CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG - NĂM A
BÀI ĐỌC I: Is 35, 1-6a. 10
1 Vui lên nào, hỡi sa mạc
và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, 2 hãy
tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng
ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng
Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa , và vẻ rực rỡ của
Thiên Chúa chúng ta. 3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. 4 Hãy nói với những kẻ
nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới
ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu
anh em. " 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe
được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ
reo hò. 10 Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến
Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi
cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
ĐÁP CA: Tv 145
Đ. Lạy Chúa, xin đến cứu
chúng con. (x. Is 35, 4)
6b Chúa là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,
7a xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn.
7b Chúa giải phóng những ai tù tội, 8
Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu
chuộng những người công chính.
9 Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người
nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. 10 Chúa nắm
giữ vương quyền muôn muôn thuở, Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
BÀI ĐỌC II: Gc 5, 7-10
7 Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới
ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh
hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh
em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần
tới. 9 Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi
bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về
sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị
đã nói nhân danh Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Is 61, 1
Hall-Hall: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai
tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Hall.
TIN MỪNG: Mt 11, 2-11
2 Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những
việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng:3 "Thưa
Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác? "4 Đức Giê-su trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho
ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe:5 Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi. "
7
Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: "Anh em
ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?8
Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc
gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra
xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn
hơn cả ngôn sứ nữa. 10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi
chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho
Con đến.
11
"Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có
ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn
cao trọng hơn ông.
ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG THANH TẨY VÀ
NÂNG PHẨM GÍA CON NGƯỜI
Trong Chúa nhật
trước (2/Vọng/A), ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy tin vào Đức Kitô Giêsu,
để được Ngài dùng Thánh Thần và lửa thanh tẩy cho. Cuộc thanh tẩy ấy không phải
chỉ là thanh tẩy tội lỗi, mà nhất là thanh tẩy niềm tin của con người mang danh
“Đạo gốc”, thuộc gốc tổ Adam, Eva, chứ không thuộc về gốc Giêsu-Maria. Ai khao
khát được thanh tẩy, cần phải được Thánh Thần dẫn đi bốn bước:
Ä
Tin
vào gía trị ơn cứu độ.
Ä
Sống
niềm tin.
Ä
Sóng
gío của niềm tin.
Ä
Tin
rằng người Kitô hữu cao cả hơn ông Gioan Bt.
I- TIN VÀO GÍA
TRỊ ƠN CỨU ĐỘ.
Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc I đã
loan báo hiệu quả về ngày Thiên Chúa ra tay cứu độ nhờ Đức Kitô Giêsu thực hiện
– làm ứng nghiệm –trong Hội Thánh Ngài.
1.
Đức Giêsu biến dữ
ra lành, chết ra sống.
Ngài làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Vui
lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang (sào huyệt của ác
thần, chỉ có sự chết), hãy mừng rỡ trổ
bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò” (Is
35, 1).
Thực vậy, chính Đức Giêsu đã làm cho
con gái ông Giairô lên 12 tuổi vừa mới chết được sống lại (x. Mc 5, 21t); hoặc
con trai bà góa thành Naim, mới chết trong ngày, người ta đang khiêng đi chôn, Đức
Giêsu cũng cho anh chỗi dậy (x. Lc 7, 11t); đặc biệt anh Ladarô, dù chết thối
bốn ngày cũng được Ngài cho phục sinh. Do đó Ngài đã nói với Mátta – chị của
ông Ladarô: “Bất cứ ai tin vào Thầy, thì
dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải
chết” (Ga 11, 25-26). Thực ra ba lần Đức Giêsu cho người chết sống lại như
thế, đó mới là dấu chỉ sự phục sinh vào ngày cánh chung mà Chúa sẽ thực hiện nơi
mọi kẻ tin vào Ngài.
2.
Đức Giêsu
là sức mạnh của ta:
“Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ
kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng. Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai
tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo. Nhưng những người cậy trông Đức Chúa thì được
thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và
đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40, 29-31).
Thực vậy, chính Đức Giêsu đã lớn
tiếng kêu gọi: “Hỡi tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”
(Mt 11, 28). Ai được Đức Giêsu trợ giúp đều nói được như thánh Phaolô: “Tôi có sức chịu đựng mọi sự trong Đấng ban
sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Và có quyền động viên mọi người: “Mọi âu lo, anh em hãy trút cả cho Chúa, vì
Ngài chăm sóc anh em” (1Pr 5, 7).
3.
Chỉ có Đức
Giêsu mới làm cho ta hết mọi sợ hãi. Đúng như lời ngôn sứ Isaia thúc bách kẻ bạc nhược: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em
đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính
Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4: Bài đọc I).
Thực vậy, chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh
mới có quyền nói với các môn đệ: “Nơi thế
gian, anh em sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững tâm, đừng sợ, Ta đã thắng thế
gian!” (Ga 16, 33).
Đọc lại lịch sử của Hội Thánh thời
sơ khai trong sách Tông Đồ Công Vụ, các Tông Đồ bị ra tù vào khám, bị đánh đòn,
bị ném đá như cơm bữa, có lần ông Phaolô bị ném đá, người ta tưởng đã chết, nên
lôi xác ông vất bỏ ngoài thành! Thế mà khi hồi tỉnh, ông càng hân hoan tiếp tục
lên đường truyền giảng Tin Mừng (x. Cv 14).
4.
Đặc biệt
nhất là chỉ nhờ Đức Giêsu mà mọi hối nhân được ơn tha tội
Ông Gioan Bt sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng giải phóng người công chính thoát ách thống trị
của bạo lực không?” (Mt 11, 2-3: Tin Mừng). Đức Giêsu cho họ thấy trước mắt
việc Ngài làm: “Mù được thấy, què bước đi,
cùi được thanh sạch, điếc được nghe, chết sống lại, kẻ nghèo được đón nhận Tin
Mừng”, tức là Ngài đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia (Is 35, 5-6. 10: Bài
đọc I). Đối với quan niệm của người Do Thái: người được chữa lành bệnh phải
hiểu là được Chúa tha tội (x. Mc 2, 1-12; Ga 9). Đức Giêsu bảo các môn đệ ông
Gioan sai đến: “Hãy về thuật lại cho ông
Gioan những điều mắt thấy tai nghe như thế. Và phúc cho ai không vấp ngã vì tôi!”
(x. Mt 11, 4-6: Tin Mừng). Để mọi người xác tín rằng: Đức Giêsu chính là Đấng
Mêsia mà các ngôn sứ đã loan báo, Ngài không đến diệt kẻ ác, mà Ngài muốn cứu nó,
nếu chúng biết sám hối tội, xin Ngài thương xót. Vậy “lạy Chúa, xin đến cứu chúng con” (Is 35, 4: Đáp ca).
II- SỐNG NIỀM TIN NHƯ ÔNG GIOAN
TẨY GIẢ.
Hội Thánh muốn ta noi gương đời sống
Đức Tin của ông Gioan Bt:
1. Sống khiêm
nhường.
Vì ông không tìm
vinh quang cho mình mà chỉ lo làm vinh danh Chúa Giêsu, như lời ông nói: “Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại”
(Ga 3, 30).
2. Sống cương
trực.
Dù ông Gioan
biết vua Hêrôđê là kẻ gian ác, đến nỗi ông giết cả vợ con chỉ vì nghe tin đồn
rằng họ đang bày mưu tính kế tiếm quyền ông! Thế mà ông Gioan lại dám vào thẳng
cung điện vua để ngăn cản ông ta không được cướp vợ của anh mình, dù ông Gioan
biết rằng vua Hêrôđê sẽ không tha mạng cho! (x. Mt 14, 3-12)
Như thế ông Gioan
rất xứng đáng được Đức Giêsu khen: “Ông không
như cây sậy rung trước gío” (Mt 11, 7b: Tin Mừng), tức là ông không khoan
nhượng cho ai phạm tội, không thỏa hiệp với bạo chúa để được sống, cũng không sống
kiểu: gío chiều nào ngả theo chiều đó, để ton hót nịnh bợ, luồn cúi, kiếm chác
danh vọng đời này!
3. Sống đơn
giản.
Ông Gioan Tẩy
Giả tuy là con một gia đình tư tế giàu có ở Giêrusalem, nhưng ông sống rất đơn
giản:
- “Mặc
áo lông da thú”: Ông muốn minh chứng mình là người được Chúa thương, đúng với
tên Gioan, tên mà thiên thần đã ra lệnh cho cha mẹ ông đặt cho (x. Lc 1, 13). Như
thuở xưa Chúa thương Adam, Eva, Ngài may áo da thú mặc cho họ (x. St 3, 21).
- “Ăn
châu chấu và mật ong rừng” (Mt 3, 4). Mật ong rừng đó là nước nho khô hay
nhựa cây tây hà liễu (tamaris). Ông sống nghèo như thế để biểu lộ Chúa thương
ông hơn ngôn sứ Êlya, vì lòng nhiệt thành đối với sứ mệnh Chúa trao, để bảo vệ danh
Giavê, ngôn sứ Êlya đã sát hại các tư tế của nhà vua đang tế lễ thần Baal trên
núi Carmel, nên bị vua rượt bắt, ông vội chạy trốn, Chúa sai thiên thần đưa
chiếc bánh lùi và chóe nước cho ông dùng, lương thực đơn giản thế thôi, để có
sức tiếp tục lên đường (x. 1V 19, 1-8).
Mặt khác, những
nhu cầu đời sống ông rất đơn giản như vậy, là để nêu gương chia sẻ như lời ông
kêu gọi mọi người: “Ai có hai áo hãy chia
cho người không có, và ai có của ăn cũng hãy làm như vậy” (Lc 3, 10-11).
Bởi thế ông
Gioan đáng được Đức Giêsu khen trước mặt mọi người: “Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì
anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết,
đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép
rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
"Tôi nói thật với anh em: trong số
phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. ”
(Mt 11, 8b-11a: Tin Mừng).
Vậy có sống
khiêm nhường, cương trực, nhu cầu đơn giản như ông Gioan Bt mới xứng danh là
ngôn sứ của Chúa, để được: “Thần Khí Chúa
ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Is 61, 1: Tung
Hô Tin Mừng).
III- SÓNG GIÓ CỦA NIỀM TIN.
Khai mào thời Tân Ước, chỉ có ông Gioan
là người được biết về Đức Giêsu hơn ai hết, nhưng sự hiểu biết của ông vẫn còn bị
giới hạn dưới cái nhìn theo cá tính, vì ông thích dựa vào lời ngôn sứ Malaki tiên
báo về sứ mệnh Đấng Cứu Thế: “Ai chịu nổi
ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của
thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc;
Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc. Bấy giờ,
đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính”
(Ml 3, 2-3).
Do đó, khi ông Gioan giới thiệu Đức
Giêsu cho người khác, ông dựa vào lời ngôn sứ Malaki đã loan báo mà đe dọa dân:
“Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây
nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tay Người cầm nia, Người
sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào
lửa không hề tắt mà đốt đi. ” (Mt 3, 10. 12)
Nhưng khi ông Gioan đụng chạm vào
thực tế: bị vua Hêrôđê nhốt trong tù. Rõ ràng Hêrôđê mới chính là cây không
trái, lại không bị diệt, mà hắn lại sắp chém đầu ông, làm ông hốt hoảng, nên sai
các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có
phải là Đấng phải đến (như lời tôi loan báo), hay tôi phải đợi Đấng khác?”
(Mt 11, 3: Tin Mừng). Hỏi như thế với hàm ý: Tôi đã giới thiệu Ngài như ngôn sứ
Malaki báo trước: Ngài không khoan nhượng kẻ ác, tại sao Ngài không diệt kẻ ác
để cứu tôi là người bị áp bức?!
Như vậy là ông Gioan đã không đọc
hết các lời ngôn sứ đã nói về Đấng Mêsia, hay ông chỉ thích dựa Lời Sách Thánh
nào hợp với tính tình nóng bỏng của ông! Nhưng Đức Giêsu muốn mọi người phải
biết rằng: Dù Ngài có là Đấng Phán Xét như ngôn sứ Malaki đã loan báo, thì Ngài
chỉ phán xét Satan, khai trừ tội lỗi khỏi lòng người. Nhưng Ngài còn là Đấng
nhân từ: “Tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim
bằng. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng
trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không
trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa
thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta
đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (Tv 103/102, 3a-5. 8-12)
Bởi thế “dầu tội con có đỏ son, cũng ra trắng như
tuyết, có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1, 18). Lòng nhân
từ này được Đức Giêsu thể hiện nơi các bệnh nhân: Ngài làm cho họ lành mạnh là
dấu Ngài tha tội, Ngài lấy chứng từ này mà bảo các môn đệ của ông Gioan: “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những
điều mắt thấy tai nghe… phúc thay người
nào không vấp ngã vì tôi. ” (x. Mt 11, 2-6: Tin Mừng).
Rõ ràng ông Gioan chưa biết trọn vẹn
về Đấng Cứu Thế! Bởi đó ông đã khiêm tốn, hai lần thốt lên lời: “Phần tôi, tôi chưa biết Ngài” (Ga 1, 31.
33). Nghĩa là không ai diễn tả trọn vẹn về Đức Giêsu được, ai có nói về Ngài
thì cũng chỉ như những người mù tả về con voi: Anh rờ tai thì nói voi như cái
quạt, kẻ rờ chân, thì tả voi như cây cột… Nhưng dầu sao, ông Gioan Bt khi gặp
đau khổ, ông mới đi tìm hiểu thêm về Đấng Mêsia, đó cũng là điều chúng ta phải
bắt chước ông.
Vậy từ chuyện Đức Tin của ông Gioan
Bt bị chao đảo, ta rút ra bốn hệ luận:
-
Khi
gặp khổ mới đi tìm Chúa, để bồi dưỡng Đức Tin.
-
Không
ai nắm trọn được Giáo Lý của Chúa, nên suốt đời phải liên tục học hỏi nơi nhiều
người, đặc biệt nơi các chủ chăn trong Hội Thánh.
-
Đừng
chỉ chọn học thuộc những câu Kinh Thánh mình ưa thích, mà càng học được nhiều
thì Đức Tin càng vững vàng.
-
Đừng
hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen, hoặc đừng chỉ mong Chúa cất hết mọi đau khổ, mới
tin là được Chúa thương.
IV- NGƯỜI KITÔ HỮU CAO CẢ HƠN ÔNG
GIOAN TẨY GIẢ.
Đức Giêsu nói: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông
Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ hơn trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”
(Mt 11, 11).
Lời xác định trên Đức Giêsu có ý so
sánh ông Gioan Tẩy Giả với người Công Giáo:
A. SỞ DĨ GIOAN TẨY GIẢ CAO TRỌNG
NHẤT TRONG NHỮNG NGƯỜI DO NGƯỜI NỮ SINH RA, là vì từ thời Adam, Eva và chắc chắn cho
đến ngày cánh chung, không một người nào có mặt trên trái đất này giống Đức Giêsu
về cuộc sống trên dương thế như ông Gioan. Thực vậy, giữa Đức Giêsu và ông
Gioan từ lúc sinh vào đời cho đến lúc chết, có nhiều điểm tương đồng rất sít
sao, mà trong nhân loại không ai có được.
1-
Cả
Gioan, cả Đức Giêsu trước khi được thụ thai trong lòng mẹ đều do Thiên thần Gabriel báo tin (x. Lc 1, 19 = Lc 1, 26).
2-
Cả
Gioan, cả Đức Giêsu đều sinh ra từ
đôi vợ chồng khác thường:
Cha mẹ của Gioan đã gần 100 tuổi mà chưa có con, thế mà ông Dacarya lại được
thiên thần báo tin cho biết: Vợ chồng ông sẽ sinh con; cũng thế, Đức Giêsu được
sinh ra trong một gia đình mà vợ chồng không ăn ở với nhau (x. Lc 1, 7 = Lc 1, 34)
, vì chỉ có ông Giuse sống hướng về cánh chung: “Có vợ mà kể như không có” (1 Cr 7, 29).
3-
Tên
Gioan và tên Đức Giêsu đều được thiên
thần bảo cha mẹ phải đặt con mình như thế (x. Lc 1, 13 = Lc 1, 31).
4-
Thân
thế ông Gioan và Đức Giêsu đều thuộc
dòng tộc giàu có:
Gioan là con vị tư tế ở thành Giêrusalem; Đức Giêsu là Con của Cha trên trời, thế
mà cả hai Vị sinh ra trong cảnh nghèo: Gioan sinh ra được nuôi dưỡng trong sa
mạc (x. Lc 1, 80); Đức Giêsu sinh ra thì mẹ Ngài lấy tã bọc đặt nằm trong máng
cỏ (x. Lc 2, 7).
5-
Ông
Gioan và Đức Giêsu đều thống nhất
chương trình hành động.
Do đó cả hai Vị đều mở đầu sứ mệnh bằng công thức: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (x. Mt 3, 2 = Mt 4, 17).
6-
Sứ
điệp Tin Mừng của ông Gioan và của Đức Giêsu đều nóng bỏng và dứt khoát, không
khoan nhượng
cho những kẻ bất lương, nhất là những kẻ không tin Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy
nhất (x. Cv 4, 12). Cụ thể:
-
Ông
Gioan nói với mọi người: “Cái rìu đã để
sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái thì bị chặt quăng vào lò lửa” (Mt 3, 10).
Có nghĩa là ngay hôm nay ai không tin vào Chúa Giêsu để làm việc tốt, thì phải
diệt ngay.
-
Còn
Đức Giêsu nhìn cây vả lớn, lá sum suê, Ngài đến tìm quả mà không có, dù lúc ấy
không phải là mùa trái vả, mà ngài lại lên tiếng trách nó: “Không bao giờ Ta ăn trái mày nữa!” Sáng
hôm sau, các môn đệ đi ngang qua thấy cây vả đã chết khô từ ngọn đến rễ (x. Mt
21, 18-19): Cây vả lớn là dấu chỉ những người được Thiên Chúa nuôi dưỡng và
giáo dục mà hôm nay không trở nên người công chính, nhờ tin vào Chúa Giêsu (x. Gl
2, 16), thì kẻ đó không thể được cứu độ.
7-
Ông
Gioan và Đức Giêsu đều động viên
người ta chia sẻ:
-
Ông
Gioan nói: “Ai có hai áo hãy chia cho
người không có một cái, và ai có của ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc 3, 11).
-
Chúa
Giêsu dạy: “Cho thì có phúc hơn là lấy”
(Cv 20, 35)
8-
Ông
Gioan và Đức Giêsu đều chết vì chân
lý:
-
Ông
Gioan dám lên tiếng trách vua Hêrôđê không được cướp vợ anh mình, do đó ông bị
cắt đầu (x. Mt 14, 3t).
-
Đức
Giêsu lên tiếng khiển trách những đầu mục Do Thái sống Đạo hình thức: Giả bộ
đọc kinh dài để nuốt chửng tài sản bà góa, làm cho người tân tòng thành con cái
Hỏa ngục gấp đôi mình, lại còn ngăn cản những ai muốn vào Nước Trời (x. Mt 23).
Do đó Ngài bị treo trên thập giá (x. Mt 27, 23t).
B. KẺ NHỎ TRONG
NƯỚC TRỜI CÒN CAO TRỌNG HƠN ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
C
Thuật ngữ “kẻ nhỏ” trong Tân Ước luôn luôn chỉ về những người thuộc Hội Thánh, những
người được Chúa Giêsu cứu độ. Thực vậy, các Tông Đồ là những người lớn tuổi, mà
Đức Giêsu đòi hỏi họ phải trở nên trẻ nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt
18, 3); Ngài nói với các môn đệ: “Hỡi các
con thơ bé, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi” (Ga 13, 33a); cũng
như Ngài nói: “Đừng sợ, hỡi đoàn chiên
nhỏ bé, vì Cha chúng con đã khấng ban Nước Trời cho chúng con” (Lc 12, 32).
C
Các thư của thánh Gioan viết cho các giáo đoàn có nhiều người lớn tuổi, thế mà
ông luôn luôn gọi họ là: “Hỡi các con thơ
bé” (x. 1Ga 2, 1. 12. 14. 18. 28).
Vậy “kẻ nhỏ trong Nước Trời lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả”, chính là người
Công Giáo sau khi đã lãnh Bí Tích Khai Tâm, họ hơn ông Gioan những điểm sau:
1. Ông Gioan chỉ
là chú phù rể đối với Đức Giêsu (x. Ga 3, 29); trong khi đó người Công Giáo được gọi là Hiền Thê của
Chúa Giêsu, khởi đi từ Bí Tích Thánh Tẩy (x. 2Cr 11, 2).
2. Ông Gioan sinh
ra bởi dòng giống Adam, Eva, thua xa người Công Giáo được tái sinh bởi Adam cuối
cùng là Chúa Giêsu (x. Cv 2, 38). Bởi thế Kinh Thánh nói: “Đấng tác thánh và những người được thánh hóa cùng một nguồn gốc, cùng
một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Ba Ngôi, đến nỗi được đồng hóa với
Chúa Giêsu ” (Dt 2, 11; Ga 6, 57; Gl 2, 20).
3. Ông Gioan so
với Đức Giêsu không đáng giá gì, nên ba lần ông nói: “Tôi không phải
là Đấng Kitô, tôi không phải là Êlya, tôi không phải là một ngôn sứ”, như
người ta đã tưởng lầm ông là thế, ông Gioan chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, và
ông tuyên bố: “Đấng đến sau tôi (Đức Giêsu),
trổi vượt hơn tôi, tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1, 20-27).
Như vậy, Đức Giêsu là Số Một, ba lần không
của ông Gioan đứng sau Số Một trở thành số ngàn. Rõ ràng nếu không có số một, thì
cả tỷ zéro cũng là zéro, nhưng nhờ số một mà zéro trở nên giá trị gấp mười! Và
người Công Giáo lại còn được đồng hóa với Chúa Giêsu về nguồn gốc, về xương
thịt, về sự sống (x. Gl 2, 20; Dt 2, 11; Ga 6, 57). Bởi thế người Công Giáo còn
hơn ông Gioan gấp mười lần, đến nỗi Chúa Giêsu về Trời làm cho ai tin vào Ngài,
thì chẳng những làm được như Ngài mà còn hơn nữa (x. Ga 14, 12). Cụ thể cả cuộc
đời Đức Giêsu phục vụ đến chết, mới đưa một anh trộm lành vào Thiên Đàng; còn
người Công Giáo mỗi khi đi dự Lễ, hiệp thông với Hội Thánh cầu nguyện cho những
người đã qua đời, thì biết bao linh hồn được về Thiên Đàng; hoặc Chúa Giêsu
không lập một giáo đoàn nào, trong khi đó ông Phaolô khai sinh được rất nhiều
giáo đoàn…
Mặc dù ta được cao cả hơn ông Gioan
Bt, nhưng chỉ được thấy rõ trong ngày cánh chung. Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa;nhưng
chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức
Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ
thấy Người như vậy. ” (1Ga 3, 2). Bởi đó thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải
trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong
nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi?Nhưng nếu chúng ta trông mong
điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ” (Rm 8, 24-25).
Vì những lý do trên tưởng rằng người
Công Giáo phải mừng ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy mới chính là ngày sinh nhật của
mình được sinh ra trong Chúa Giêsu, và đã được thanh tẩy tinh tuyền. Còn ngày
sinh nhật bởi cha mẹ trần thế, chỉ thuộc dòng giống Adam bị chúc dữ, vì “từ trong lòng mẹ tôi đã là kẻ bất lương”
(Tv 51/50, 7). Bởi thế, lời kinh “tạ ơn
Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng” (Tv 139/138, 14a), chỉ thích hợp cho
người Công Giáo.
THUỘC LÒNG.
Chúa ban sức mạnh cho người mệt mỏi, vì trẻ trung còn nghiêng
ngửa bổ nhào, nhưng ai trông cậy nơi Chúa, họ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, để
tung cánh như phượng hoàng, họ đi mà không biết mỏi, chạy mà không biết mệt! (Is 40, 29-31)
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh