Giáo
Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Quanh Năm C
I.
Giáo Huấn P.Â.:
Tình thương
cứu độ được trao ban cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người tội lỗi.
Mọi người nhất
là người tội lỗi đều được tìm kiếm, hoán cải và nhận ơn cứu độ. Giống như chủ
chiên tìm chiên lạc. Bà chủ nhà tìm đồng bạc thất lạc và như người Cha nhân hậu
ôm chầm lấy người con hoang trở về.
Tình thương
Chúa vô biên. Con người có giá trị cao quí trước mặt Chúa và có chỗ trong
chương trình cứu độ của Chúa.
II.
Vấn nạn P.Â.
Bài đọc I
trong sách Xuất Hành trình bày Thiên chúa như một thần linh hung tợn, hay lên
cơn lôi đình và trừng phạt dân chúng?
Trong tiếng Do
Thái sách Luật Torah, nguyên ngữ có nghĩa là giáo huấn và luật lệ, được hiểu là
Ngũ Kinh trong tiếng Hy Lạp, bao gồm Năm quyển sách đầu tiên trong Bộ Cựu Ước:
Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lê Vi, sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật. Môsê
được coi như tác giả Ngũ Kinh được soi sáng viết sách trong dịp diện kiến với
Thiên Chúa trên núi Sinai vào khoảng năm 1312 trước Công Nguyên. Nội dung Ngũ
Kinh gốm 613 lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong 613 khoảng luật có 365 luật giới
hạn và 248 điều cấm kỵ.
Không ai tin rằng, 13 thế
kỷ trước Công Nguyên và ngay sau khi diện kiến Thiên chúa Yahweh, Môsê đã cho
viết ra một lúc năm quyển sách tạo thành bộ Ngũ Kinh để lãnh đạo Dân Thiên
chúa. Nhưng ai cũng tin rằng:
Ngũ Kinh phần thành văn chỉ hoàn thành khoảng năm 539 đến năm 334,
thời kỳ bị Ba Tư đô hộ.
Sách Luật Torah truyền khẩu đã có từ lâu đời và không hoàn toàn chỉ
có trong tôn giáo Do Thái, nhưng đã được truyền miệng từ đời nầy sang đời khác trong
văn minh của các dân vùng Cận Đông.
Sách trình bày về Thiên chúa như một Đấng
tạo Hoá toàn năng:
Phán một lời liền có trời đất và vũ trụ vạn
vật.
Như một người thợ gốm lấy đất sét nắn đúc
nên hình con người rồi thổi hơi vào mũi và ban cho con người sự sống.
Như một người Cha tốt lành dự trù mọi thứ
cho sự khai sinh của con mình: Chúa dựng nên con người sau cùng, sau khi hoàn
tất chương trình sáng tạo trời đất. Chúa thương yêu và con người được sinh ra
trong một chiếc nôi đã có đủ mọi thứ cần cho cuộc sống.
Chúa được mô tả như một vị thần linh với
mọi thứ tham sân si, lúc thì êm ái nhẹ nhàng, lúc nỗi cơn lôi đình trừng phạt
thần dân bất tuân thượng lệnh. Những dân tộc vùng Cận Đông thời bấy giờ cũng
như Dân Do Thái không có vấn đề gì trong việc chấp nhận một Thiên Chúa với đầy
đủ hỉ nộ ái ố như vậy. Nên chúng ta thấy, sách Xuất hành chương 20, 5 nói: Chúa
là Đấng ghen tương. Trong sách Tiên Tri Êgiêkiel 24, 13-14 nói Chúa là Đấng hay
giận. Sách Đệ Nhị Luật 29, 27-28 cũng nói về những cơn thịnh nộ của Thiên chúa.
Có phần dễ
hiểu hơn nếu chúng ta đọc những câu chuyện cổ tích của người Việt Nam. Thần
linh được mô tả không khác gì với phàm nhân. Khi Ngọc Hoàng nổi trận lôi đình
thì sai thiên lôi mang búa xuống trần thanh toán người bất nhân. Nên mới có từ:
Trời đánh hay Trời phạt hay Trời trồng….
Thần thánh
trong dân gian thời xưa rất con người. Ai cũng hiểu thần thánh ở trên trời cao
thăm thẩm, nhưng không ai hiểu về một ông thần mà không có những tình cảm của
con người. Nên Thiên Chúa trong văn minh thời cỗ không sao thoát khỏi lối diễn
tả rất con người của văn Chương: Chúa giận, Chúa oán ghét, Chúa trả thù, Chúa
ghen tương…. Những kiểu nhân cách hoá Thiên chúa nầy không thiếu trong cách
sống đạo của người Công Giáo:
Chúa đau khổ
vì bị nhốt trong nhà chầu.
Chúa đi qua đi
lại trước nhà xem coi con cái có mời vào hay không. Nhưng lòng con người rất vô
tâm, ngảnh mặt làm ngơ…
Chúa như một
tình nhân mong mỏi người tình phản bội quay về.
Ý Nghĩa dụ
ngôn bỏ 99 chiên không lạc để đi tìm chiên lạc,
Hay khổ
công thức đêm đốt đèn quét nhà để tìm đồng tiền bị mất
Hay Cha già
ngày ngày mong ngóng thằng con hư hỏng quay về nhà để mà tha thứ và ban lại cho
con mình quyền thừa kế?
Có người cho
rằng: Không khôn ngoan hay không thực tế chút nào nếu bỏ chin mười chín con
chiên không lạc để đi tìm con chiên lạc. Không chắc gì tìm được con chiên lạc
mà chín mưới chín chiên đang trong đàn có thể bị bỏ rơi và thất thoát?
Cũng vậy, có
đáng gì để thức đêm, đốt đèn, cực nhọc quét nhà để tìm đồng tiền bị mất. Sau đó
lại con mời hàng xóm bạn bè đến chung vui?
Người con
hoang là người đã trưởng thành: Có suy nghĩ và tự do quyết định, cũng như
chịu trách nhiệm quyết định bỏ nhà ra đi của mình. Đây là thứ con hư vô
ơn bạc nghĩa, tại sao Cha già còn khổ công để ngóng trông, mòn mỏi chợ đợi ngày
con mình quay về làm gì?
Dụ ngôn là
chững chuyện không có thật, nhưng không là những câu chuyện bịa đặt hay vô căn
cứ, nhưng được vận dụng để diễn tả một sứ điệp siêu nhiên để con ngưồi dễ hiểu,
dễ nhớ khi nhắc đến câu chuyện giả tưởng nầy.
Rất kiến hiệu:
Chỉ cần nói đến câu chuyện người con hoang đàng là chúng ta thuộc gần như nằm
lòng những câu trao đổi giữ Cha già và người con hoang trở về cũng như hiểu
được tình thương vô bờ của Thiên Chúa trong tường thuật người Cha nhân hậu.
Cũng vậy, việc
chủ chăn bỏ chin mươi chin con chiên không bị lạc để băng rừng vượt suối đi tìm
chiên lạc không là chuyện khôn hay dạy, chuyện lợi hay hại nhưng là chuyện giá
trị của con người. Chúa sinh ra con người để con người sống hạnh phúc và được
hưởng ơn cứu độ. Tội lỗi làm con người bỏ Chúa đi lạc. Nếu Chúa bỏ người con
tội lỗi là Chúa mất con cái mình và Chúa thua ma quỉ là kẻ cố gắng làm cho
chiên bỏ đàn. Nên bất cứ giá nào Chúa cũng phải đi tìm chiên lạc, tìm được thì
vui mừng, mang vác trên vai quay về nhà.
Nên người tội
lỗi quay về đường ngay nẽo chính làm cho cả triều thần thánh vui mừng. Vì mỗi
con người đều có giá trị cao cả trước mặt Chúa và đáng nhận được cứu đỗ. Cách
nói “Ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là chin mươi
chín người công chinh không cần phải sám hối ăn năn!” chỉ để nói lên giá trị
con người được sinh ra và được cứu độ hay nhắm khuyến khích người tội lỗi ăn
năn sám hối. Phúc Âm không có ý coi nhẹ việc người công chính không cần sám hối
ăn năn.
Cũng giống như
vậy với việc tìm được đồng bạc bị thất lạc. Đồng bạc thất lạc không làm người
đàn bà ra nghèo khổ hay đói khác. Bà cũng không tìm đồng bạc thất lạc vì sự
sống của mình. Nhưng đồng bạc là thành phần trong gia sản của bà, bà không thể
bỏ. Cũng vậy, người tội lỗi là con Chúa, là con chiên trong đàn chiên Chúa.
Chúa không đành hy sinh con chiên lạc trong đàn chiên mà Chúa phải hy sinh mạng
sống mình để cứu chuộc.
Người Cha già
nhân hậu cũng vậy. Đứa con trai hoang đàng vẫn là con ông. Bò nhà ra đi hay
hoang đàng phung phí không giết chết tính phụ tử nơi Ông. Tình yêu thương tha
thứ của Ông dành cho con mình lớn gấp nhiều lần với hành động bỏ nhà đi hoang.
Cũng vậy không có tội lỗi nào lớn hơn tình thương tha thứ của Chúa. Không đứa
con nào mà không có chỗ trong nhà Cha mình.
Từ Vựng thông
thường trong Kinh Thánh (dựa trên Tự Điển Kinh Thánh Thần Học)
Ông Aaron:
Con của Ông
Aram và bà Giokêbeth, thuộc chi tộc Lêvi, theo Sách Xuất hành 6, 16-20.
Là Anh của
Môsê theo Sách Xuất Hành 7,7.
Ông được chọn
để giúp Môsê đưa dân chúa ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ông là phát ngôn viên của
Môsê, cũng như đã đồng hành với Môsê suốt bốn mươi năm trong sa mạc, theo sách
Xuất hành 4:10-16, 27-31.
Ở Núi Sinai,
Ông tháp tùng với Môsê lên núi để diện kiến Thiên chúa, theo Xuất hành 19:24.
Sau đó, Ông chính là người được chọn làm thẩm phán trong thới gian Môsê vắng
mặt cũng như Ông đã chìu theo dân chúng gom vàng làm tượng bò vàng để thờ lạy.
Xuất hành 24, 14-18
Môsê được
hướng dẫn để chọn Aaron và bốn người con của Ông là Nadab, Abihu, Elêza và
Ithamar làm tư tế để chuyên lo việc phụng vụ, tế tự và canh giữ hòm bia Giao
Ước theo Xuất Hành 28:1-4
Aaron chết trên núi Hor ở
tuổi 123 theo sách Dân số 10, 22-29
Tháp babel
Babel có nghĩa là
tiếng nói, âm thanh lộn xộn, nghe không hiểu được, có nguồn gốc từ thành ngữ
Tháp Babel được ghi lại trong sách Sáng Thế Ký 11:1-4. Kinh Thánh tường thuật
rằng: Ngày xưa, tại vùng Mesopotamia, có một thành phố tên là Babylon, hay là
Babel, con cháu của ông Noah xây cất một cái tháp cao chọc trời với
cao vọng lưu danh muôn đời cho hậu thế.
Lúc đầu họ làm
được vì họ cùng nói một thứ tiếng nói, nhưng sau đó công việc xây cất phải bỏ
dở vì họ không còn hiểu nhau nữa. Ví tội kiêu ngạo, Thiên Chúa đã làm cho họ
nói hằng trăm thứ ngôn ngữ khác nhau.
Ngày nay, từ
Babel dùng để chỉ một tình trạng hổn độn, xáo trộn, nhiều âm thanh lộn xộn và
cũng nhắc lại cầu chuyện kiêu ngạo của người thời xưa.
Tám mối phước
thật hay Tám mối phúc thật?
Tám mối phúc thật
tìm thấy trong đoạn Phúc Âm Matthêô 5:3-10 nằm trong khuôn khổ Bài Giảng
Trên Núi.
Beatitude có
nguồn gốc từ chữ Latinh có nghĩa là Phúc, là Blessed. Trong tiếng Anh, mỗi mối
phúc thật đều bắt đầu bằng chữ Blessed, có nghĩa phúc cho. Người Việt nam ở
Miền Bắc hay nói là Phúc, còn người Việt Nam ở Miền Nam hay gọi là Phước.
Người Việt ở Miền
Nam trách gọi Phúc, vì kỵ huý các vua chúa nhà Nguyễn. Tương truyền vào năm
1563, bà vợ của Nguyễn Hoàng khi mang thai người con trai thứ sáu của Nguyễn
Hoàng, nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy hồng điều trên có nhiều chữ
Phúc, lại có một chữ Phúc rất lớn rơi vào lòng, sau đó sanh ra một trai đặt tên
là Nguyễn Phúc Nguyên, sau là Chúa Sãi. Các con trai cháu trai về sau của Chúa
Nguyễn đều dùng chữ lót là Phúc. Ai ai cũng tìm phước, lánh họa. Người đời tìm
cầu phước về phương diện vật chất, như người Á Đông cầu xin Ngũ Phúc Lâm Môn là
mong 5 thứ phước vào nhà mình, đó là Phú, Quý, Thọ, Khương, Ninh tức là
Giàu, Sang, Sống Lâu, Khỏe Mạnh, Bình An.
Qua Bài Giảng
Trên núi, có người quen gọi là Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu đưa một quan
niệm về phúc thật khác hẵn với đời thường. Thí dụ: Phúc cho ai có tâm hồn
nghèo khó vì nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành vì sẽ được đất nước làm
gia nghiệp….
III. Thực hành P.Â.:
1. Con người tốt, vì là con Thiên Chúa tốt
lành.
Tôi luôn nhớ
lời dạy của Cha Giám Đốc trong giờ huấn đức ngày xưa khi còn trong Chủng Viện,
Ngài hay nói: Tên cướp của giết người cũng có ít nhất là 5% hay 10% tốt vì tất
cả là Con Chúa. Việc anh ta cướp của hay giết người không làm thay đổi bản chất
con người, hay con Thiên chúa nơi anh ta. Nên ‘il était un voleur!’anh ta có
lần đã là người ăn trộm chứ không bao giờ được nói là ‘il est un voleur!’, anh
ta là tên ăn trộm, đã ăn trộm và bây giờ cũng vẫn ăn trộm! Lời kết án!
Chuyện mới xảy
ra đây thôi làm tôi buồn sâu đậm và không tránh được sự khinh thường dành cho
hai anh em linh mục. Một linh mục đã già ngoài 80 tuổi và linh mục khác cũng
không còn trẻ, đã hơn năm mươi tuổi đời. Hai linh mục đã lên mét với Giám Mục
của mình về một anh em linh mục khác và xin được quyết định rút quyền thi hành
bí tích dành cho linh mục vô phúc nầy trong hai địa phận mà hai linh mục trên
đang hoạt động.
Lý do: Trong
thư Quyết định của Giám Mục nói rõ những linh mục đương quyền trên yêu cầu vì
lý do mục vụ, cha ấy không được quyền cử hành bí tích trong địa phận của hai
Giám Mục nầy.
Đọc lệnh treo
chén của Giám Mục địa phương, ai cũng nghĩ là linh mục kia xấu xa, nên bị trừng
phạt. Không ai tốt cả, nhưng không chắc gì linh mục bị treo chén xấu hơn hai
linh mục đi tố cáo anh em mình? Làm linh mục, ai không có lúc là chiên lạc hay
yếu đuối sa phạm tội. Nhưng “yếu đuối của anh em tôi cũng chính là yếu đuối của
tôi!” như Thánh Phaolô từng nói.
Linh mục là
Chúa Kitô khác. Xin hai Cha hãy dành đôi phút tự vấn xem: Mình làm điều đó có
lợi gì cho Chúa, cho Giáo Hội hay cho người khác không? Hai Cha có cách nào làm
tốt và có tình nghĩa hơn không? Có lần nào hai Cha đã thức đêm, thắp đèn quét
nhà tìm đồng tiền bị mất hay băng rừng lội suối để tìm con chiên lạc không?
Thật là uổng nếu vì sự tố cáo của hai Cha, mà anh em linh mục kia nản chí, bất
cần bỏ chức linh mục của mình. Hai Cha có biết rằng: anh em linh mục kia đã đau
khổ đến mức nào khi nhận được hai thư treo chén kia không?
Xin hai cha
hãy thức tĩnh lương tâm con người: Không ai xấu xa tồi tệ đến nỗi chúng ta phải
khai trừ hay triệt cho họ chết đâu?
2. Hàn mặc Tử, người xấu số thật hữu ích cho
đời.
Hàn Mặc Tử tên khai sinh
là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay
thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Nhưng gốc gác Tử, ông nội là Phạm
Bồi người Thanh Hoá, vì có liên quan đến phong trào Cần Vương chống Pháp sau
khi thất bại đã trốn vào miền rừng núi Thừa Thiên.
Đến đời thân phụ Hàn Mặc
Tử, để tránh rắc rối về lý lịch, cụ Phạm Bồi đã đặt tên là Nguyễn Văn Toản. Sau
khi cha mất sớm, Nguyễn Trọng Trí được mẹ đưa vào sống với người anh cả Nguyễn
Trọng Nhân lúc này đương là công chức Sở Cầu đường ở Quy Nhơn, Bình Định. Năm
16 tuổi, Trí được mẹ cho ra Huế học. 18 tuổi đoạt giải nhất cuộc thi thơ do một
Thi xã tổ chức lấy bút hiệu Lệ Thanh và Phong Trần…
Năm 20 tuổi, Hàn Mặc Tử
làm công chức Sở Đạc Điền Quy Nhơn dưới quyền của cha người yêu Kim Cúc là
Thương tá Hoàng Phùng. 22 tuổi theo Thúc Tề vào Sài Gòn viết báo làm thơ, lấy
bút danh Hàn Mặc Tử. Năm 24 tuổi thấy mình lâm bệnh, Tử lui về Quy Nhơn xuất
bản tập thơ đầu Gái quê. Khi xác nhận bệnh phong, Tử gần như cô biệt với bên ngoài.
Tử đã dốc tàn lực viết nên
những thi phẩm nổi tiếng, trong đó có bài Đây thôn Vĩ Dạ để tặng người yêu là
Kim Cúc. Hàn Mặc Tử đã trút hơi thở cuối cùng vào sáng sớm một ngày cuối năm
1940 tại nhà thương Quy Hoà trong tiếng chuông nhà nguyện đưa anh về thế giới
bên kia… Có lẽ khi viết Trường tương tư tặng Mai Đình, Tử đã linh cảm đến sự
chia lìa: "Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt"…
Giã từ cõi nhân gian vừa
lúc 28 tuổi xuân xanh bởi sự nghiệt ngã của tật bệnh, Hàn đã ra đi trong cơn
đau điên loạn không phải của thể chất mà ở tâm hồn. Ngôi sao ấy xoẹt qua bầu
trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Trong phong
trào Thơ mới đầu thế kỷ XX, Hàn là thi nhân trẻ nhất và cũng là người bỏ đi đầu
tiên. Nhưng Hàn đã kịp để lại những áng thơ tuyệt bút, kết tinh từ tài năng và
tình yêu cùng với thương đau. Nhà thơ Hồng Thanh Quang từng nói:
"Khi mọi sự bất lực thì thơ xuất hiện". Có lẽ đúng như vậy. Con người
ta thường khi tột cùng hạnh phúc và tận cùng thương đau thì cái tinh tuý nhất
của tâm hồn còn lại là những câu thơ.
Nhờ tình yêu, Hàn đã cống
hiến cho chúng ta những thi phẩm vừa lãng mạn vừa dữ dội. Năm người con gái
bước vào đời Hàn đều để lại dấu ấn thi ca, dù có những đau tình hận, những hờn
trách tình phụ. Đời Tử hẩm hiu không phải vì Tử mà vì cảnh huống số phận bắt Tử
phải thế. Là người yêu chân thành nên có lúc Tử rơi vào tuyệt vọng: "Họ
đã đi rồi không níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa bưa/ Người đi một nửa hồn
tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ…".
Người tốt số
hay người xấu số như nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Tất cả đều là
Con Thiên Chúa và được tiền định để được cứu độ.
Xin hãy làm
người tìm chiên lạc bằng một khuyến khích hay một an ủi hơn là một khai trừ.
Xin hãy thức
đêm, đốt đèn thắp sáng cả nhà để tìm cho được xem người anh em xấu số của mình
đang trốn tránh ở ngõ ngách nào trong cuộc đời nầy.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên