Một vài câu chuyện lý thú về đời chứng nhân của ĐHY
Nguyễn Văn Thuận nhân dịp tháng 7 năm 2013, Tòa thánh Vatican bế mạc (đóng lại,
đúc kết) hồ sơ phong thánh cho ngài, một Hồng Y Việt Nam.
Nhà
văn Nguyễn Hoàng Đức
Nhà văn Nguyễn
Hoàng Đức nguyên là công an, từng học tiếng Pháp với Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận – Anh đã viết một chuyên luận về: “Hành trình đức tin qua cây cầu F.X
Nguyễn Văn Thuận” để mô tả lại quá trình biến đổi tình cảm, tâm lý và đến với
Chúa của anh. Tài liệu đó hiện đang được Bộ Phong Thánh ở Roma lưu giữ xem như
một phép lạ đức tin.
Được Hội đồng
Công Lý và Hòa Bình Tòa thánh Vatican mời anh qua Rôma làm chứng về Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nhân dịp lễ kết thúc điều tra phong Chân phúc cấp
giáo phận. Ngày 2/7/2013 anh lên đường sang Rôma, nhưng đã bị công an ngăn chặn
và thu hộ chiếu tại sân bay Nội Bài mà không có lý do rõ ràng.
Dưới đây là bài phỏng
vấn của phóng viên Mặc Lâm, RFA, dành cho anh Nguyễn Hoàng Đức
- Mặc Lâm:
”Trong lúc tiếp
xúc với Hồng Y, ông có cảm nhận ra sao về Ngài dưới cái nhìn của một sĩ quan
công an và nhất là công an chống phản động như ông vừa cho biết ạ?”
- Nhà văn Nguyễn
Hoàng Đức:
”Tôi là một
trong những phép lạ về đức tin... Tôi đã từng làm trong Phòng Tôn giáo của Bộ
Công an. Trong Phòng ấy người ta có “đối sách” về Đức Cha mà sau này là Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận. Ông bị chuyển đổi từ miền Nam ra với cái tội rất
to là vì ông là cháu của Ngô Đình Diệm và trở về Sài Gòn làm Phó Tổng Giám mục
theo ý là lót ổ để lên Tổng Giám mục. Và ông cứ thế bị chuyển ra ngoài Bắc.
Trong thời gian ông ấy bị cầm cố ở Hà Nội (có nghĩa là không ở tù) tức là được
giữ trong mật viện. Có một đội trông ông ta nhưng tôi là một cán bộ cũng khá
lâu năm, một sĩ quan khá lâu năm nên tôi đề nghị để tôi ra học tiếng Pháp với
Cha, để luyện nói trên tinh thần là luyện tiếng Pháp chứ không phải để trông
Cha. Cụ thể là như thế.
”Sau khi học tiếng
Pháp với Ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc,
lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa
vì tôi làm ở Cục chống phản động nên biết dễ phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển
ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.
”Sau khi vào Sài
Gòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các nhà thờ, nhà thờ trung
tâm Đức Bà, nhà thờ Kỳ Đồng. Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một
giấc mơ là tôi đi nhà thờ và tôi có rửa tội. Đúng đêm tôi rửa tội ở nhà thờ lớn
thì Cha Ngân, bây giờ trở thành Giám mục, bảo với Cha Hùng, hiện nay đang học
bên Ý hay bên Pháp gì đấy, mời tôi viết diễn giải một cái tin và tôi có viết
bài “Con Đường Đức Tin Qua Cây Cầu Francisco Xavie Nguyễn Văn Thuận” Bài này đã
gởi qua Tòa Thánh và nằm trong hồ sơ và đã được Cha Sỹ đang ở Việt Nam xin đưa
chữ ký vào những bản dịch khoảng 4,5 thứ tiếng. Tôi hiểu là việc phong Thánh cần
phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh.
Phép lạ thứ ba là mồ mả phát. Tôi là một trong những phép lạ về Đức tin.
Nhân chuyện nhà
văn Nguyễn Hoàng Đức, chúng ta cùng lướt qua một vài ”phép lạ” khác được thuật
lại trong tác phẩm của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.
Đức cố Hồng Y sống
13 năm trong ngục tù cộng sản, một số sự việc trong đời sống tù đày đã được
Ngài kể lại trong ‘Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá’, tác phẩm được dịch ra 8 thứ
tiếng, để phục vụ các tham dự viên ‘Những Ngày Giới Trẻ’ tại Paris năm 1997. Mời
bạn đọc xem lại vài trích đoạn sau:
Có
lúc Chúa dùng giáo dân để dạy tôi cầu nguyện.
Thời gian bị quản
thúc ở Giang xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ giáo xứ Ðại Ơn lẻn
vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi:
“Thưa cha, cha
không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội thánh; ở trong tù
cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do!”
Ðức
Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện.
Ông Hải đã từng ở
tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước
ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi:
Nhà tôi ở Long
Hưng, chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.
Tôi tin lòng
thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu
nguyện Ðức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức
thư của ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau:
“Anh Thuận thân
mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ
nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài
Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này:
Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ
đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận
cần gì thì cho anh ấy“.
Tôi hết sức cảm
động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng
anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn
sống đây!”.
Cải
tạo bầu khí nhà tù
Ở trại giam Phú
Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá,
xin anh thương tình cho tôi thuốc!” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả,
chỉ có trách nhiệm“.
Ðó là bầu khí
chúng tôi ở trong tù.
Lúc tôi bị biệt
giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực.
Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau
không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc
hết!“
Thực thế, để
tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ
tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh
lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu
hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.
Tôi phải làm thế
nào?
Một đêm đông lạnh
quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế? Con
còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ
như Chúa Giêsu đã yêu con”. Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa
Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những
chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do
dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v…
Những câu chuyện
đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời…
Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ
từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi! Bầu khí nhà giam đổi nhiều,
quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy
tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại
ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.
Tôi sống theo lời
Chúa Giêsu dạy:
“Ðiều gì con làm
cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”.
”Khi nào có hai
hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.
Một hôm một ông
xếp hỏi tôi:
-
Ông
nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công giáo”?
-
Nếu
viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm
đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công giáo và cho cả nhà nước.
-
Làm
thế nào cải thiện tình trạng ấy?
-
Những
cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp
xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng,
tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.
-
Ông
có thể giúp được không?
-
Nếu
các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon (từ điển bỏ túi) gồm những danh từ
thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ
giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự
phát triển và hoạt động của Giáo hội…
Họ đã trao giấy
mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh,
Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ
hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ
trích về Giáo hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành. Ai cũng
muốn biết viện phụ là gì, thượng phụ là gì, Công giáo khác Anh giáo, Tin Lành,
Chính Thống giáo chỗ nào? Tài chánh của Tòa thánh từ đâu mà có? Có bao nhiêu tu
sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện tu sĩ, giáo sĩ thế nào? Giáo
hội phục vụ nhân loại thế nào? Tại sao Giáo hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua
nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn
tại? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên
Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến,
có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn
tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ
và xây dựng.
Thời kỳ biệt
giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một
cựu tu sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo hội. Trong số mấy anh gác tôi có
hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một
hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:
-
Ông
có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không?
-
Có
nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào?
-
Ông
hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.
Tôi đã hát Salve
Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không?
Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm…).
Tôi đã chép trọn
cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh
ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni
Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh "Veni Creator" cho mình nghe!