảng đã khiến cho một người cầu nguyện lần đầu tiên sau nhiều năm xa
Chúa. Người ấy nói: “Tôi dâng bản thân cho Chúa vì tin rằng Ngài sẽ cất mọi đau
khổ cho tôi, và tôi đã sẵn sàng… Từ khi trao cho Chúa cả quyền sở hữu đời tôi,
Ngài đã hướng dẫn tôi… theo cách hầu như hoàn toàn khó tin với những ai không cảm
nghiệm được bí mật của một cuộc sống hoàn toàn tín thác.” Đó là vấn đề dấn thân
mà Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin mừng hôm nay.
Lời
Chúa và sự dấn thân của người này mời gọi tôi tự hỏi: tôi sẵn lòng đến độ nào để
Chúa sử dụng tôi theo bất kể mục đích nào Ngài muốn? Tôi sợ hãi gì trong việc
này?
Chúng
ta không có gì là của riêng mình, trừ ý chí. Đó là một điều Chúa đặt vào quyền
riêng của ta để ta có thể có một lễ vật dâng lên Chúa. (Thánh Gioan Vianney).
7. Tín thác vào Chúa
“Truyện
nghe lởm tại một khu vườn” đó là bài thơ được viết bởi Elisaberth Cheney với nội
dung như sau: Cò nói với Cắt: “Tôi thực sự muốn biết tại sao loài người luôn tất
bật và lo nghĩ đủ thứ như vậy?” Cắt nói: “Bạn ơi, tôi nghĩ chắc vì họ không có
Chúa trên trời quan tâm chăm sóc như Ngài quan tâm chăm sóc bạn và tôi.”
Tôi
sẽ trả lời Cò ra sao? Ý của Cắt là gì?
Đừng
bảo tôi rằng sự lo lắng không đem lại gì tốt đẹp. Tôi biết rõ hơn. Những điều
tôi lo lắng chẳng bao giờ xảy ra.
THỨ TƯ - GIEO VÃI LỜI CHÚA
Lời
Chúa: Mt 13, 1-9
Ngày
ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh
Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng
thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này
đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường,
chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền
mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không
đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết
nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt
được sáu mươi, hạt ba mươi.
Ai
có tai để nghe, thì hãy nghe."
TRUYỆN KỂ
1. Hạt Giống Lời Chúa
Một
em bé 13 tuổi bị phong cùi và bị xua đuổi ra khỏi làng, có nhà truyền giáo nọ
đưa em về nhà nuôi dưỡng, săn sóc. Cảm động trước tấm lòng tốt của nhà truyền
giáo, em bé hỏi:
- Tại
sao ông quan tâm lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà
truyền giáo trả lời:
- Bởi
vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài yêu thương
chúng ta và muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Ngài đã sai Con Một
Ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để dạy mỗi người chúng ta sống xứng
đáng với phẩm giá con người, vì thế vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con.
Từ
đó, em bé này không bao giờ quên được cử chỉ yêu thương của nhà truyền giáo. Chẳng
những thế, em còn xin làm môn đệ Chúa Giêsu và dùng thời gian còn lại để săn
sóc cho những người phong cùi khác tại trung tâm của nhà truyền giáo.
2. Không có lối học đế vương.
Cách
đây 23 thế kỷ, nhà toán học Euclide, thành Athènes ở Hy Lạp, đến thành
Alexandria để mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai cập lúc đó dẫn hoàng tử
Seronus đến xin học. Nhà vua xin dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là
hoàng tử.
Euclide
trả lời:
-
Tâu đức vua, không có lối học đế vương. Mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải
hết sức tập trung ý chí và cố gắng làm việc hăng say thì mới có kết quả. Cách
ngôn nói: “Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ” hoặc “Đại dương dễ
dàng rơi ra những viên sỏi nhưng giấu kín những hạt ngọc."
Lời
Chúa cũng chỉ có kết quả nơi những tâm hồn biết đón nhận và đem ra thực hành
như thế.
3. Tin Lời Chúa nửa vời
Có
một người đi biển tình cờ gặp phải nạn sóng to gió lớn khi thuyền của ông đang
vượt biển khơi như các môn đệ trong Tin Mừng. Và trong trận cuồng phong bão tố
thập tử nhất sinh ấy, ông cũng thấy Đức Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về
phía ông. Nhớ lại đoạn Tin Mừng, ông kêu to: "Lạy Chúa, nếu thật là Ngài,
xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giêsu bảo:
"Hãy lại đây."
Nghe
thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ, xong xuôi ông nhảy xuống nước
tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả. Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón
lấy ông và hỏi:
- Tại
sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.
Nghĩ
mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.
-
Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.
Chúa
lắc đầu hỏi:
-
Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ trước khi con tiến về
phía Ta?
Nhìn
hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:
-
Cái này..., những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!
4. Hạ rơi vào đất tốt hay sỏi đá?
Có
một gia đình người dân tộc kia rất nghèo nhưng lại đạo đức. Hai vợ chồng chăm
chỉ làm ăn nên mùa màng gặt về năm nào cũng dư ăn. Ngặt một nỗi là bà con chung
quanh thường hay thiếu hụt. Họ chạy đến chị K’Bông vay mượn, hẹn đến mùa sau sẽ
trả. Có nhiều người mượn đã mấy mùa rồi mà vẫn chưa có để trả. Gia đình tỏ vẻ
không bằng lòng. Một hôm bà mẹ của chị gọi chị lại nói:
-
Sao mà mày ngu vậy? Bạ ai cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mày thì lấy
gì mà ăn?
Chị
mỉm cười trả lời:
- Mẹ
này, không sao đâu! Mình nghe Lời Chúa dạy: cho mượn là việc mình phải làm, còn
trả lại là việc của người ta!
Như
vậy, hạt giống Lời Chúa có sinh hoa kết quả hay không là tuỳ ở mỗi người. Người
dám can đảm đem Lời Chúa vào cuộc sống thì kết quả sẽ thật dồi dào, còn những
ai chỉ nghe không thôi thì Lời Chúa chẳng khác gì bị rơi vào chỗ đầy gai góc, sỏi
đá.
5. Tại sao lại gieo trên vệ đường, sỏi, đá?
Ruộng
lúa của Do Thái sau vụ gặt để hoang, khiến nhiều người đi tắt ngang tạo nên con
đường mòn, bên cạnh đó là những khóm cỏ hoang mọc lên.
Đến
mùa gieo giống, người nhà nông đem hạt vãi trên thửa đất của mình rồi mới cày lấp
hạt giống xuống, như thế những hạt rơi trên đường chủ ruộng chưa kịp cày, thì
chim trời bay ngang qua trông thấy nó xà xuống công đi mất!
Khi
tra lưỡi cày xuống ruộng, vì đất Do Thái có nhiều đá, nên lưỡi cày vần cục đá
nhô lên, đội hạt giống nằm lên trên. Khi hạt giống vừa nảy mầm, vì không có nước
nên khô héo; những hạt rơi vào bụi cỏ, bụi gai, dù lưỡi cày đã úp bụi cỏ, bụi
gai xuống, nhưng có sẵn rễ, nó mọc nhanh hơn hạt giống còn phải qua thời kỳ nảy
mầm, do đó cỏ làm chết ngạt hạt giống, không mọc chen với cỏ được!
6. Lời Chúa không thể bị tiêu hủy
Tổng
thống Mỹ George Bush (cha) kể lại cho Đức Gio-an Phao-lô II nhân dịp ngài viếng
thăm Hoa Kỳ ngày 19-09-1989: “Trong ngày lễ an táng Tổng Bí thư Breznev tại
Mascova, xác ông nằm giữa rừng hoa tím và đoàn người đông đảo đến viếng, nhưng
không có nghi lễ tôn giáo, vì tôi là người ngoại giao và lịch sự, nên cũng
nghiêm trang đến quan tài để nói lời từ biệt, thì kìa, có Chúa làm chứng cho
tôi, giữa một xã hội không tin thần thánh, bà vợ ông Breznev cúi nhẹ, kính cẩn
làm dấu thánh giá trên ngực chồng!”
Ông
Bush kể tiếp: “Tôi có gặp ông Mao Trạch Đông trước giờ ông ấy chết, ông chủ tịch
họ Mao buồn phiền nói với tôi: “Tôi cảm thấy đã đến giờ Chúa gọi tôi rồi, sợ
quá!”
Vài
sự kiện trên minh chứng xác thực rằng môi trường không thể hủy hoại được sự sống
của hạt giống Lời Chúa!
7. Ai có tai thì nghe
Đại
tướng Lew Wallace người vô thần, cùng đi chuyến xe lửa với đại tá Robert. Trong
lúc chuyện trò, Lew Wallace nói với Robert:
- Bọn
Công Giáo thật là một lũ ngu xuẩn, đúng như lời Lênin nói: “Tôn giáo là thuốc
phiện, là sản phẩm của những kẻ bạc nhược!” Xưa nay có nhiều người tấn công niềm
tin của bọn Công Giáo, nhưng không ai vạch cho chúng thấy những điều mê tín,
trái khoa học trong cuốn sách mà chúng gọi là Thánh Kinh. Phen này tôi sẽ để
nhiều thời gian đọc và nghiên cứu nó, chắc chắn tôi sẽ vạch ra cho bọn chúng thấy
cái sai trái của chúng, tôi sẽ là người giải phóng chúng!
Đại
tá Robert nghe mát tai, nên nói:
-
Chúc đại tướng thành công.
Thế
là Lew Wallace ngày nào cũng mải miết đọc Thánh Kinh xuyên suốt 5 năm. Kết quả
thay vì Lew Wallace vạch cho người Công Giáo phải mở mắt thấy sai lầm của mình,
thì chính ông lại viết tiểu thuyết “Benhur.” Nội dung trong cuốn sách ông tuyên
xưng niềm tin của mình vào Đức Giê-su, nhờ sự chết của Ngài trên thập giá mà
máu từ cạnh sườn Ngài đổ ra hòa cùng dòng nước mưa chảy xuống thung lũng nơi có
những người cùi đang trú ngụ, liền được khỏi bệnh tức khắc.
Cuốn
truyện này sau đóng thành phim rất nổi tiếng, làm cho nhiều người không biết gì
về Thiên Chúa, sau khi xem họ đã trở nên người Công Giáo chân chính.
Câu
chuyện trên cũng giống việc ông Philipphê sau khi đã gặp Đức Giê-su, người
Nazareth, ông gặp Nathanael và giới thiệu Chúa Giê-su cho, nhưng ông này lạnh
nhạt nói:
- Ở
Nazareth có gì hay đâu?
Nhưng
ông Philipphê cứ thúc:
- Cứ
đến mà xem.
Ông
Nathanael vì tò mò tìm đến với Chúa Giê-su. Từ giờ đó ông đã trở nên môn đệ đầu
tiên của Ngài (x. Ga 1,45t).
8. Cần nghĩ đến điều quan trọng
Sau
khi ngọn lửa đã thiêu hủy dinh thự của mình, ngôi sao bóng rổ Kareem Abdul-
Jabbar nói với các phóng viên: “Cái nhìn của tôi đã thay đổi hoàn toàn. Tôi
nghĩ rằng điều quan trọng đối với tôi bây giờ là dành thời giờ cho Amie, con
trai của tôi, và xem trọng những điều khác ngoài bóng rổ.” Kareem thật may mắn.
Anh đã nghe điều mà nhiều người không được nghe, đó là giọng nói của Chúa Giêsu
qua các biến cố. Anh đã thấy được điều mà nhiều người không thấy, đó là cuộc sống
còn chứa đựng nhiều điều còn quan trọng hơn cả danh vọng hay tiền tài.
Tôi
có thể nhớ lại một lần nào đó Thiên Chúa dường như muốn nói với tôi điều gì
không?
Thiên
Chúa thường đến thăm chúng ta, nhưng hầu như chúng ta luôn vắng nhà (Joseph
Roux).
9. Chúa bán hạt giống
Đêm
nọ, một người phụ nữ mơ thấy mình bước vào cửa hàng tạp hóa, chị vô cùng ngạc
nhiên khi thấy Chúa Giêsu là người đang bán hàng, chị thưa:
- Lạy
Chúa, cửa hàng của Ngài bán những thứ gì vậy?
Chúa
trả lời:
- Bán
mọi thứ mà con đang mơ ước, chúng xuất phát từ nơi sâu thẳm của trái tim con.
Chị
nghĩ thầm “tuyệt quá!” và cất lời xin:
- Thưa
Chúa, con muốn được bình an trong tâm hồn, có tình yêu, hạnh phúc, sự khôn
ngoan và tự do để không còn sợ hãi nữa.
Ngừng
lại một lát và như nhớ ra điều gì, chị nói thêm:
- Không
phải cho con mà thôi, nhưng còn cho những người thân yêu của con và tất cả mọi
người đang sống trên mặt đất này.
Chúa
mỉm cười bảo chị:
- Con
yêu dấu! Con đến sai chỗ rồi. Ở đây Ta không bán hoa trái, chỉ bán hạt giống
thôi.
Hai
ngàn năm trước, khi nói về tương quan giữa Lời Chúa và sự tự do đáp trả của con
người, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh “người gieo giống."
10. Nghe và hiểu
Mahatma
Gandhi, một vĩ nhân nổi tiếng cả thế giới, người đã dành được độc lập tự do cho
Ấn Độ mà không tốn một viên đạn, đấu tranh liên lỉ bằng phương pháp bất bạo động
hòa bình.
Một
hôm, trong lúc vội vàng lên xe lửa với một người bạn và bị tuột mất một chiếc
dép. Ông lập tức tháo ngay chiếc dép còn lại mà quẳng xuống sân ga, nơi ông vừa
đứng đợi tàu. Người bạn ngạc nhiên hỏi ông:
- Sao
anh lại quẳng cái dép của anh xuống đó?
- Để
có ai lượm, thì lượm được cả đôi mà đi.
Việc
quẳng ngay cái dép đó cho thấy những suy tính vị tha đã trở nên một phản xạ tự
nhiên, như bản tính thứ hai của ông. Cả đời Gandhi là hy sinh cho hạnh phúc người
khác.
Từ
đâu mà ông sống vị tha được nư thế? Có thể nói rằng Lời Chúa chính là yếu tố
căn bản xây dựng nên nhân cách đáng kính của ông. Dù không phải là một Kitô hữu,
nhưng lúc nào ông cũng có cuốn Phúc Âm ở ngay bên, để đọc, suy gẫm, và sống.
THỨ NĂM - LÝ DO DÙNG DỤ
NGÔN
Lời Chúa: Mt 13, 10-17
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao
Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã
cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì
ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi.
Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy,
lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri
Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn
mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại,
kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại
chữa chúng cho lành."
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc
cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và
nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy;
mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe."
TRUYỆN KỂ
1. Lời tỏ tình của Thiên Chúa
Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa
mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học
thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt
trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Ông bạn làm gì vậy?
Người Ả rập trả lời: - Tôi cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học lại hỏi: - Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được
Chúa không?
Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác
học nói thêm: -Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn
không bao giờ thấy được, sờ được.
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều
nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét: - Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi
ngang qua đây.
Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà
bác học: - Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?
Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời
không ấy, người Ả rập kết luận: - Ông quả là một người ngu: ông không thấy,
không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.
Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính: - Tôi
không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát,
đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.
Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói: - Ông hãy nhìn những
dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.
2. Những Bài Học Từ Trẻ Thơ
Khi đứng trên cánh đồng sau mùa thu hoạch, tôi chỉ nhìn thấy mảnh
đất nứt nẻ với những gốc rạ khô cằn. Còn các con của tôi, chúng nhìn thấy những
bông hoa dại rực rỡ có cánh trắng muốt, mịn màng mà chúng có thể hái tặng mẹ.
Khi có một người say rượu cười với tôi trên đường, tôi thấy đó
là một gã đàn ông bẩn thỉu, hôi hám, khiến tôi có cảm giác ghê sợ nên vội nhìn
đi chỗ khác. Các con tôi lại thấy nụ cười thân thiện trên môi ông và chúng cũng
đáp lại bằng những nụ cười.
Khi nghe bản nhạc mình yêu thích, tôi ngồi một mình, lặng lẽ thưởng
thức những giai điệu ngọt ngào của nó. Trong khi đó, các con tôi lại rủ nhau nhảy
theo điệu nhạc, hát to thành tiếng và đôi khi còn tự đặt lời hát mới cho riêng
mình.
Khi đang trên đường mà bị một cơn gió thốc vào mặt, tôi cảm thấy
bực bội vì mái tóc rối tung, thậm chí còn phải giảm tốc độ lại. Các con tôi thì
nhắm mắt, dang rộng hai tay, mơ bay theo gió, thậm chí còn ngã lăn ra đất và cười
vang.
Khi cầu nguyện, tôi thường khấn xin những điều tốt đẹp cho bản
thân và gia đình mình, còn các con tôi lại thì thầm: “Cám ơn Ngài đã ban cho
chúng con những người bạn tốt. Xin giúp chúng con không gặp ác mộng trong giấc
ngủ đêm nay. Cảm ơn vì Ngài đã thương yêu và luôn phù hộ chúng con."
Khi bước qua vũng sình, tôi thấy đôi giày bê bết bùn và nghĩ đến
tấm thảm sẽ bị bôi bẩn. Các con tôi lại thấy một trò vui mới với những cây cầu
mà chúng sẽ xây bằng bùn bắc qua dòng sông nhỏ. Mùa mưa là một mùa tuyệt vời để
chúng say mê chơi đùa với những con giun dễ thương đang sống trong vũng sình bùn
ấy.
3. Sướng hay khổ
Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ thuộc mọi lứa tuổi
như sau: “Bạn hãy chứng minh bạn khổ.”
Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng sáu mươi, chứng minh:
Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho
đất – bán lưng cho trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm
tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!…
Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn chứng: Tôi là người kém sức
khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất
khó chịu!…
Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, viết ngay
không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa đám đông bạn bè, tôi chẳng biết
ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và
chán ghê!…
Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì khựng lại. Rồi anh
suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng, quyết định nộp giấy trắng.
Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được 1 điểm an ủi vì đã
có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải lên gặp thầy để trình bày rõ lý do
tại sao lại để giấy trắng.
Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:
- Các bạn không được điểm cao vì bài các bạn không thể hiện được
tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời.
Ai cũng làm được như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì
góc nhìn đó quá hẹp.
Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và hỏi:
- Tại sao bạn để giấy trắng?
- Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có khuynh hướng vội vàng liệt
kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt giật mình…
- Sao bạn lại giật mình?
- Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi người để trình bày được
dễ dàng hơn.
Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay xuống nhìn mọi người,
cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:
- Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài đồng, chỉ có chị tôi
và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị
phỏng nặng, bây giờ vẫn còn dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời.
Một buổi tôi đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ mẹ.
Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia nhậu say lái xe tông
vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó. Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân
tôi cũng khá đau. Gần đây, tôi thú thật là tôi yêu một người con gái, nhưng tôi
thế này thì làm sao xứng với người ta được!
Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng cậu yếu ớt nhưng ai
cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ thường.
- Nhưng sao bạn không viết những điều đau khổ này vào bài thi?
- Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình khi tôi chợt nhớ lại
lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ
rằng: “Anh em thật có phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ. Rồi tôi nhận ra:
để chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng tôi không
có gì để hạnh phúc.
Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên tiếng:
- Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô hữu, vậy cho tôi hỏi
anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về việc may phúc khiến bạn thay đổi
cách nhìn như thế?
- Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu. Anh ấy nói: “Mắt anh em
thật có phúc vì được thấy những điều đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được
nghe những điều đang nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.”
(Mt 13:16-17) Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được nhiều điều
may mắn trong cuộc sống của tôi. Tôi có mẹ có chị. Nhà chúng tôi tuy chẳng kín
cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau ấm áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có
lòng quảng đại. Tôi có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người
cầu nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra trong cái xui
có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng. Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh
khó khăn, tôi thấy mình biết cảm thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền
trên mình, tôi hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt
niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng mẹ và chị đi Lễ
với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa. Vui lắm!
4. Nghe mà không hiểu, nhìn mà không
thấy
Tác giả Arthur Gordon kể lại huynh trưởng đội hướng đạo sinh của
ông thường đưa họ đi dạo bộ đường dài như thế nào. Sau khi đi được khoảng mười
phút, họ thường dừng lại và huynh trưởng nói: “Hãy kể cho các anh, các em đã
nghe và thấy những gì?” Luôn luôn, đó là những gì anh đã thấy và đã nghe. Anh
nói: “Công trình sáng tạo hiện diện khắp nơi, nhưng các em lại tự khép kín mình
lại… Đừng mặc áo mưa dưới vòi hoa sen nữa.” Hình ảnh buồn cười này thật đúng với
những người sống ở thời Chúa Giêsu: Họ nghe mà chẳng hiểu, họ nhìn mà chẳng thấy.
Tôi có lỗi thế nào trong thái độ khép kín của tôi? Về điều gì? Về
người nào?
Chỉ ai thấy được những điều không thể thấy mới có thể làm được
những chuyện không thể làm. (Frank Gaines)
THỨ SÁU - HẠT ĐƯỢC MỘT
TRĂM, HẠT ĐƯỢC BA MƯƠI...
Lời Chúa: Mt 13, 18-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Vậy các con
hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà
không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc
hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui
lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời,
nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc
đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên
sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba
mươi."
TRUYỆN KỂ
1. Nghe và hiểu
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh
Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông
thái.
Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức
uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi:
“Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?" Nhưng lần nào nhà vua
cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã..."
Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất
cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu
cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ
hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được."
Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.
2. Nước làm sạch rổ rau
Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn làm cho người chồng khó chịu.
Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ
để nghe Lời Chúa.
Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ: - Em đi lễ hằng ngày như vậy
để được cái gì?
Bà vợ trả lời: - Được nhiều lắm, anh ạ.
Chồng hỏi tiếp: - Được cái gì?
Vợ thản nhiên đáp: - Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn
và rửa sạch tâm hồn em!
Chồng trợn mắt: - Rửa sạch?
Vợ chỉ vào rổ rau mới rửa, trả lời: - Vâng, nước đã làm cho bụi
bặm rổ rau này sạch trơn!
Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ!
3. Gieo và gặt
Ông H.L.Gee có thuật lại câu chuyện sau đây. Tại nhà thờ nơi ông
thường lui tới để tham dự các giờ thờ phượng, có một cụ già cô độc tên Tôma. Cụ
sống rất thọ, thọ hơn bạn bè cụ, nên hầu như không còn ai biết cụ nữa. Lúc cụ
Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng, sẽ chẳng có ai thân thiết tiễn đưa cụ. Nghĩ thế
nên ông quyết định phải đi với cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Đúng là không có ai đi tiễn đưa cụ cả. Hôm đó trời lại mưa tầm
tã. Người nào người nấy ướt như chuột. Khi quan tài gần đến nghĩa trang, thì
ông thấy có một quân nhân đang đứng ở cổng chờ. Đó là một sĩ quan…. nhưng trên
áo mưa không thấy quân hàm. Người đó đến bên huyệt dự lễ an táng. Lễ xong, ông
ta tiến đến trước huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi…
ông Gee và quân nhân đó cùng đi về.
Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông
Gee chợt nhìn thấy quân hàm của ông ta: quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với
ông Gee: “Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi đến đây làm gì. Nhiều năm trước
đây, cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở nhà thờ tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ
nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ.
Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi, nhưng cả đời tôi mang ơn
cụ và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn biệt cụ lần cuối
cùng."
Đúng là cụ Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo
sư hay một nhà truyền đạo nào biết được những việc làm của mình sẽ ra sao. Công
tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho
Chúa.
4. Muốn chiến thắng trong cuộc đời
Ed Baldwin là chủ ngân hàng và Janice, vợ ông, là một phụ nữ có
nghề nghiệp. Cả hai đang thăng tiến trên nấc thang danh vọng, không ai quan tâm
đến tôn giáo hay nhà thờ. Thế rồi tình cờ một ngày Chúa nhật, họ đi nhà thờ, và
cả hai nhận ra rằng “những người chết với nhiều trò chơi nhất” không phải là kẻ
chiến thắng trong trò chơi cuộc đời. Cuối cùng, Ed và Janice đã thay đổi hẳn.
Giờ đây Janice cống hiến thời giờ cho gia đình, còn Ed dành thời gian theo học
về thừa tác vụ. Hiển nhiên, những người khác cũng cảm nhận cách làm việc của
Ed. Tuổi trung bình của các sinh viên trong chủng viện của Ed là 37.
Tôi có biết trường hợp nào tương tự như trường hợp của Ed và
Janice không? Đâu là những dấu hiệu khác về cơn đói tinh thần trong con người
ngày nay?
Cuộc sống là chất liệu. Chúng ta là thợ thủ công. Từ cuộc sống
chúng ta có thể khắc nên một cái gì đẹp đẽ hoặc làm cho nó ra xấu đi. Tất cả tùy
thuộc ta (Cathy Better).
5. Quyết định chỉ cần một
Một nữ sinh trung học viết: “Cuối năm vừa qua, tôi đã có một cuộc
tranh luận sôi nổi với người cố vấn của tôi. Cô ấy đã giúp tôi thấy được nhiều
điều rất khác thường. Kết quả là tôi đi đến nhiều quyết định. Ngày hôm qua, tôi
nhận ra rằng mình không thực hiện được, dù chỉ một quyết định thôi. Tôi đã hoàn
toàn đánh mất tất cả trong nhiều chuyện khác.”
Kinh nghiệm của cô gái trên đây mời gọi tôi tự hỏi: Tôi thường
giống như hạt lúa rơi vào bụi gai bằng cách nào?
Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa sắp bước xuống và kéo văn minh xã hội về
phía mình, vì nó đã đi quá tốc độ. (Steven Wright)
6. Bốn cấp độ nghe Lời Chúa
Chúa Giê-su phân tích bốn cấp độ hay cung cách “tiêu hóa” Lời của
người nghe:
(1) nghe nhưng không hiểu;
(2) nghe rồi để ngoài tai;
(3) nghe nhưng bị sự đời bóp nghẹt; và
(4) nghe rồi chịu khó tìm hiểu và sống Lời.
THỨ BẢY – LÚA VÀ CỎ LÙNG
Lời
Chúa: Mt 13, 24-30
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như
người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù
của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất.
Khi
lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông
rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy
cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế."
Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ."
Chủ
nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa
chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt:
Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại
chất vào lẫm cho ta."
TRUYỆN KỂ
1. Nữ thánh bị coi là cỏ lùng
Truyện thánh Jean d'Arc vào thế kỷ 15 có thể đem lại
cho chúng ta bài học thích đáng. Cảm nhận được tiếng gọi đặc biệt của Chúa, cô
gái quê 13 tuổi đã đứng lên lãnh đạo quân đội Pháp chống lại cuộc xâm lăng của
nước Anh. Nhưng cô bị người Anh bắt giữ và đem ra xử tử như một người lạc giáo.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cấu kết với thế quyền để tiêu diệt cô; họ tìm
đủ cách để đe dọa và thị oai cô gái; họ buộc cô phải đặt tay trên Phúc Âm và thề
rằng cô chỉ nói sự thật mà thôi. Một viên thẩm phán của tòa án tôn giáo lúc bấy
giờ đặt câu hỏi: "Cô có nghĩ rằng cô đang ở trong tình trạng sạch tội
không?" Cô gái trả lời: "Nếu tôi không ở trong tình trạng ân sủng,
thì xin Chúa cho tôi được sạch tội; còn nếu tôi đang ở trong tình trạng ân sủng,
thì xin Chúa giữ tôi luôn ở trong tình trạng ấy."
Không bắt bẻ được cô gái, các viên chức của tòa án
tôn giáo gồm 1 Hồng y, 6 Giám mục, trên 30 nhà thần học, 7 bác sĩ, hàng trăm
nguyên cáo cảm thấy tức tối vô cùng. Họ bảo rằng họ là Giáo Hội, còn cô chỉ là
một thứ cỏ lùng. Jean d'Arc trả lời: "Ðối với tôi, ở đâu có Chúa Kitô, thì
ở đó có Giáo Hội, không thể có mâu thuẫn giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài."
Tuy không chứng minh được sự lạc giáo của cô gái,
tòa án tôn giáo lúc bấy giờ vẫn kết án tử hình cô và ra lệnh thiêu sống cô. Hai
mươi lăm năm sau, một tòa án của Giáo Hội đã đảo lộn phán quyết của tòa án tôn
giáo nói trên, và năm 1920, Jean d'Arc đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh và
được đặt làm quan thày của Nước Pháp. Thánh nữ Jean d'Arc đã hiểu được thế nào
là cỏ lùng trong cánh đồng Giáo Hội.
2. Cải tà qui chính.
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống
những con đường tồi tàn này." Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính
từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã
sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị
ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời
mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh
đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ
đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: “Tôi bầy tỏ với
Chúa những gì có trong tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những
thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể
khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được."
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại:
“Amen." Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: “Tôi cũng tin
Chúa." Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia
sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng
trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: “Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng
Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi."
3. Mazarello nhân hậu
Trong lúc mọi người bận bịu ngoài vườn nho, kẻ trộm
đã lẻn vào nhà mà chẳng ai hay. Khi có người biết được và tri hô lên thì bọn bất
lương đã bỏ đi mất dạng sau khi đã vơ vét một số tiền lớn.
Thực là nỗi đau cho gia đình Mazarello. Cha mẹ nàng
hầu như tuyệt vọng. Mazarello tìm lời ngọt ngào an ủi song thân. Nhưng thỉnh
thoảng lòng căm hờn đối với bọn bất lương lại bừng cháy và những lời kết án được
thốt lên. Mazarello đã ngăn cản: “Không! Chúng ta không có quyền kết án họ. Tốt
hơn, chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động tâm hồn họ và khiến họ ăn năn trở lại.
Chỉ vì dốt nát, nếu không họ đã chẳng làm điều đồi bại như thế”
4. Mặt trái của khốn cực
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số
anh em khác tại một xưởng dệt. Công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn,
trên đó mỗi người ngày ngày dệt một phần được trao phó. Việc làm xem ra độc điệu
và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế,
người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
- Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với
tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ
thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu
là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:
- Con ơi! Làm sao con thấy được công trình nghệ thuật
chúng ta đang cộng tác để thực hiện, bởi những gì con đang thấy chỉ là mặt trái
của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà
thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại.
Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là
bức tranh của ba vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ
ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi.
Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất, giờ đây hiện lên như một kỳ công.
5. Chiếc áo của Chúa
Cuốn tiểu thuyết “Chiếc áo dài” của Lioyd C. Douglas
tập trung quanh một viên bách quản Rôma tên là Marcellus. Ông tuân lệnh và đóng
đinh một người Galilê mà ông tin là vô tội. Sau cuộc hành hình, ông cho xúc sắc
để lấy chiếc áo của nạn nhân và đã thắng cuộc. Từ đấy, một cái gì đó đã xảy ra
với Marcellus. Ông không thể xua đuổi được ý nghĩ về người Galilê ra khỏi tâm
trí mình. Ít lâu sau ý nghĩ trở thành kitô hữu quấy rầy ông và ông phải chiến đấu
với nó. Thực ra, Thiên Chúa đang dùng một chiếc áo để nói với ông. Cuối cùng,
ông đã trở thành một kitô hữu và được hưởng niềm an bình mà ông chưa bao giờ
nghĩ tới.
Tôi có nhớ lần nào mình cảm thấy khó đi đến một quyết
định, nhưng sau đó đã hưởng được niềm an bình trong tâm hồn không?
Lạy Chúa, Chúa đã chạm đến con và con đã được biến đổi
trong bình an của Ngài (Thánh Augustinô).
6. Cứ để cả hai cùng lớn lên
Chỉ vào một băng du côn trên đường phố, Susan nói với
Kay, người bạn Công giáo của mình như sau: “Đã 2.000 năm Chúa Giêsu đến thế
gian, nhưng thế gian vẫn đầy rẫy những người xấu. Ngài chẳng thay đổi được gì cả.”
Năm phút sau, hai người gặp một đám trẻ mặt mày lem luốc. Kay quay sang hỏi
Susan: “Đã 2.000 năm xà bông xuất hiện trên thế giới, vậy mà còn đầy những
khuôn mặt dơ bẩn.”
Câu truyện của Susan và Kay cho ta cái nhìn sâu sắc
hơn trước vấn nạn tại sao còn quá nhiều những xấu xa trên đời này?
Hãy làm những gì có thể bằng những gì bạn đang có tại
nơi bạn sống (Theodore Roosevelt).
7. Yêu thương kẻ thù
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng
nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa
A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ
Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA (Nelson Mandela) đã đứng ra
tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng
đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi
(ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là NEN-XƠN MAN-ĐÊ-LA, chấm dứt 340 năm
độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm
1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu
và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.
Ông NEN-SƠN MAN-ĐÊ-LA đã trải qua 27 năm trong nhà
tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã
cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ
thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế
Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn
tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), Man-đê-la đã viết như sau: “Tôi biết rằng
dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không
làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt,
nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc “A-pác-thai” lại gia
tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của
tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người
trong nước chống lại nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải
để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới”
(McCarthy).
8. Tình yêu tha thứ
Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục
được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những
ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đúa con của ông, mà còn sẵn sàng
giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:
“Tôi đã bị bắt,
cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà
Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên
vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án
như sau: ”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20
năm." Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông
Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được
trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức
cũng nói với tôi: ”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức."
Trong lá thư
Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: ”Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết
vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho
phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong
nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện." Tại sao tôi
lại muốn giúp đỡ anh? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia
đình của tôi? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép
màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã
dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi
cho anh."
Cuối cùng anh
ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền
năng siêu việt. Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban
cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và
4 đứa con của ông ta.
9. Lúa bị cám dỗ làm cỏ lùng
Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người
bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn
cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một
mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?”
Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một
đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì
đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa,
ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn
tôi?”
10. Nhân hậu mà cương quyết
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có
thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một
làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị
ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân
làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây
quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức
tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi
kia.
Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng,
Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót
theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp
tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và
cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu
ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để
nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào
và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để
tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục
mới nói:
- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên
Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống
núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt
nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất
linh hồn đấy!
Lời Chúa Tuần 16 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch