Tháng Tám vừa qua, Linh Mục Antonio
Spadaro, Dòng Tên, chủ bút tạp chí La Civiltà Cattolica của Dòng này tại Ý, đã
tiến hành cuộc phỏng vấn độc quyền Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Casa Santa Marta,
nơi cư ngụ hiện nay ngài.
Cuộc phỏng
vấn này được thực hiện nhân danh tờ La Civiltá Cattolica, tờ America và một số tập san của Dòng
Tên khắp thế giới. Ban biên tập của mỗi tạp chí này gửi tới Cha Sparado các câu
hỏi của họ. Cha Sparado tổng hợp và sắp xếp các câu hỏi này và tiến hành cuộc
phỏng vấn bằng tiếng Ý. Sau khi được chính thức chấp thuận, văn bản cuộc phỏng
vấn đã được tạp chí America
chuyển qua tiếng Anh. Nội dung bài viết của Vietcatholic dựa trên bản tiếng Anh
này.
Cha
Sparado khởi đầu bài tường trình cuộc phỏng vấn của ngài bằng cách mô tả nơi Đức
Giáo Hoàng hiện đang cư ngụ. Khung cảnh hoàn toàn đơn giản và khắc khổ. Chỗ làm
việc của ngài khá nhỏ, chung quanh chiếc bàn giấy. Cha Sparado có ấn tượng mạnh
không chỉ vì nét đơn giản của bàn ghế mà cả các vật dụng khác trong căn phòng nữa:
chúng rất ít. Bao gồm ảnh Thánh Phanxicô, tượng Đức Mẹ Luján, quan thầy Á Căn
Đình, tượng chịu nạn và tượng Thánh Giuse đang an giấc. Nền linh đạo của Jorge
Mario Bergoglio không được tạo nên bằng “các năng lực hoà hợp” như ngài quen
nói, mà bằng những khuôn mặt người: Chúa Kitô, Thánh Phanxicô, Thánh Giuse, và
Đức Mẹ.
Đức Giáo
Hoàng nói tới chuyến tông du Ba Tây. Ngài coi đó là một hồng ân thực sự, Ngày
Giới Trẻ Thế Giới đối với ngài là một “huyền nhiệm”. Ngài cho hay ngài không
quen nói chuyện với nhiều người đến thế: “Tôi có thể nhìn những con người cá thể,
từng người một, để tiếp xúc một cách bản vị với người ở trước mặt tôi. Tôi
không quen với đám đông”. Đức Giáo Hoàng nói thế. Ngài cũng nói tới thời điểm
trong cơ mật viện bầu giáo hoàng khi ngài bỗng hiểu ra ngài có thể được bầu làm
giáo hoàng. Giờ ăn trưa vào thứ Tư, 13 tháng Ba, ngài cảm thấy một niềm thanh
thản và an ủi nội tâm sâu xa và khó giải thích tràn ngập tâm hồn ngài, nhưng đồng
thời cũng là một bóng tối trùm phủ. Các cảm nhận này cứ theo đuổi ngài hoài cho
tận lúc ngài được bầu vào chiều hôm đó.
Trước đó,
ngài cho biết khó khăn lớn của ngài trong việc chấp nhận phỏng vấn. Ngài nói rằng
ngài thích suy nghĩ hơn là đưa ra câu trả lời tại chỗ ngay trong các cuộc phỏng
vấn. Trong cuộc phỏng vấn này, nhiều lần Đức Giáo Hoàng tạm ngưng điều ngài
đang trả lời một câu hỏi để thêm một điều gì đó vào câu trả lời trước đó. Việc
ghi chép lời của ngài, vì thế, mang lại cho Cha Sparado cảm giác khó chịu vì cứ
phải cố gắng hãm dẹp nguồn cảm hứng đối thoại.
Jorge Mario Bergoglio là ai?
Cha
Sparado đặt câu hỏi huỵch toẹt với Đức Phanxicô: “Jorge Mario Bergoglio là ai?” Ngài im
lặng nhìn trừng trừng vào cha. Cha hỏi ngài xem cha có thể hỏi câu hỏi đó hay
không. Ngài gật đầu và trả lời: “Tôi không biết đâu mới là câu mô tả xứng hợp
nhất. . . Tôi là kẻ tội lỗi. Đây là định nghĩa chính xác nhất. Không phải là
văn vẻ hoa mỹ, văn chương. Tôi là kẻ tội lỗi”.
Đức Giáo
Hoàng tiếp tục suy nghĩ và tập trung, như thể ngài không chờ câu hỏi này, như
thể ngài buộc phải suy nghĩ thêm. “Đúng, có lẽ tôi có thể nói thế này tôi có
hơi lanh trí một chút, tôi có thể thích ứng với hoàn cảnh, nhưng cũng đúng là
tôi có hơi ngây thơ. Đúng, nhưng điều tóm tắt hay hơn cả, điều phát xuất từ bên
trong hơn cả, và là điều tôi cảm thấy đúng hơn cả là: tôi là kẻ tội lỗi mà Chúa
đã đoái nhìn”. Rồi ngài nhắc lại: “Tôi là kẻ được Chúa đoái nhìn. Tôi luôn cảm
nhận khẩu hiệu của tôi Miserando atque Eligendo [xót thương và tuyển chọn], thật
chân thực đối với tôi”.
Khẩu hiệu
này lấy từ Các Bài Giảng của Thánh Bede Đáng Kính, người đã viết như thế trong
bài chú giải câu truyện Chúa chọn Mátthêu trong Tin Mừng: “Chúa Giêsu thấy người
thu thuế, và vì Người nhìn ông với những tâm tình yêu thương và quyết định chọn
ông, nên Người nói với ông, ‘hãy theo Ta’”. Đức Giáo Hoàng nói thêm: “tôi nghĩ
thể danh động từ (gerund) miserando của La Tinh khó có thể dịch qua cả tiếng Ý
lẫn tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch chữ này bằng một danh động từ khác vốn
không có là misericordiando [“tỏ dạ xót thương”].
"Việc Kêu Gọi Thánh Mátthêu" của
Caravaggio
Đức Giáo
Hoàng Phanxicô tiếp tục các suy nghĩ của ngài rồi nói bằng cách nhẩy qua chủ đề
khác: “tôi không biết Rôma bao nhiêu. Tôi biết ít điều lắm. Trong những điều
này có Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả; tôi thường luôn tới đó. Hiện nay, tôi
biết Nhà Thờ Đức Bà Cả, Nhà Thờ Thánh Phêrô. . . nhưng trước đây, khi phải tới
Rôma, tôi luôn cư ngụ ở [khu] Via della Scrof. Từ khu đó, tôi thường đi viếng
Nhà Thờ Thánh Louis Vua Nước Pháp, và tôi tới đó để chiêm ngưỡng bức tranh ‘Việc
Kêu Gọi Thánh Mátthêu’ của Caravaggio.
“Ngón
tay Chúa Giêsu đó chỉ thẳng vào Mátthêu. Chính là tôi. Tôi cảm thấy giống ngài.
Giống Mátthêu”. Lúc này, Đức Giáo Hoàng trở nên cương quyết hẳn ra, như thể cuối
cùng ngài đã tìm được hình ảnh hằng mong chờ: “Chính cử chỉ của Mátthêu làm tôi
chú ý: ngài giữ chặt lấy túi tiền, như thể muốn nói: ‘Không, không phải con!
Không, tiền này mới là của con’. Đó, tôi đó, một kẻ tội lỗi mà Chúa đã ghé mắt
trông đến. Và đó là điều tôi đã nói ra khi người ta hỏi xem tôi có chấp nhận việc
bầu tôi làm giáo hoàng hay không”. Rồi Đức Giáo Hoàng thủ thỉ bằng tiếng La
Tinh: “tôi là kẻ có tội, nhưng tôi tin tưởng vào lòng thương xót và nhẫn nại vô
hạn của Chúa Giêsu Kitô, và tôi chấp nhận trong tinh thần sám hối”.
Tại sao trở thành tu sĩ Dòng Tên?
Cha
Sparado tiếp tục: “Thưa Đức Thánh Cha, điều gì khiến ngài quyết
định gia nhập Dòng Chúa Giêsu? Điều gì khiến ngài chú ý tới Dòng Tên?”.
“Tôi muốn
một điều gì đó hơn nữa. Nhưng không biết nó là điều gì. Tôi nhập chủng viện của
giáo phận. Tôi thích Dòng Đa Minh và có khá nhiều bạn bè Đa Minh. Nhưng rồi, tôi
chọn Dòng Chúa Giêsu, mà tôi biết khá rõ vì chủng viện vốn được trao phó cho
Dòng Tên. Có ba điều đặc biệt khiến tôi lưu ý tới Dòng
này: tinh thần truyền giáo, cộng đoàn và kỷ luật. Và điều
đó thật lạ, bởi vì tôi thực sự, vâng, thực sự là một người vô kỷ luật. Nhưng kỷ
luật của họ, cách họ xử lý thời gian, những điều này làm tôi lưu ý rất nhiều.
“Và rồi điều này mới thực sự quan trọng đối với
tôi: cộng đoàn. Tôi luôn luôn tìm kiếm một cộng đoàn. Tôi
không coi tôi như một linh mục ‘tự mình ên’. Tôi cần một cộng đoàn. Và cha có
thể biết điều này do sự kiện tôi ở đây, ở Santa
Marta này. Trong thời gian cơ mật viện bầu giáo hoàng,
tôi ở Phòng 207. (Các phòng được bốc thăm). Căn phòng hiện chúng ta đang ngồi vốn
là phòng dành cho khách. Tôi chọn sống ở đây, ở Phòng 201, vì khi tôi nhận căn
hộ vốn dành cho giáo hoàng, tôi nghe mồn một tiếng “không” phát lên tự trong
mình. Căn hộ dành cho giáo hoàng trong Tông Điện không sang trọng gì. Nó rất cũ,
tuy trang trí đẹp đẽ và rộng rãi, nhưng không xa xỉ chi. Nhưng xét cho cùng, nó
giống như chiếc phễu lộn ngược. Tuy rộng và khoảng khoát, nhưng lối vào lại hết
sức hẹp. Người ta chỉ có thể vào đó một cách nhỏ giọt, mà tôi thì lại không thể
sống thiếu người ta. Tôi cần sống cuộc sống của mình với người khác.
Có ý nghĩa gì khi một tu sĩ Dòng Tên làm Giám Mục
Rôma?
Cha
Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự kiện ngài là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên
được bầu làm Giám Mục Rôma: “Đức Thánh Cha hiểu như thế nào về vai trò phục
vụ Giáo Hội hoàn vũ, mà ngài được mời gọi thủ diễn, dưới ánh sáng linh đạo
Inhã? Có ý nghĩa gì khi một tu sĩ Dòng Tên được bầu làm giáo hoàng? Yếu tố nào
trong linh đạo Inhã giúp ngài chu toàn thừa tác vụ của mình?”
Đức Giáo
Hoàng trả lời: “Biện phân. Biện phân là một trong những điều
thành công của Thánh Inhã. Đối với ngài, nó là khí cụ chiến đấu để nhận biết
Chúa và theo chân Người sát nút. Tôi luôn
thán phục câu nói vốn mô tả được viễn kiến của Thánh Inhã: non coerceri a
maximo, sed contineri a minimo divinum est (“không bị giới hạn bởi điều lớn nhất,
nhưng lại bị nén lại trong điều nhỏ nhất, đó là thần linh”). Tôi suy nghĩ nhiều
về câu nói này liên quan tới vấn đề các vai trò khác nhau trong việc cai quản
Giáo Hội, liên quan tới việc trở thành bề trên của người khác: điều quan trọng
là không bị hạn chế bởi không gian lớn hơn, và quan trọng là có khả năng sống
trong các không gian nhỏ hẹp. Nhân đức lớn nhỏ này chính là lòng hào hiệp
(magnanimity). Nhờ lòng hào hiệp, ta luôn thấy được chân trời từ chỗ mình đứng.
Nghĩa là có khả năng làm những điều nhỏ bé hằng ngày với một trái tim to lớn mở
sẵn cho Thiên Chúa và người khác. Nghĩa là có khả năng quí chuộng những điều nhỏ
nhặt ngay bên trong những chân trời bao la, những chân trời của Nước Thiên Chúa.
Đức Giáo
Hoàng nói tiếp “Khẩu hiệu này giúp ta các thông số để chọn được một chủ trương
đúng cho biện phân, hòng nghe được những điều thuộc về Chúa từ chính ‘quan
điểm” của Người. Theo
Thánh Inhã, các nguyên tắc lớn phải được hội nhập vào hoàn cảnh không gian, thời
gian và con người. Đức Gioan XXIII, theo cung cách riêng, đã thích ứng thái độ
của ngài đối với việc cai quản Giáo Hội, khi nhắc lại khẩu hiệu, ‘Nhìn mọi sự;
phớt lờ phần lớn; sửa sai chút đỉnh’. Đức Gioan XXIII đã thấy đủ điều, đó là
chiều kích tối đa, nhưng ngài quyết định sửa sai chút đỉnh, đây là chiều kích tối
thiểu. Cha có thể có những dự án lớn lao và thi hành các dự án này nhờ dùng một
ít những điều bé nhỏ nhất. Hoặc cha có thể dùng những phương tiện yếu nhưng lại
hữu hiệu hơn những phương tiện mạnh, như chính Thánh Phaolô đã nói trong thư thứ
nhất gửi tín hữu Côrintô.
“Việc biện phân này cần thời gian. Thí dụ, nhiều
người nghĩ rằng thay đổi và cải tổ có thể diễn ra trong đoản kỳ. Tôi tin rằng ta luôn cần thời gian để đặt nền
cho một thay đổi có thực chất, có hiệu quả. Và đây
là thời gian để biện phân. Đôi khi biện phân lại thúc đẩy ta làm điều mà thoạt
đầu ta nghĩ mình sẽ làm sau này. Và đó là điều đã xẩy ra với tôi trong những
tháng vừa qua. Biện phân luôn được thực hiện trước mặt Chúa, bằng cách nhìn các
dấu chỉ, lắng nghe những điều xẩy tới, cảm nhận của người ta, nhất là người
nghèo. Các quyết định của tôi, trong đó, có các quyết định liên quan tới các
khía cạnh thường nhật của cuộc sống, như việc sử dụng chiếc xe khiêm tốn, đều
liên quan tới việc biện phân thiêng liêng nhằm đáp ứng một nhu cầu phát sinh từ
việc quan sát sự việc, quan sát người và từ việc đọc các dấu chỉ thời đại. Biện
phân trong Chúa hướng dẫn tôi trong cách thế cai quản.
“Nhưng
tôi luôn lo lắng trước các quyết định vội vàng. Tôi luôn lo lắng trước các quyết
định lần đầu, nghĩa là những việc đầu tiên xuất hiện trong trí óc tôi khi tôi
phải đưa ra quyết định. Thông thường điều ấy hay sai lầm lắm. Tôi phải chờ đợi
và lượng giá, nhìn sâu vào mình hơn, phải có thời gian cần thiết. Sự khôn ngoan
của biện phân luôn cứu vớt ta trong cảnh hàm hồ tất yếu của cuộc sống và giúp
ta tìm được phương thế thích đáng nhất, là những phương thế không luôn trùng hợp
với những chuyện xem ra lớn lao và mạnh mẽ”.
Dòng Chúa Giêsu
Bởi thế,
biện phân là cột trụ trong linh đạo của Đức Phanxicô. Nó đặc biệt nói lên bản sắc
Inhã của ngài. Cha Sparado, sau đó, hỏi ngài xem Dòng Chúa Giêsu có thể phục vụ Giáo Hội ngày
nay cách nào, đâu là các đặc điểm, nhưng cũng là các thách thức có thể có đối với
Dòng Chúa Giêsu.
Đức
Thánh Cha trả lời: “Dòng Chúa Giêsu là một định chế đang gặp căng
thẳng, xét về căn bản, luôn luôn căng thẳng. Tu sĩ Dòng Tên là người không tập
chú vào chính mình. Dòng luôn tìm tâm điểm ở bên ngoài mình; tâm điểm của Dòng
là Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Do đó, nếu
Dòng lấy Chúa Kitô và Giáo Hội Người làm trung tâm, thì nó có hai điểm qui chiếu
nền tảng để giữ được cân bằng và có khả năng sống ở bên lề, ở tuyến đầu. Nếu nó
quá lưu ý tới chính mình, tự đặt mình vào trung tâm như một cơ cấu kiên cố, ‘trang
bị’ cùng mình, thì nguy cơ là nó sẽ cảm thấy an ổn và tự mãn. Lúc nào, Dòng
cũng phải nhớ câu này Deus semper maior, Thiên Chúa luôn cao cả hơn, phải mưu
tìm vinh quang mỗi ngày mỗi cao cả hơn của Thiên Chúa, phải coi Giáo Hội như hiền
thê đích thực của Chúa Kitô, Chúa chúng ta, phải coi Người là vua, Đấng đã
chinh phục ta và là Đấng ta hiến trọn con người ta và trọn lao công của ta, dù
ta chỉ là bình đất, bất xứng. Sức căng này liên tục đẩy ta ra khỏi mình. Như thế,
khí cụ làm cho Dòng Chúa Giêsu không lấy mình làm trung tâm, thực sự mạnh mẽ, chính
là việc trình bày lương tâm, một việc vừa có tính phụ thân vừa có tính huynh đệ,
vì nó giúp Dòng chu toàn được sứ mệnh của mình cách tốt đẹp hơn”.
Đức
Phanxicô có ý nhắc tới đòi hỏi trong Hiến Pháp Dòng Tên buộc tu sĩ Dòng phải “bộc bạch lương tâm”, nghĩa là,
tình trạng thiêng liêng bên trong của mình, để bề trên ý thức và hiểu biết nhiều
hơn khi gửi một người đi thi hành sứ mệnh.
Ngài nói
tiếp: “Nhưng khó có thể nói về Dòng. Nói nhiều quá, cha sẽ liều mình bị hiểu
sai. Chỉ có thể mô tả Dòng Chúa Giêsu bằng hình thức thuật truyệt. Chỉ bằng
hình thức kể truyện này, cha mới có thể biện phân, chứ không phải qua lối giải
thích triết lý hay thần học, một lối giúp cha thảo luận thì đúng hơn. Phong
cách Dòng Tên không được lên khuôn nhờ thảo luận, mà nhờ biện phân, dĩ nhiên biện
phân này giả thiết trước đó phải có thảo luận như một phần của diễn trình. Chiều
kích huyền nhiệm của biện phân không bao giờ định ra góc cạnh cho nó và không kết
thúc tư duy. Tu sĩ Dòng Tên phải là một người mà tư duy luôn luôn chưa hoàn tất,
theo nghĩa một tư duy vẫn mở cửa. Trong Dòng, đã từng có những thời kỳ trong đó
tu sĩ Dòng Tên sống trong một môi trường tư duy khép kín và cứng ngắc, nặng về
khổ tu dạy dỗ hơn là huyền nhiệm: việc bóp méo cuộc sống Dòng Tên như thế đã
phát sinh ra Epitome Instituti”.
Đức Giáo
Hoàng có ý nói tới cuốn tóm lược, viết ra vì các mục đích thực tiễn, có lúc được
coi như để thay thế Hiến Pháp của Dòng. Trong một thời gian, việc huấn luyện
các tu sĩ Dòng Tên đã được hướng dẫn bởi bản văn này, đến độ, một số tu sĩ
không bao giờ đọc chính Hiến Pháp của Dòng. Theo Đức Giáo Hoàng, trong thời kỳ
này, các qui luật có nguy cơ trấn áp tinh thần, và Dòng Tên rơi vào cơn cám dỗ
muốn giải thích và định tính đặc sủng của mình một cách quá hẹp hòi.
Đức
Thánh Cha nói tiếp: “Không, tu sĩ Dòng Tên luôn luôn suy nghĩ, suy nghĩ đi
suy nghĩ lại, nhìn vào chân trời họ phải đi tới, lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Đó
mới là sức mạnh thực sự của họ. Và điều
này thúc đẩy Dòng tìm kiếm, có óc sáng tạo và đại lượng. Bởi thế, ngày nay, hơn
bao giờ hết, Dòng Chúa Giêsu phải chiêm niệm ngay trong hành động, phải sống thật
gần gũi sâu sắc với toàn thể Giáo Hội, hiểu cả như ‘dân Chúa’ lẫn như ‘mẹ thánh
Giáo Hội phẩm trật’. Điều này đòi hỏi nhiều khiêm nhường, hy sinh và can đảm, nhất
là khi cha bị hiểu lầm hay khi cha là nạn nhân của hiểu lầm và vu khống, nhưng
đó là thái độ sinh nhiều kết quả nhất. Ta hãy nghĩ tới các căng thẳng trong lịch
sử quá khứ, trong các thế kỷ trước, về cuộc tranh chấp nghi lễ Trung Hoa, nghi
lễ Malabar và phong trào Reductions tại Paraguay.
“Tôi là
nhân chứng của nhiều hiểu lầm và nan đề mà Dòng phải trải nghiệm gần đây. Trong
số đó, có những thời điểm gay cấn, nhất là đụng tới vấn đề thêm lời khấn thứ tư
cho mọi tu sĩ Dòng Tên liên quan tới việc vâng lời Đức Giáo Hoàng. Thời Cha
Arrupe (bề trên cả Dòng Tên trong các năm từ 1965 tới 1983), điều làm tôi tin
tưởng là sự kiện ngài là người của cầu nguyện, một người dành nhiều thì giờ cho
việc cầu nguyện. Tôi nhớ lúc cầu nguyện, ngài hay ngồi trên đất theo kiểu Nhật
Bản. Nhờ thế, ngài có được thái độ đúng đắn và đã đưa ra được các quyết định
đúng đắn”.
Khuôn mẫu Peter Faber, ‘vị linh mục cải cách’
Cha
Sparado tự hỏi liệu có nhân vật nào trong hàng ngũ tu sĩ Dòng Tên,
từ buổi đầu của Dòng cho tới nay, đã ảnh hưởng trên ngài một cách riêng chăng, nên
cha đã hỏi ngài những người đó là ai và tại sao.
Ngài bắt
đầu bằng việc nhắc tới Thánh Inhã thành Loyola [đấng sáng lập Dòng Tên] và
Thánh Phanxicô Xaviê, nhưng sau đó, đã tập chú vào một nhân vật rất
ít được công chúng biết đến, đó là Peter Faber (1506-46), quê ở Savoy. Ngài
là một trong các bạn đồng hành đầu tiên của Thánh Inhã, đúng ra là người bạn đầu
hết, người mà Thánh Inhã từng chung phòng lúc cả hai còn là sinh viên tại Đại Học
Paris. Người chung phòng thứ ba mới là Phanxicô Xaviê. Đức Piô IX phong chân
phúc cho Faber ngày 5 tháng Chín, năm 1872 và án phong thánh cho ngài vẫn còn để
ngỏ.
Đức Giáo
Hoàng trưng dẫn việc xuất bản các tác phẩm của Faber, việc mà ngài trao cho hai
học giả Dòng Tên là Miguel A. Fiorito và Jaime H. Amadeo lo biên tập và xuất bản
lúc còn là giám tỉnh Dòng Tên tại Á Căn Đình. Ấn bản ngài rất ưa thích là ấn bản
Michel de Certeau. Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô lý do tại sao ngài có ấn tượng như thế về
Faber.
Đức Giáo
Hoàng trả lời: “Ngài đối thoại với mọi người, cả những người
xa xôi nhất và cả những thù địch của mình; lòng đạo của ngài thật đơn sơ, có lẽ
hơi chút ngây thơ, con người của ngài sẵn sàng ngay tức khắc, ngài biện phân thận
trọng trong nội tâm, ngài thực là một con người có khả năng đưa ra các quyết định
lớn và mạnh nhưng cũng có khả năng hiền hậu và yêu thương”.
Michel
de Certeau vốn coi Faber đơn thuần như “vị linh mục cải cách”; đối vị linh mục
này, kinh nghiệm nội tâm, phát biểu tín lý và cải cách cơ cấu không thể tách biệt
khỏi nhau. Sau đó, Đức Giáo Hoàng mới tiếp tục các suy nghĩ của ngài về gương mặt
thực sự của đấng sáng lập Dòng Tên.
Ngài
nói: “Thánh Inhã
là một nhà huyền học, không phải là một nhà khổ tu. Tôi rất
khó chịu khi nghe người ta bảo Linh Thao chỉ ‘Inhã’ nhờ được thực hiện trong im
lặng. Thực ra, Linh Thao cũng vẫn hoàn toàn Inhã ngay trong cuộc sống hàng ngày
và chẳng cần im lặng chút nào. Lối giải thích Linh Thao nào nhấn mạnh tới khổ hạnh,
tới im lặng và đền tội đều là lối giải thích méo mó, có lúc khá phổ biến trong
Dòng Tên, nhất là Dòng Tên Tây Ban Nha. Tôi thì tôi gần gũi hơn với phong trào
huyền học, tức phong trào của Louis Lallement và Jean-Joseph Surin. Và Faber
cũng là một nhà huyền học. ”
Kinh nghiệm cai quản trong Giáo Hội
Loại
kinh nghiệm cai quản nào trong Giáo Hội, lúc còn làm bề trên rồi bề trên giám tỉnh
Dòng Tên, đã giúp đào luyện Cha Bergoglio một cách trọn vẹn? Phong cách cai quản
của Dòng Tên hệ ở việc bề trên phải đưa ra quyết định, sau khi đã tham khảo rộng
rãi các cố vấn chính thức của mình. Bởi thế, Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha có nghĩ rằng kinh nghiệm cai quản
của ngài trong quá khứ có thể giúp ngài trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ
hay không?”. Nghĩ một
hồi, Đức Phanxicô trả lời:
“Thành
thực mà nói, trong kinh nghiệm làm bề trên Dòng của mình, tôi không luôn luôn
hành xử kiểu đó, nghĩa là không luôn luôn thực hiện việc tham khảo cần
thiết. Và đó là điều không tốt. Phong
cách cai quản của tôi trong tư cách tu sĩ Dòng Tên, ngay từ đầu, đã mắc nhiều lầm
lỗi. Đó là thời điểm khá khó khăn đối với Dòng: trọn cả một thế hệ Dòng Tên đã
biến mất. Vì tình thế này, tôi trở thành giám tỉnh lúc còn rất trẻ. Lúc ấy tôi
mới 36 tuổi đầu. Quả là khùng. Tôi phải đương đầu với nhiều tình huống khó khăn,
trong đó phải đưa ra các quyết định chớp nhoáng và tự một mình mình. Đúng thế, nhưng
tôi phải thêm điều này: khi ủy thác cho ai điều gì, tôi hoàn toàn tin tưởng người
ấy. Người ấy phải mắc một lầm lỗi thực sự lớn lao mới khiến tôi quở trách họ. Nhưng
dù như thế, cuối cùng người ta cũng chán nản với lối độc quyền.
"Lối độc quyền và chớp nhoáng đưa ra quyết
định đã dẫn tôi tới nhiều nan đề trầm trọng và bị kết
án là siêu bảo thủ. Tôi sống vào lúc có cuộc khủng hoảng lớn trong nội bộ khi
tôi ở Cordova. Điều chắc, tôi không bao giờ giống như ‘Quan Âm’ [tạm dịch
Blessed Imelda, kiểu nói của người Á Căn Đỉnh, chỉ người cái gì cũng tốt, goody-goody],
nhưng tôi cũng không bao giờ là người cánh hữu cả. Chính cái lối độc quyền đưa
ra quyết định đã tạo ra đủ thứ nan đề.
“Tôi nói
những điều này từ kinh nghiệm sống của tôi và vì tôi muốn làm sáng tỏ điều gì
gây nguy hiểm. Với thời gian, tôi học được nhiều điều. Chúa đã giúp tôi lớn lên
trong sự hiểu biết việc cai quản nhờ các lầm lẫn và tội lỗi của tôi. Nhờ thế, lúc
làm Tổng Giám Mục Buenos Aires, tôi đều họp với 6 giám mục phụ tá mỗi hai tuần
một lần và nhiều lần khác với hội đồng linh mục. Họ hỏi nhiều câu hỏi và chúng
tôi thả dàn tranh luận. Điều này giúp tôi rất nhiều trong việc đưa ra các quyết
định tốt nhất. Nhưng nay, tôi nghe một số người cho tôi hay: ‘Đừng tham khảo
nhiều quá, cứ tự mình quyết định đi’. Nhưng thay vào đó, tôi tin rằng tham khảo
là điều hết sức quan trọng.
“Các cơ mật viện (Hồng Y), các thượng hội đồng
(giám mục), chẳng hạn, đều là những chỗ quan yếu để thực hiện việc tham khảo thực
sự và tích cực này. Tuy nhiên, ta phải đem lại cho nó một hình thức cứng rắn
hơn. Tôi không
muốn tham khảo cho có lệ, nhưng là tham khảo thực sự. Nhóm
tham vấn gồm 8 Hồng Y, tức nhóm tham vấn ‘từ bên ngoài’ này, không phải chỉ do
quyết định của riêng tôi, mà là kết quả do ý muốn của các Hồng Y, được phát biểu
trong các phiên họp toàn thể trước mật nghị bầu giáo hoàng. Và tôi muốn được thấy
đây là tham khảo thực sự, chứ không phải tham khảo cho có nghi thức”.
Suy nghĩ với Giáo Hội
Cha
Sparado hỏi Đức Phanxicô: đối với ngài, ý nghĩa chính xác của thuật ngữ “suy
nghĩ với Giáo Hội” là gì, một thuật
ngữ từng được Thánh Inhã nói tới trong Linh Thao. Dùng một hình ảnh, Đức
Phanxicô trả lời như sau:
“Hình ảnh
về Giáo Hội mà tôi rất thích là hình ảnh dân thánh và trung thành của Thiên
Chúa. Đây là định nghĩa mà tôi thường hay dùng, và rồi còn có hình ảnh khác
trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II nữa (số 12). Thuộc về
một dân tộc có giá trị mạnh về thần học. Trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa đã cứu
rỗi một dân tộc. Sẽ không có căn tính nào đầy đủ nếu không thuộc
về một dân tộc. Không ai được cứu thoát một mình, như một cá nhân đơn độc, nhưng
Thiên Chúa lôi kéo ta vào cuộc tìm kiếm một hệ thống tương quan phức hợp diễn
ra trong cộng đồng nhân bản. Chính
Thiên Chúa cũng đã bước vào mối hiệp thông năng động của mạng lưới tương quan
nhân bản này.
“Chính
dân tộc tạo nên một chủ thể. Và Giáo Hội là dân tộc của Thiên Chúa trong cuộc
hành trình xuyên qua lịch sử, với đủ mọi vui buồn của nó. Bởi thế, suy nghĩ với
Giáo Hội là cách để tôi trở nên thành phần của dân tộc này. Và mọi tín hữu, xét
như một toàn bộ, đều là vô ngộ trong các vấn đề thuộc đức tin, và dân Chúa biểu
lộ tính vô ngộ này trong lúc tin (infallibilitas in credendo) qua cảm thức siêu
nhiên nơi đức tin của một dân tộc đang cùng nhau tiến bước. Đó là điều mà ngày
nay tôi hiểu việc ‘suy nghĩ với Giáo Hội’, điều vốn được Thánh Inhã nói tới. Khi
cuộc đối thoại giữa dân với các giám mục và Đức Giáo Hoàng đi theo đường này và
chân thực, thì nó được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Do đó, việc suy nghĩ với Giáo
Hội này không phải chỉ liên quan tới các thần học gia mà thôi.
“Với Đức Mẹ cũng thế: nếu muốn biết ngài là ai,
cha nên hỏi các thần học gia; nếu muốn biết phải yêu mến ngài ra sao, cha nên hỏi
dân chúng. Ngược lại, Đức Mẹ yêu mến Chúa Giêsu bằng trái tim người dân như ta
đã đọc trong Kinh Magnificat. Cho nên, ta không nên nghĩ rằng ‘suy nghĩ với
Giáo Hội’ chỉ có nghĩa là suy nghĩ với phẩm trật của Giáo Hội”.
Dừng lại
ít giây, Đức Phanxicô nhấn mạnh tới điểm sau, để tránh hiểu lầm: “Và, dĩ nhiên,
ta phải hết sức thận trọng để đừng nghĩ rằng tính vô ngộ của mọi tín hữu mà tôi
nói tới, dưới ánh sáng Vatican II, là một hình thức của chủ nghĩa dân túy
(populism). Không phải thế; nó là trải nghiệm của ‘mẹ thánh Giáo Hội phẩm trật’
như chính Thánh Inhã đã gọi thế, một Giáo Hội hiểu như dân Chúa, với mục tử và
dân chúng với nhau”.
“Tôi thấy sự thánh thiện của dân Chúa, sự
thánh thiện hàng ngày”
Đức
Thánh Cha nói tiếp: “Có một ‘giai cấp trung lưu thánh thiện’, mà tất cả chúng
ta đều là thành phần, sự thánh thiện mà Malègue từng viết về”. Đức Giáo Hoàng
có ý nói tới Joseph Malègue, một nhà văn Pháp (1876–1940), nhất là tới bộ sách
ba cuốn còn dở dang của ông tựa là Những Hòn Đá Đen: Các Giai Cấp Trung Lưu Của
Cứu Rỗi (Black Stones: The Middle Classes of Salvation).
Ngài nói
tiếp: “Tôi thấy tính thánh thiện trong niềm kiên nhẫn của dân Chúa: người đàn
bà nuôi dưỡng con cái, người đàn ông lao nhọc đem cơm bánh về cho gia đình, các
linh mục bệnh hoạn, già nua tuy đầy thương tích nhưng vẫn nở nụ cười trên gương
mặt vì được phục vụ Chúa, các nữ tu đang lao nhọc và sống trong thánh thiện ẩn
dật. Đối với tôi, đó là sự thánh thiện chung. Tôi thường liên kết thánh thiện với
kiên nhẫn: không chỉ kiên nhẫn hiểu như hypomoné [chữ trong Tân Ước Hy Lạp], tức
làm chủ các biến cố và các hoàn cảnh trong đời, mà còn hiểu như kiên trì đi tới,
ngày lại qua ngày. Đó là sự thánh thiện của Giáo Hội chiến đấu được Thánh Inhã
nói tới. Đó là sự thánh thiện của cha mẹ tôi: bố tôi, má tôi, bà Rosa của tôi đã yêu thương tôi xiết bao. Trong cuốn sách
nguyện của mình, tôi vẫn giữ chúc thư của bà Rosa
tôi, và tôi thường đọc lại chúc thư ấy. Đối với tôi, nó giống như lời kinh cầu.
Bà là bà thánh từng chịu nhiều đau khổ, cả thiêng liêng nữa, ấy thế nhưng vẫn
can đảm tiến lên phía trước.
“Giáo Hội
này, Giáo Hội mà ta nên suy nghĩ với, vốn là nhà của mọi người, không phải là
ngôi nhà nguyện nhỏ bé chỉ chứa một nhóm người nhỏ gồm những người được tuyển
chọn. Ta đừng thu gọn lòng của Giáo Hội hoàn vũ này thành một cái tổ để bảo vệ
tính tầm thường của mình. Và Giáo Hội là Mẹ; Giáo Hội sẵn sàng sinh hoa trái. Phải
như thế. Cha thấy đấy, khi biết được tác phong tiêu cực nơi các thừa tác viên của
Giáo Hội hay nơi các tu sĩ nam nữ, điều đầu tiên nẩy ra trong tâm trí là ‘lại một
chàng độc thân vô ích’ hay ‘lại một nàng gái già’. Họ không phải là những người
cha hay những người mẹ theo nghĩa: họ không có khả năng đem lại sự sống thiêng
liêng. Thay vào đó, khi đọc tiểu sử các nhà truyền giáo Salêdiêng tại Patagonia,
chẳng hạn, tôi thấy tiểu sử ấy đầy sự sống viên mãn, đầy hoa đầy trái.
“Một điển
hình khác diễn ra mấy ngày gần đây thôi, một điển hình tôi thấy báo chí rất lưu
ý tới: tức cú điện thoại tôi gọi cho một thanh niên từng viết thư cho tôi. Tôi
gọi cho anh vì lá thư ấy đẹp lắm, đơn sơ lắm. Đối với tôi, người thanh niên này
đúng là một hành vi đầy tính sinh sản. Tôi hiểu ra rằng anh là một thanh niên
đang lớn lên, anh coi tôi như người cha, và lá thư đó kể một điều gì đó về đời
anh cho người cha này. Người cha này không thể nói ‘tao bất cần’. Vì loại hoa
trái này quá tốt đối với tôi”.
Các Giáo Hội trẻ trung và các Giáo Hội cổ xưa
Tiếp tục
chủ đề về Giáo Hội, Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng một câu dưới ánh sáng Ngày
Giới Trẻ Thế Giới vừa qua. Biến cố vĩ đại này đã hướng chú ý vào giới trẻ, nhưng
cũng làm ta chú ý tới “các lá phổi thiêng liêng” tức các Giáo Hội Công Giáo vừa
được thành lập trong lịch sử gần đây. Cha hỏi: “Đức Thánh Cha hy vọng những gì cho Giáo Hội
hoàn vũ từ các Giáo Hội này?”
Đức
Thánh Cha trả lời: “Các Giáo Hội Công Giáo trẻ trung, càng lớn lên, càng khai
triển được một tổng hợp về đức tin, văn hóa và đời sống, và như thế là một tổng
hợp khác với tổng hợp từng được các Giáo Hội cổ xưa khai triển. Đối với tôi, tương quan giữa các Giáo Hội Công Giáo cổ xưa
và các Giáo Hội trẻ trung giống như tương quan giữa người trẻ và người già
trong xã hội. Tất cả đều xây dựng tương lai, người
trẻ xây dựng bằng sức lực của họ, người già xây dựng bằng khôn ngoan của mình. Dĩ
nhiên, cha luôn gặp một số nguy cơ nào đó. Các Giáo Hội trẻ trung dễ cảm thấy
mình tự mãn; các Giáo Hội cổ xưa dễ muốn áp đặt lên các Giáo Hội trẻ trung các
mô thức văn hóa của mình. Nhưng ta đang xây dựng tương lai với nhau mà”.
Giáo Hội như một bệnh viện dã chiến
Khi
tuyên bố từ chức, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nói rằng thế giới hiện thời đang
kinh qua nhiều thay đổi nhanh chóng và đang vật lộn với các vấn đề có tầm quan
trọng lớn đối với đời sống đức tin. Đức Bênêđíctô cho rằng muốn đương đầu với
các vấn đề này, ta cần cả sức mạnh thể lý lẫn sức mạnh tinh thần. Bởi vậy, Cha
Sparado hỏi Đức Phanxicô: “Trong thời buổi lịch sử này, Giáo Hội cần điều
gì hơn cả? Chúng ta có cần cải tổ không? Đức Thánh Cha muốn những gì cho Giáo Hội
trong những năm sắp tới? Đức Thánh Cha mơ ước loại Giáo Hội nào?”
Đức
Phanxicô bắt đầu bằng việc tỏ lòng âu yếm lớn lao và tôn kính mênh mông đối với
vị tiền nhiệm: “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã làm một hành vi thánh thiện, cao cả,
và khiêm nhường. Ngài là người của Thiên Chúa.
Đức Giáo
Hoàng nói tiếp: “Tôi thấy rõ: điều Giáo Hội ngày nay cần hơn cả là khả năng
chữa lành các vết thương và sưởi ấm tâm hồn các tín hữu. Giáo Hội cần sự gần
gũi, cận kề. Tôi coi Giáo Hội như một bệnh viện dã chiến sau một trận đánh. Quả vô
ích khi hỏi người bị thương nặng có cao mỡ hay không hay độ đường trong máu là
bao nhiêu! Cha phải chữa lành ngay vết thương của họ đã. Rồi mới nói tới những
chuyện khác. Chữa lành các vết thương, chữa lành các vết thương... và cha phải
bắt đầu từ đất đi lên.
“Giáo Hội
đôi khi tự khóa mình vào những điều nhỏ nhặt, vào các qui định hẹp hòi. Điều
quan trọng hơn cả là lời tuyên xưng đầu hết: Chúa Giêsu Kitô đã cứu rỗi cha. Và
các thừa
tác viên của Giáo Hội, trước nhất, phải là các thừa tác viên của lòng thương
xót. Thí dụ, vị
giải tội luôn có nguy cơ quá khắt khe hay quá lỏng lẻo. Cả hai thái độ ấy đều
không phải là thương xót, vì chẳng thái độ nào thực sự chịu trách nhiệm đối với
hối nhân. Người khắt khe rửa tay để nhường việc đó cho giới răn. Người lỏng lẻo
rửa tay bằng cách bảo: ‘đây không phải là tội’ hay một điều gì đó tương tự như
thế. Trong thừa tác mục vụ, ta phải đồng hành với người ta, và chữa lành các vết
thương của họ.
“Ta phải
cư xử với dân Chúa ra sao? Tôi mơ một Giáo Hội làm mẹ và làm mục tử. Các
thừa tác viên của Giáo Hội phải nhân hậu, biết thương xót, chịu trách nhiệm đối
với dân và đồng hành với họ như người Samaria nhân hậu, người chịu rửa ráy, lau
chùi và nâng người hàng xóm dậy. Đó là
Tin Mừng tinh ròng. Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi. Các cải tổ cơ cấu và tổ chức
chỉ đứng hàng thứ hai, nghĩa là đến sau. Cải tổ đầu tiên phải là cải tổ thái độ.
Các thừa tác viên của Tin Mừng phải là những người có khả năng sưởi ấm tâm hồn
người ta, cùng bước trong đêm tối với họ, biết cách đối thoại và để mình rơi xuống
đêm thâu của họ, xuống thẳm đen của họ mà không lạc lối. Dân Chúa muốn các mục
tử, chứ không muốn các giáo sĩ hành xử như những người cạo giấy hay viên chức
chính phủ. Cách riêng, các giám mục phải có khả năng hỗ trợ các chuyển vần của
Thiên Chúa giữa dân chúng của họ một cách kiên nhẫn, để không một ai bị rơi rớt
ở đàng sau. Nhưng họ cũng phải có khả năng đồng hành với đoàn chiên để họ “hửi
ra” những nẻo đường mới.
“Thay vì
chỉ là một Giáo Hội biết chào đón và tiếp rước bằng cách để cửa mở, ta hãy cố gắng
là một Giáo Hội biết tìm ra những con đường mới, có khả năng bước ra khỏi mình
và đi tới những người không tham dự Thánh Lễ, tới những ai đã bỏ cuộc hay dửng
dưng. Những người bỏ cuộc đôi khi làm thế vì những lý do mà nếu hiểu và lượng
giá đúng, có thể dẫn họ trờ về. Nhưng điều này đòi nhiều mạnh dạn và can đảm”.
Cha
Sparado gợi ý với Đức Thánh Cha rằng có những Kitô hữu sống trong các tình huống
không hợp qui đối với Giáo Hội hay trong các tình huống phức tạp biểu tượng cho
các vết thương công khai. Như các cặp đã ly dị và tái hôn, các cặp đồng
tính luyến ái và nhiều tình huống khó khăn khác. Ta có thể thực hành loại mục vụ
nào trong các trường hợp này? Ta có thể sử dụng những loại phương tiện nào?
Đức Giáo
Hoàng cho hay: “Ta cần công bố Tin Mừng ở mọi ngõ ngách phố phường, rao giảng
tin vui Nước Chúa và việc chữa lành, ngay trong lời giảng của ta, mọi loại bệnh
tật và vết thương. Ở Buenos Aires,
tôi hay nhận được những lá thư từ những người đồng tính luyến ái vốn là ‘những
người bị thương về phương diện xã hội’ vì họ nói với tôi rằng họ cảm thấy như
Giáo Hội luôn luôn kết án họ. Nhưng nào Giáo Hội có muốn làm việc đó. Trong
chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, tôi nói rằng nếu một người đồng tính có thiện
chí và đi tìm Thiên Chúa, tôi không phải là người để kết án. Nói thế,
tôi chỉ nói điều sách giáo lý vốn nói. Tôn giáo có quyền phát biểu ý kiến để phục
vụ người ta, nhưng Thiên Chúa, trong lúc tạo dựng, đã cho ta được tự do: ta
không thể can thiệp một cách thiêng liêng vào đời sống người khác.
“Có người
đã hỏi tôi một cách khiêu khích, xem tôi có chấp nhận việc đồng tính luyến ái
không. Tôi trả lời bằng một câu hỏi khác: ‘xin cho tôi biết: khi thấy một người
đồng tính, Thiên Chúa chấp nhận sự hiện hữu của họ một cách yêu thương hay bác
bỏ và lên án người này?’ Ta phải luôn xét tới con người. Ở đây, ta bước vào mầu
nhiệm của hữu thể nhân bản. Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn đồng hành với
người ta, và ta cũng thế, ta phải đồng hành với họ, bắt đầu từ trạng huống của
họ. Điều cần là đồng hành với họ trong xót
thương. Khi điều này xẩy ra, Chúa Thánh Thần sẽ linh hứng để vị linh mục nói điều
đúng.
“Đây
cũng là ơn phúc lớn lao của bí tích giải tội: lượng giá từng trường hợp và biện
phân điều tốt nhất một người tìm kiếm Thiên Chúa và ơn thánh cần làm. Tòa giải
tội không phải là phòng tra tấn, nhưng là nơi dạ thương xót của Thiên Chúa khuyến
khích ta sống tốt hơn. Tôi cũng đã xem xét tình huống của một phụ nữ, trong quá
khứ, từng thất bại trong hôn nhân và còn phá thai nữa. Rồi người phụ nữ này tái
hôn và nay rất hạnh phúc, có tới 5 đứa con. Vụ phá thai lúc trước đè nặng lên
lương tâm chị và chị thành thực hối hận về việc đó. Chị muốn tiến về phía trước
trong cuộc sống Kitô hữu của mình. Vị linh mục phải làm gì?
“Ta
không thể chỉ nhấn mạnh tới các vấn đề liên hệ tới phá thai, hôn nhân đồng tính
và việc sử dụng các phương pháp ngừa thai. Điều này không thể được. Tôi vốn
không nói nhiều tới các điều này, và từng bị chỉ trích vì thế. Nhưng khi nói về
những điều này, ta phải nói về chúng trong ngữ cảnh. Trong vấn đề này, giáo huấn
của Giáo Hội đã quá rõ và tôi vốn là con cái Giáo Hội, nhưng ta không cần phải
nói về các vấn đề này bất cứ lúc nào.
“Giáo
huấn tín lý và luân lý của Giáo Hội tất cả không có cùng một giá trị. Thừa tác
mục vụ của Giáo Hội không thể bị ám ảnh bởi việc thông truyền số đông các tín
điều rời rạc (disjointed) để chúng được áp đặt một cách khư khư. Trong
phong cách truyền giáo, việc công bố chỉ tập chú vào những điều cốt yếu, cần
thiết: những điều phấn khích, lôi cuốn, những điều làm tâm hồn bừng cháy, như
các môn đệ trên đường Emmau xưa. Ta phải tìm cho ra một quân bình mới; nếu
không, ngay tòa nhà luân lý của Giáo Hội cũng sẽ tan rã như tòa nhà bằng quân
bài, mất hết nét tươi mát và hương thơm của Tin Mừng. Đề xuất của Tin Mừng phải
đơn giản hơn, sâu sắc hơn và tỏa sáng hơn. Chính từ lối đề xuất này, các hệ quả
luân lý sẽ phát sinh ra.
“Tôi nói
điều trên trong khi cũng nghĩ tới việc rao giảng và nội dung rao giảng của ta. Một
bài giảng lễ hay, một bài giảng thuyết đích thực, phải bắt đầu bằng việc công bố
đầu hết, tức công bố ơn cứu rỗi. Không có điều gì vững chãi và chắc chắn hơn việc
công bố này. Rồi cha còn phải đương đầu với giáo lý nữa. Sau đó, cha có thể rút
tỉa các hệ quả luân lý. Nhưng việc công bố tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa
phải đến trước các mệnh lệnh luân lý và tôn giáo. Ngày
nay, hình như, đôi lúc, việc đảo lộn thứ tự này đang thắng thế. Bài giảng lễ là viên đá thử vàng để đo sự gần
gũi của mục tử và khả năng gặp gỡ người ta của vị mục tử này, vì các
vị giảng thuyết phải biết nhận ra trái tim của cộng đoàn mình và phải có khả
năng nhìn ra nơi ước muốn được thấy Thiên Chúa sống động và nồng nhiệt nhất. Do
đó, sứ điệp Tin Mừng không thể bị giản lược vào một số khía cạnh, dù có liên
quan, nhưng tự chúng không cho thấy tâm điểm sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô”.
Một giáo hoàng tu sĩ
Đức
Phanxicô là vị giáo hoàng thuộc dòng tu đầu tiên kể từ Đức Grêgôriô XVI, một
đan sĩ thuộc Dòng Camaldoli, lên ngôi năm 1831. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “đâu là vị trí chuyên biệt của tu sĩ nam nữ
trong Giáo Hội ngày nay?”
Đức Giáo
Hoàng cho biết: “Tu sĩ nam nữ là các tiên tri. Họ là những người
đã quyết định theo Chúa Giêsu bằng cách mô phỏng cuộc sống của Người trong vâng
lời Chúa Cha, nghèo khó, cuộc sống cộng đoàn và khiết tịnh. Trong
chiều hướng này, các lời khấn không thể kết cục như các biếm họa; nếu không, đời
sống cộng đoàn, chẳng hạn, sẽ trở thành hỏa ngục, và khiết tịnh sẽ trở thành lối
sống của những anh chàng độc thân khô cằn. Lời khấn khiết tịnh phải là lời khấn
sinh hoa kết trái. Trong Giáo Hội, tu sĩ được kêu gọi làm tiên tri, đặc biệt bằng
cách chứng tỏ Chúa Giêsu đã sống trên trần gian ra sao, và công bố Nước Thiên
Chúa sẽ như thế nào lúc thành toàn. Tu sĩ không bao giờ được từ bỏ việc nói
tiên tri. Điều này không có nghĩa đi ngược lại phẩm trật Giáo Hội, dù chức năng
tiên tri và cơ cấu phẩm trật không trùng hợp với nhau. Tôi đang nói tới một đề
xuất luôn tích cực nhưng không nên gây ra nhút nhát. Ta hãy nghĩ tới công trình
của biết bao vị thánh vĩ đại, các đan sĩ và tu sĩ nam nữ, từ Thánh Antôn viện
tu trở về sau. Là tiên tri đôi khi gây nên sóng gió. Tôi không biết nên nói thế
nào. . . Nói tiên tri quả có gây ồn ào, náo động, nhiều
người còn cho là “xáo trộn” (a mess) nữa. Nhưng trên thực tế, đặc sủng của tu
sĩ giống như men bột: nói tiên tri là thông báo tinh thần của Tin Mừng”.
Giáo triều Rôma
Cha
Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài nghĩ gì về các bộ sở của Giáo Triều Rôma,
các cơ quan khác nhau đang trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong sứ mệnh của ngài.
Ngài cho
hay “Các bộ sở trong Giáo Triều Rôma là để phục vụ Đức Giáo Hoàng và các giám mục.
Chúng phải
trợ giúp cả các Giáo Hội địa phương lẫn các hội đồng giám mục. Chúng là các dụng
cụ trợ giúp. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, vì không hành xử đúng chức năng, chúng có nguy
cơ trở thành các định chế kiểm duyệt. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy các tố cáo
thiếu chính thống được đưa tới Rôma. Tôi nghĩ những trường hợp này nên được các
hội đồng giám mục địa phương điều tra; các hội đồng này có thể được Rôma hỗ trợ
một cách đáng kể. Thực thế, các trường hợp này được xử lý tốt hơn tại địa
phương. Các bộ sở tại Rôma chỉ là các trung gian;
chúng không phải là mối lái hay cơ quan quản trị”.
Ngày 29
tháng Sáu, trong buổi lễ chúc lành và trao dây pallium cho 34 tổng giám mục các
giáo tỉnh, Đức Phanxicô nói tới “con đường hợp đoàn” như là con đường dẫn Giáo
Hội “lớn lên trong sự hòa hợp với việc phục vụ của quyền tối thượng”. Bởi thế, Cha
Sparado hỏi ngài “Ta có thể giao hòa ra sao quyền tối thượng của
Phêrô và tính hợp đoàn? Những con đường nào khả thi cả trong viễn tượng đại kết
nữa?”
Đức
Phanxicô trả lời: “Ta phải cùng sánh bước với nhau: giáo dân, giám
mục và giáo hoàng. Tính công đồng phải được sống trên nhiều bình diện khác nhau. Có lẽ
nay là lúc phải thay đổi các phương pháp của Thượng Hội Đồng Giám Mục, vì đối với
tôi, hình như phương pháp hiện thời không được năng động lắm. Việc này cũng sẽ
có giá trị đại kết nữa, nhất là với các anh em Chính Thống Giáo của ta. Ta có
thể học được từ họ nhiều điều hơn về ý nghĩa của tình hợp đoàn giám mục và truyền
thống công đồng. Các cố gắng suy tư chung, về việc phải cai quản Giáo Hội ra
sao trong các thế kỷ đầu tiên, trước khi có sự chia cách Đông Tây, sẽ đem lại
hoa trái đúng lúc. Trong các liên hệ đại kết, điều quan trọng không những là phải
biết nhau tốt hơn mà còn phải nhìn nhận những gì Chúa Thánh Thần từng gieo vãi
nơi người khác như là hồng phúc đối với ta. Tôi muốn tiếp tục cuộc thảo luận vốn
đã bắt đầu vào năm 2007 của ủy ban hỗn hợp [giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo]
về vấn đề phải thi hành quyền tối thượng của Phêrô ra sao, một cuộc thảo luận
đã đưa tới việc ký kết Văn Kiện Ravenna. Ta phải tiếp tục đi con đường này”.
Cha
Sparado hỏi xem Đức Phanxicô dự phóng ra sao việc hợp nhất
Giáo Hội trong tương lai dưới
ánh sáng câu trả lời của ngài, thì ngài cho biết: “Ta phải tiến bước bằng cách hợp nhất trong dị
biệt: không có đường nào khác để trở nên một cả. Đó là con đường của Chúa
Giêsu”.
Phụ nữ trong đời sống Giáo Hội
Và đâu
là vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội? Đức Phanxicô từng nhiều lần đề cập tới vấn
đề này. Ngài nhắc đến nó trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, khi cho rằng Giáo Hội vẫn còn
thiếu một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “Vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội phải nên
như thế nào? Ta phải làm vai trò của họ trở nên hiển hiện ra sao trong lúc này?”
Ngài trả
lời: “Ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Tôi lo lắng
trước giải pháp muốn giản lược nó vào một thứ chủ nghĩa cao ngạo nữ giới
(female machismo), vì phụ nữ có một thể trạng (make-up) khác với nam giới. Nhưng
điều tôi nghe về vai trò của phụ nữ thường được gợi hứng từ ý thức hệ cao ngạo.
Phụ nữ đang đặt ra các câu hỏi sâu sắc cần được trả lời. Giáo Hội không thể là
chính mình nếu không có phụ nữ và vai trò của họ. Phụ nữ rất chủ yếu đối với
Giáo Hội. Đức Maria, một phụ nữ, vốn quan yếu hơn các giám mục. Tôi nói điều
này vì ta không nên lẫn lộn chức năng với phẩm giá. Cho nên ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ
trong Giáo Hội. Ta phải cố gắng hơn nữa để khai triển ra một nền thần học sâu sắc
về phụ nữ. Thiên tài phụ nữ được cần tới ở bất cứ nơi nào ta đưa ra các quyết định
quan trọng. Thách thức hiện nay là: suy nghĩ về chỗ đứng chuyên biệt của phụ nữ
cả ở những nơi thẩm quyền của Giáo Hội được thi hành trong các phạm vi khác
nhau của Giáo Hội.”
Công Đồng Vatican II
Cha
Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Công Đồng Vatican II thực hiện được những gì?” Ngài đáp: “Vatican II là một cuộc đọc lại Tin Mừng dưới ánh sáng văn hóa
đương thời. Nó tạo ra một phong trào canh tân đơn thuần phát khởi từ cùng một
Tin Mừng này. Hoa trái của nó thật lớn lao. Chỉ cần
nhắc tới phụng vụ. Công trình canh tân mục vụ là nhằm giúp tín hữu đọc lại Tin
Mừng từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đúng là có những nền giải thích liên tục và
gián đoạn, nhưng điều rõ ràng là: tính năng động của việc đọc Tin Mừng, hiện thực
hóa sứ điệp của nó vào hôm nay, một công việc hết sức đặc trưng của Vatican II,
là điều tuyệt đối không thể nào đảo ngược được. Rồi còn có các vấn đề đặc biệt
như phụng vụ theo Vetus Ordo (lễ qui cũ). Tôi nghĩ quyết định của Đức Giáo
Hoàng Bênêđíctô [tức quyết định ngày 7 tháng Bẩy, 2007 cho phép việc sử dụng rộng
rãi hơn Thánh Lễ theo Công Đồng Triđentinô] là một quyết định khôn ngoan và được
thúc đẩy bởi ý muốn giúp những người vốn nhạy cảm về khía cạnh này. Dù, điều
khiến người ta ưu tư là nguy cơ biến Vetus Ordo thành một ý thức hệ, để khai
thác nó”.
Kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự
Tại Ngày
Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro,
Đức Phanxicô nhiều lần tuyên bố rằng: “Thiên Chúa có thật. Người tự mạc khải
Người ra hôm nay. Người ở khắp nơi”. Những mệnh đề này khiến ta nhớ tới kiểu
nói của Thánh Inhã “kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự”. Dựa vào câu này,
Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha kiếm và tìm thây Thiên Chúa
trong mọi sự ra sao?”.
Ngài trả
lời: “Điều tôi nói tại Rio có ý nói tới thời
điểm ta đang đi kiếm Thiên Chúa. Thực vậy, ta vốn bị cám dỗ đi kiếm Thiên Chúa ở
dĩ vãng hay ở một tương lai khả hữu nào đó. Thiên Chúa quả có ở trong quá khứ
thật vì ta có thể nhìn ra dấu chân của Người. Và Thiên Chúa cũng ở trong tương
lai như một hứa hẹn. Nhưng Thiên Chúa ‘cụ thể’, có thể nói như thế, thì đang ở
đây hôm nay. Chính vì vậy, than vãn không bao giờ giúp ta kiếm Thiên Chúa. Các
than vãn ngày nay về việc thế giới hiện đại ‘man rợ’ biết chừng nào, những than
vãn này đôi khi chỉ kết thúc bằng việc cho ra đời, trong lòng Giáo Hội, các ước
muốn thiết lập trật tự theo nghĩa bảo tồn đơn thuần, như một thứ phòng ngự. Không,
Thiên Chúa
cần được gặp gỡ trong thế giới ngày nay.
“Thiên
Chúa tự tỏ mình ra trong mạc khải lịch sử, trong lịch sử. Thời gian khởi diễn
các diễn trình, và không gian kết tinh chúng. Thiên Chúa ở trong lịch sử, ở
trong các diễn trình.
“Ta
không nên tập chú vào việc chiếm hữu các không gian để thi hành quyền lực, mà
đúng hơn nên khởi diễn các diễn trình lịch sử lâu dài. Ta phải khởi diễn các diễn
trình hơn là chiếm hữu các không gian. Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thời gian
và đang hiện diện trong các diễn trình của lịch sử. Điều này dành ưu tiên cho
các hành động nào biết phát sinh ra những năng động tính lịch sử mới mẻ. Và việc
này đòi phải kiên nhẫn, chờ đợi.
“Tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự không phải
là một phát kiến thực nghiệm (‘empirical
eureka’). Khi muốn gặp gỡ Thiên Chúa, ta thường hay tìm cách chứng thực về Người
ngay tức khắc bằng phương pháp thực nghiệm. Nhưng cha không thể gặp Thiên Chúa
cách đó. Thiên Chúa được tìm thấy trong cơn gió nhẹ như Elijah từng thấy. Các
giác quan tìm ra Thiên Chúa là các giác quan được Thánh Inhã gọi là giác quan
thiêng liêng. Thánh Inhã yêu cầu ta mở rộng sự nhạy cảm
thiêng liêng để gặp gỡ Thiên Chúa quá bên kia phương thức hoàn toàn thực nghiệm. Điều cần
phải có là thái độ chiêm niệm: cảm nhận được rằng cha đang chuyển động trên con
đường hiểu biết và qúy mến đúng, hướng tới các sự việc và hoàn cảnh. Bình an sâu xa, an ủi thiêng liêng, yêu Chúa
và yêu mọi sự trong Chúa, đó chính là các dấu hiệu cho thấy cha đang đi trên
con đường đúng này”.
Chắc chắn và sai lầm
Cha
Sparado hỏi thêm: “Như thế, nếu cuộc gặp gỡ Thiên Chúa không phải
là một phát kiến thực nghiệm và nếu nó là một hành trình nhìn bằng con mắt lịch
sử, thì ta cũng có thể mắc nhiều sai lầm?”
Đức
Phanxicô trả lời: “Đúng, trong cố gắng kiếm và tìm thấy Thiên
Chúa trong mọi sự này, vẫn có một phạm vi không chắc chắn. Nhất định
như thế. Nếu ai đó bảo họ gặp Thiên Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn và không
bị khuấy động bởi bất cứ biên tế không chắc chắn nào, thì điều này không đúng. Đối
với tôi, điều này là chìa khóa quan trọng. Nếu ai đó có câu trả lời cho mọi câu
hỏi, thì rõ ràng đây là bằng chứng Thiên Chúa không ở trong họ. Nó chỉ có nghĩa
họ là một tiên tri giả, chuyên lợi dụng tôn giáo cho riêng mình. Các nhà lãnh đạo
vĩ đại của dân Chúa, như Môsê chẳng hạn, luôn dành chỗ cho hoài nghi. Cha phải
dành chỗ cho Chúa, chứ không dành chỗ cho các điều chắc chắn của ta; ta phải
khiêm nhường. Trong mọi biện phân, sự không chắc chắn giúp
ta mở lòng ra đi tìm xác nhận trong ủi an thiêng liêng.
“Như thế,
nguy cơ trong việc kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự là quyết tâm giải
thích quá nhiều, là nói với sự chắc chắn và cao ngạo của con người: ‘Thiên Chúa
đang ở đây nè’. Ta sẽ chỉ thấy một Thiên Chúa phù hợp với kích thước của ta mà
thôi. Thái độ đúng là thái độ của Thánh Augustinô: kiếm Thiên Chúa để tìm thấy
Người, và tìm thấy Thiên Chúa để tiếp tục kiếm tìm Người mãi mãi. Ta phải kiếm
tìm như thể là những người mù, như thường thấy trong Thánh Kinh. Và đây là kinh
nghiệm của các cha ông vĩ đại của ta trong đức tin; họ vốn là mẫu mực của ta. Ta
cần đọc lại Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11. Ápraham bỏ quê hương mà không
biết mình đi đâu, chỉ cậy vào niềm tin. Các tổ tiên trong đức tin của ta đều đã
chết sau khi thoáng thấy sự thiện từng được hứa cho mình, nhưng chỉ thấy từ xa...
Đời ta được
ban cho ta không phải như một opera libretto (bản nhạc kịch), trong đó, mọi điều
đều được viết ra; mà như một ra đi, tiến bước, làm, tìm kiếm, thấy... Ta phải
bước vào cuộc phiêu lưu đi tìm gặp Thiên Chúa; ta phải để Thiên Chúa tìm và gặp
ta.
“Vì
Thiên Chúa là thứ nhất; Thiên Chúa luôn là thứ nhất và đi bước thứ nhất. Antoniô
ạ, Thiên Chúa giống như bông hoa hạnh đào xứ Sicily của cha vậy, luôn nở đầu tiên. Ta đọc
được điều này trong các tiên tri. Thiên Chúa được gặp gỡ trong lúc đang đi, đang
ở trên đường. Về phương diện này, ai đó dám cho rằng đây là chủ nghĩa duy tương
đối. Phải duy tương đối không? Đúng, nếu hiểu nó như một thứ đa thần thuyết lộn
xộn. Nhưng đó không phải là duy tương đối nếu hiểu nó theo nghĩa Thánh Kinh: Thiên
Chúa luôn là một ngạc nhiên, thành thử cha không bao giờ biết cha sẽ tìm thấy
Người ở đâu và bằng cách nào. Cha không định được thời gian và không gian
cho cuộc gặp gỡ Người. Trái lại, cha phải biện phân được cuộc gặp gỡ này. Biện
phân là điều chủ yếu.
“Nếu
Kitô hữu theo thuyết phục nguyên (restorationism), theo thuyết duy luật lệ, nếu
họ muốn mọi sự phải rõ ràng và an toàn, thì họ sẽ chẳng tìm thấy chi. Truyền thống
và ký ức quá khứ phải giúp ta can đảm mở ra các phạm vi mới mẻ cho Thiên Chúa. Những
ai ngày nay cứ luôn đi tìm các giải pháp có tính kỷ luật, những ai cứ luôn mong
mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá trớn, những ai cứ luôn khư khư tìm cách khôi phục một
quá khứ không còn hiện hữu nữa, tất cả đều có cái nhìn tĩnh tụ và hướng nội về
sự vật. Theo lối này, đức tin trở thành một ý thức hệ giống như mọi ý thức hệ
khác. Tôi có sự chắc chắn đúng tín lý sau: Thiên Chúa ở trong đời sống mọi con
người. Thiên Chúa ở
trong đời sống mọi người. Dù cho đời sống của người ta gặp thảm họa, dù cho đời
ấy bị thói xấu, ma túy hay bất cứ điều gì khác phá hủy, Thiên Chúa vẫn ở trong
đời sống họ. Cha có
thể, cha phải cố gắng kiếm tìm Thiên Chúa trong mọi cuộc sống nhân linh. Dù đời
sống một ai đó đầy gai nhọn và cỏ dại, nó vẫn luôn có chỗ để hạt giống tốt nẩy
mầm. Cha phải tin tưởng vào Thiên Chúa”.
Ta có nên lạc quan không?
Lời Đức
Giáo Hoàng khiến Cha Sparado nhớ lại một số suy tư trong quá khứ của ngài, trong
đó, lúc còn là một Hồng Y, ngài viết rằng Thiên Chúa đã đang sống trong chốn đô
hội rồi, giữa mọi người và kết hợp với từng người. Theo ý kiến Cha Sparado, đây
là cách nói khác của điều chính Thánh Inhã đã viết trong Linh Thao, tức việc
Thiên Chúa “lao nhọc và làm việc” trong thế giới của ta. Bởi thế, Cha đã hỏi Đức
Giáo Hoàng: “Ta có nên lạc quan hay không? Đâu là các dấu
hy vọng trong thế giới ngày nay? Con làm sao lạc quan được trong một thế giới
đang khủng hoảng?”
Đức Giáo
Hoàng cho hay: “Tôi không thích dùng chữ lạc quan vì lạc quan đề cập tới một
thái độ tâm lý. Thay vào đó, tôi thích dùng chữ hy vọng, theo điều ta đọc được
trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11, mà tôi đã nhắc đến ở trên. Các cha ông ta trong đức tin tiếp tục tiến bước,
sẵn sàng đương đầu với khó khăn. Và hy vọng đã không làm họ nản lòng, như ta
đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Rôma. Thay vào đó, cha nên nghĩ tới các câu đố đầu
tiên trong vở ‘Turandot’ của Puccini”.
Ngay lúc
ấy, cha Sparado thoáng nhớ lại trong lòng các câu thơ đố nói về vị công chúa
trong vở kịch đó, mà giải đáp là hy vọng:
“Trong đêm ảm đạm này,
một bóng ma lấp lánh bay.
Nó lên cao rồi tung cánh
trên nhân loại đen bất tận.
Toàn thế giới khẩn cầu
và toàn thế giới nài nỉ nó.
Nhưng bóng ma biến mất với rạng đông
để tái sinh trong tâm hồn.
Và mỗi đêm mỗi sinh ra
và mỗi ngày mỗi chết đi!”
Đức
Phanxicô bảo: “Thấy không, niềm hy vọng Kitô Giáo không phải là bóng ma và nó
không lừa dối ai. Nó là một nhân đức đối thần và do đó, xét cho cùng, là một ơn
phúc của Thiên Chúa mà ta không được giản lược vào chủ nghĩa lạc quan, một chủ
nghĩa chỉ có tính nhân bản. Thiên Chúa không hướng dẫn sai về hy vọng;
Thiên Chúa không thể tự bác bỏ chính mình. Thiên Chúa hứa hẹn mọi sự.”
Nghệ thuật và óc sáng tạo
Cha
Sparado rất ngạc nhiên lúc Đức Phanxicô nhắt tới vở “Turandot” của Puccini khi
nói đến mầu nhiệm hy vọng. Cha muốn hiểu hơn các tham chiếu của ngài về nghệ
thuật và văn chương. Nên đã nhắc lại việc năm 2006 ngài có nói rằng các họa sĩ
biết cách trình bày các thực tại bi đát và đau thương của đời người một cách đẹp
đẽ. Và cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng xem những ai là các nghệ sĩ và văn sĩ được ngài ưa
thích, và liệu họ có gì chung không.
Ngài trả
lời: “Tôi thực sự yêu thích một loạt các tác giả
khác nhau. Tôi rất yêu Dostoevsky và Hölderlin. Tôi nhớ
Hölderlin vì bài thơ ông viết nhân dịp sinh nhật của bà ông, một bài thơ rất
hay và rất phong phú về thiêng liêng đối với tôi. Bài thơ kết thúc bằng câu thơ
sau: ‘Ước chi người đàn ông giữ vững điều đứa nhỏ đã hứa’. Tôi có ấn tượng sâu
xa vì tôi yêu bà Rosa của tôi, và vì bài thơ của Hölderlin đã so sánh người bà
của ông với Đức Trinh Nữ Maria, đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu, người bạn của trần
thế vốn không coi ai là người xa lạ.
“Tôi đã
đọc cuốn The Betrothed (Người Đính Hôn) của Alessandro Manzoni, đến ba
lần, và hiện tôi đang để nó trên bàn vì muốn đọc lại lần nữa. Manzoni mang lại
cho tôi rất nhiều. Khi còn bé, bà tôi dạy tôi thuộc lòng đoạn đầu của cuốn The
Betrothed: ‘nhánh Hồ Como rẽ về hướng nam giữa hai dẫy núi điệp trùng. . . ’. Tôi
cũng rất thích (thi sĩ) Gerard Manley Hopkins (của
Dòng Tên).
“Trong số
các họa sĩ trứ danh, tôi thán phục Caravaggio; các bức
tranh của ông như nói với tôi. Nhưng cả Chagall nữa, với
bức ‘Đóng Đinh Trắng’. Trong số các nhạc sĩ, tôi yêu Mozart do
Clara Haskil trình bày. Mozart tràn ngập tôi. Nhưng tôi không thể suy nghĩ về
âm nhạc của ông; tôi phải lắng nghe thôi. Tôi thích lắng nghe Beethoven, nhưng
theo cung cách sáng tạo (Promethean way), và người giải thích sáng tạo nhất đối
với tôi là Furtwängler. Và còn
Khổ Nạn của Bach nữa. Tác
phẩm của Bach được tôi thích nhất là ‘Erbarme Dich’, nước mắt Phêrô trong ‘Khổ
Nạn Theo Thánh Mátthêu’. Quả là tuyệt diệu. Rồi tôi yêu cả Wagner nữa, trên
một bình diện khác, không hẳn thân thiết như thế. Tôi thích lắng nghe ông, nhưng
không phải bất cứ lúc nào. Buổi biểu diễn tác phẩm ‘Ring’ của Wagner do
Furtwängler trình bày tại La Scala ở Milan
năm 1950, đối với tôi, là tuyệt diệu hơn cả. Nhưng cả tác phẩm ‘Parsifal’ của Knappertsbusch năm
1962 nữa.
“Ta cũng
nên nói về phim ảnh. ‘La Strada’ của Fellini là cuốn
phim có lẽ tôi thích nhất. Tôi đồng nhất với cuốn phim, theo nghĩa: cùng mặc
nhiên nhắc tới Thánh Phanxicô. Tôi cũng tin rằng tôi đã xem hết mọi cuốn phim của
Ý cùng với Anna Magnani và Aldo Fabrizi trong các năm từ lúc tôi 10 tuổi tới
lúc lên 12. Một cuốn phim khác được tôi yêu thích là cuốn ‘Rôma, Kinh Thành Mở Cửa’ (Rome, Open City). Tôi có
được nền văn hóa phim ảnh là nhờ cha mẹ tôi, các vị thường dẫn chúng tôi đi xem
phim rất nhiều lần.
“Dù sao,
nói chung, tôi yêu các nghệ sĩ bi đát, nhất là các nghệ sĩ cổ điển. Có một câu
rất hay được Cervantes đặt lên
môi chàng độc thân Carrasco để khen câu truyện Don Quixote: ‘Trẻ em có nó trong
tay, thiếu niên đọc nó, người lớn hiểu nó, người già ca ngợi nó’. Đối với tôi, câu
này là câu định nghĩa hay về các tác giả cổ điển”.
Hỏi Đức Giáo Hoàng về việc dạy văn chương cho
các học sinh trung học của ngài
Ngài cho
hay: “Hơi nguy hiểm một chút. Tôi phải nắm chắc các học sinh của tôi chịu đọc
El Cid. Nhưng chúng không chịu. Chúng muốn đọc Garcia Lorca. Thành thử tôi quyết
định chúng sẽ đọc El Cid tại nhà, còn ở trong lớp tôi sẽ dạy chúng các tác giả
chúng thích hơn cả. Dĩ nhiên, người trẻ muốn đọc các tác phẩm văn chương hơi ‘sỗ’
(racy) một chút, như cuốn La Casada Infiel lúc đó hay các tác phẩm cổ điển như
La Celestina của Fernando de Rojas. Nhưng nhờ đọc những truyện này, chúng thủ đắc
được một khiếu thưởng ngoạn văn chương, thi ca, và cứ thế chúng tôi tiến qua
các tác giả khác. Và đối với tôi đó là một kinh nghiệm lớn lao. Tôi hoàn tất
chương trình, nhưng một cách không có cấu trúc, nghĩa là không theo thứ tự mà
chúng tôi đã dự tính lúc ban đầu, mà là theo một thứ tự đến rất tự nhiên nhờ đọc
các tác giả này. Và cung cách này rất hợp với tôi: tôi không thích có một lịch trình cứng ngắc, nhưng
đúng hơn, tôi muốn biết nơi phải đến với những sách đọc này, với một cảm thức đại
cương về điểm mình đang đi tới. Sau đó,
tôi bắt đầu bắt chúng phải viết. Cuối cùng, tôi quyết định gửi tới Borges hai
cuốn truyện do các học sinh của tôi sáng tác. Tôi biết người thư ký của ông ta;
người này vốn là thầy dạy dương cầm của tôi. Borges rất thích hai cuốn truyện
này. Và thế là ông ta viết lời giới thiệu cho bộ truyện này”.
Cha
Sparado hỏi thêm: “Như thế, thưa Đức Thánh Cha, tính sáng tạo là
điều quan trọng đối với đời sống người ta hay sao?”. Ngài cười
và trả lời: “đối với một tu sĩ Dòng Tên, nó cực kỳ quan trọng!
Tu sĩ Dòng Tên phải có óc sáng tạo”.
Các biên cương và phòng thí nghiệm
Trong một
cuộc viếng thăm của các cha và nhân viên tờ La Civiltà Cattolica, Đức Giáo
Hoàng có nói tới sự quan trọng của bộ ba “đối thoại, biện phân, biên cương”. Và ngài
đặc biệt nhấn mạnh tới điểm cuối cùng, qua việc trưng dẫn Đức Phaolô VI, và điều
ngài nói trước đó trong một bài diễn văn về các tu sĩ Dòng Tên: “Bất cứ nơi nào
trong Giáo Hội, dù là trong các môi trường khó khăn nhất và cùng cực nhất, trong
các ngã ba ý thức hệ, trong các giao thông hào xã hội, bất cứ nơi nào từng có
và hiện có cuộc thảo luận giữa khát vọng sâu xa nhất của con người nhân bản và
sứ điệp muôn đời của Tin Mừng, thì tu sĩ Dòng Tên đều đã có mặt và hiện có mặt ở
đó cả”. Nên cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem đâu là các ưu tiên đối với các tập san do Dòng
Tên xuất bản.
Ngài cho
hay: “Ba chữ chủ yếu tôi ủy nhiệm cho La Civiltà Cattolica có thể được mở rộng
cho mọi tập san của Dòng, có lẽ với những nhấn mạnh khác nhau tùy theo bản chất
và mục tiêu của chúng. Khi tôi nhấn mạnh tới chữ biên cương, tôi muốn nói cách
riêng tới nhu cầu của những ai đang làm việc trong thế giới văn hóa, họ cần hội
nhập vào ngữ cảnh trong đó họ đang hoạt động và đang suy nghĩ về. Luôn có mối
nguy hiểm rình rập của việc sống trong phòng thí nghiệm. Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí
nghiệm đức tin’, nhưng là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử. Thiên
Chúa vốn tự mặc khải như là lịch sử, chứ không như là bản tóm lược các chân lý
trừu tượng. Tôi rất sợ các phòng thí nghiệm vì trong phòng thí nghiệm, cha lấy
các vấn đề rồi đem chúng về nhà để khuất phục chúng, tô vẽ chúng, bên ngoài ngữ
cảnh. Trong khi biên cương, cha làm sao mang về nhà được, cha phải sống trên
biên giới chứ, phải gan dạ chứ”.
Xin Đức Giáo Hoàng các điển hình của kinh nghiệm
bản thân
Đức
Phanxicô cho biết: “Khi đụng tới các vấn đề xã hội, thì tổ chức một
cuộc họp để nghiên cứu vấn đề ma túy tại một khu ổ chuột là một chuyện, mà đi tới
đó, sống ở đó và hiểu vấn đề từ bên trong và nghiên cứu nó lại là một chuyện
khác hẳn. Có một
lá thư tuyệt vời do Cha Arrupe gửi cho Các Trung Tâm Nghiên Cứu và Hành Động Xã
Hội về nghèo đói, trong đó, ngài nói rõ ràng rằng người ta không thể nói về
nghèo đói nếu không trải nghiệm chính sự nghèo đói, qua việc nối kết trực tiếp
với những nơi nghèo đói. Chữ hội nhập (insertion) khá nguy hiểm vì một số tu sĩ
coi nó như một thứ thời thượng (fad), và nhiều tai họa đã xẩy ra chỉ vì thiếu
biện phân. Nhưng điều đó mới quan trọng thực sự.
“Biên
cương thì có rất nhiều. Ta hãy nghĩ tới các nữ tu đang sống tại các bệnh viện. Họ
quả đang sống ở biên cương. Tôi sống sót là nhờ một trong số họ. Lúc tôi kinh
qua bệnh phổi tại bệnh viện, bác sĩ chích penicillin và streptomycin theo một
liều lượng nào đó. Nữ tu trực hôm đó tăng gấp ba liều lượng cho tôi vì bà nhanh
trí một cách mạnh dạn; bà biết phải làm gì vì bà sống với người bệnh suốt ngày.
Bác sĩ, tuy là người tốt, nhưng sống tại phòng thí nghiệm; nữ tu mới là người sống
ở biên cương và đối thoại với biên cương hàng ngày. Thuần hóa biên cương có
nghĩa chỉ biết lấy từ một nơi xa xăm, giam mình vào một phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm hữu ích, nhưng với ta, suy
nghĩ luôn phải bắt đầu từ kinh nghiệm”.
Việc con người hiểu mình
Cha
Sparado hỏi Đức Phanxicô về các thay đổi lớn lao đang xẩy ra trong xã hội
và cách thế con người nhân bản đang tự tái giải thích mình. Đến lúc
này, ngài bỗng đứng dậy, đi lấy cuốn sách nguyện để trên bàn. Cuốn sách này bằng
tiếng La Tinh và đã cũ mòn vì sử dụng. Ngài mở tới phần Kinh Phụng Vụ Thứ Sáu
tuần 27 của Mùa Thường Niên, rồi đọc cho tôi nghe một đoạn trong bài
Commonitorium Primum của Thánh Vincent thành Lerins: “Ngay các tín điều của Kitô Giáo cũng phải
tuân theo các luật này, củng cố trong nhiều năm, khai tiển với thời gian, thâm
hậu với thời gian”
Đức Giáo
Hoàng nhận định rằng: “Thánh Vincent thành Lerins đưa ra so sánh giữa việc phát
triển về sinh học của con người và việc chuyển giao kho tàng đức tin từ thời kỳ
này qua thời kỳ nọ, một kho tàng vốn tăng trưởng và được củng cố với thời gian.
Ở đây, việc con người tự hiểu về mình thay đổi theo thời gian và ý thức con người
cũng thâm hậu cách đó. Ta hãy nghĩ tới thời kỳ khi nạn nô lệ còn được chấp nhận
và án tử hình còn được phép thi hành không bị ai chất vấn. Bởi thế, ta quả lớn
lên trong việc hiểu biết chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp
Giáo Hội trưởng thành trong các phê phán của mình. Ngay các khoa học khác và
các khai triển của chúng cũng giúp Giáo Hội tiến bộ trong cái hiểu của mình. Có
những qui luật và giới điều của Giáo Hội hữu hiệu lúc ấy, nhưng nay đã mất giá
trị hoặc ý nghĩa. Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một
nguyên khối (monolith) cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác
nhau là quan điểm sai lầm.
“Dù sao,
trong mọi thời kỳ lịch sử, con người nhân bản đều cố gắng tự hiểu biết và phát
biểu mình tốt hơn. Nhờ thế, với thời gian, con người nhân bản thay đổi cách
mình nhìn mình. Có cách riêng để tự phát biểu đối với người tạc bức ‘Thần Chiến
Thắng Có Cánh Của Samothrace’, lại có cách khác đối với Caravaggio, Chagall và
lại cách khác nữa đối với Dalí. Ngay các hình thức phát biểu chân lý cũng muôn
hình muôn vẻ, và điều này quả là cần thiết đối với việc loan truyền Tin Mừng
trong ý nghĩa vượt thời gian của nó.
“Con người nhân bản luôn tự đi tìm mình, và dĩ
nhiên, trong cuộc đi tìm này, họ có thể phạm nhiều lầm lỗi. Giáo Hội
đã trải nghiệm nhiều thời kỳ chói sáng, như thời Thánh Tôma Aquinô. Nhưng Giáo
Hội cũng đã sống nhiều thời kỳ sa sút trong khả năng suy nghĩ của mình. Thí dụ,
ta không được lẫn lộn thiên tài Tôma Aquinô với thời kỳ sa sút của các chú giải
có tính duy Tôma (thomist). Bất hạnh thay, tôi từng phải học triết lý từ các
sách giáo khoa phát xuất từ chủ nghĩa duy Tôma sa sút và phần lớn băng hoại này.
Cho nên, khi suy nghĩ về con người nhân bản, Giáo Hội phải cố vươn tới thiên
tài, chứ không sa sút.
“Khi nào
thì việc lên công thức cho tư tưởng hết còn giá trị? Khi nó không còn nhìn ra
nét nhân bản và ngay cả lúc nó sợ điều nhân bản hoặc bị lừa đảo về nó. Có thể
ví tư tưởng bị lừa như Ulysses gặp bài ca Nhân Ngư, hay như Tannhäuser trong
cơn truy hoan vây quanh bởi những kẻ cuồng dâm và chè chén, hay như Parsifal, trong
màn hai của kịch bản Wagner tại lâu đài Klingsor. Việc suy nghĩ của Giáo Hội phải phục hồi được
nét thiên tài và hiểu tốt hơn cách con người nhân bản tự hiểu về chính mình hiện
nay, để có thể khai triển và thâm hậu hóa được giáo huấn của Giáo Hội”.
Việc cầu nguyện
Cha
Sparado hỏi Đức Phanxicô về cách cầu nguyện ưa thích hơn của ngài. Ngài
cho hay: “Tôi đọc sách nguyện mỗi buổi sáng. Tôi thích cầu nguyện bằng thánh vịnh.
Rồi, trễ hơn, tôi cử hành Thánh Lễ. Đọc Kinh Mân Côi. Điều tôi thực sự ưa thích là thờ lạy vào buổi
tối, ngay cả lúc đang chia trí và suy nghĩ nhiều việc khác, thậm chí còn ngủ gật
lúc cầu nguyện. Như thế, vào buổi tối, giữa khoảng từ 7 tới 8 giờ, tôi qùy trước
Mình Thánh một giờ để thờ lạy. Nhưng
tôi luôn cầu nguyện trong trí ngay cả khi đang chờ gặp nha sĩ hay bất cứ lúc
nào khác trong ngày.
“Với tôi, cầu nguyện luôn là cầu nguyện với trọn
trí nhớ, hồi tâm, ngay cả nhớ tới dĩ vãng của mình hay điều Chúa làm trong Giáo
Hội hay trong một giáo xứ đặc thù nào đó. Với tôi,
đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói tới trong Tuần Đầu Linh Thao tức cuộc gặp
gỡ Chúa Kitô từ nhân chịu đóng đinh. Và tôi tự hỏi: ‘Tôi đã làm gì cho Chúa
Kitô? Tôi đang làm gì cho Người? Tôi nên làm gì cho Chúa Kitô?’. Đó là trí nhớ
những điều Thánh Inhã nói ở phần ‘Chiêm Niệm để Cảm Nghiệm Tình Yêu Thiên Chúa’
khi ngài yêu cầu ta nhớ lại các ơn phúc ta đã nhận được. Nhưng trên hết, tôi
cũng biết rằng Chúa nhớ đến tôi. Tôi có thể quên Người, nhưng tôi biết Người
không bao giờ, không khi nào quên tôi. Trí nhớ có vai trò nền tảng đối với trái
tim tu sĩ Dòng Tên: nhớ tới ơn thánh, một trí nhớ được Đệ Nhị Luật nhắc đến, nhớ
đến các kỳ công của Thiên Chúa làm căn bản cho giao ước giữa Người và dân riêng.
Chính trí nhớ này làm tôi trở thành người con của Người, và nó cũng làm tôi
thành người cha nữa”.
Vũ Văn
An
(americamagazine.
org/pope-interview)