Lời Chúa cntn 24c _ Giáo lý Phúc Âm


Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Quanh Năm C  
Lời Chúa: Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32
I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Tình thương cứu độ được trao ban cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người tội lỗi.
Mọi người nhất là người tội lỗi đều được tìm kiếm, hoán cải và nhận ơn cứu độ. Giống như chủ chiên tìm chiên lạc. Bà chủ nhà tìm đồng bạc thất lạc và như người Cha nhân hậu ôm chầm lấy người con hoang trở về.
Tình thương Chúa vô biên. Con người có giá trị cao quí trước mặt Chúa và có chỗ trong chương trình cứu độ của Chúa.
II.        Vấn nạn P.Â.    
Bài đọc I trong sách Xuất Hành trình bày Thiên chúa như một thần linh hung tợn, hay lên cơn lôi đình và trừng phạt dân chúng?
Trong tiếng Do Thái sách Luật Torah, nguyên ngữ có nghĩa là giáo huấn và luật lệ, được hiểu là Ngũ Kinh trong tiếng Hy Lạp, bao gồm Năm quyển sách đầu tiên trong Bộ Cựu Ước: Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lê Vi, sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật. Môsê được coi như tác giả Ngũ Kinh được soi sáng viết sách trong dịp diện kiến với Thiên Chúa trên núi Sinai vào khoảng năm 1312 trước Công Nguyên. Nội dung Ngũ Kinh gốm 613 lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong 613 khoảng luật có 365 luật giới hạn và 248 điều cấm kỵ.
Không ai tin rằng, 13 thế kỷ trước Công Nguyên và ngay sau khi diện kiến Thiên chúa Yahweh, Môsê đã cho viết ra một lúc năm quyển sách tạo thành bộ Ngũ Kinh để lãnh đạo Dân Thiên chúa. Nhưng ai cũng tin rằng:
Ngũ Kinh phần thành văn chỉ hoàn thành khoảng năm 539 đến năm 334, thời kỳ bị Ba Tư đô hộ.
Sách Luật Torah truyền khẩu đã có từ lâu đời và không hoàn toàn chỉ có trong tôn giáo Do Thái, nhưng đã được truyền miệng từ đời nầy sang đời khác trong văn minh của các dân vùng Cận Đông.
Sách trình bày về Thiên chúa như một Đấng tạo Hoá toàn năng:
Phán một lời liền có trời đất và vũ trụ vạn vật.
Như một người thợ gốm lấy đất sét nắn đúc nên hình con người rồi thổi hơi vào mũi và ban cho con người sự sống.
Như một người Cha tốt lành dự trù mọi thứ cho sự khai sinh của con mình: Chúa dựng nên con người sau cùng, sau khi hoàn tất chương trình sáng tạo trời đất. Chúa thương yêu và con người được sinh ra trong một chiếc nôi đã có đủ mọi thứ cần cho cuộc sống.
Chúa được mô tả như một vị thần linh với mọi thứ tham sân si, lúc thì êm ái nhẹ nhàng, lúc nỗi cơn lôi đình trừng phạt thần dân bất tuân thượng lệnh. Những dân tộc vùng Cận Đông thời bấy giờ cũng như Dân Do Thái không có vấn đề gì trong việc chấp nhận một Thiên Chúa với đầy đủ hỉ nộ ái ố như vậy. Nên chúng ta thấy, sách Xuất hành chương 20, 5 nói: Chúa là Đấng ghen tương. Trong sách Tiên Tri Êgiêkiel 24, 13-14 nói Chúa là Đấng hay giận. Sách Đệ Nhị Luật 29, 27-28 cũng nói về những cơn thịnh nộ của Thiên chúa.
Có phần dễ hiểu hơn nếu chúng ta đọc những câu chuyện cổ tích của người Việt Nam. Thần linh được mô tả không khác gì với phàm nhân. Khi Ngọc Hoàng nổi trận lôi đình thì sai thiên lôi mang búa xuống trần thanh toán người bất nhân. Nên mới có từ: Trời đánh hay Trời phạt hay Trời trồng….
Thần thánh trong dân gian thời xưa rất con người. Ai cũng hiểu thần thánh ở trên trời cao thăm thẩm, nhưng không ai hiểu về một ông thần mà không có những tình cảm của con người. Nên Thiên Chúa trong văn minh thời cỗ không sao thoát khỏi lối diễn tả rất con người của văn Chương: Chúa giận, Chúa oán ghét, Chúa trả thù, Chúa ghen tương…. Những kiểu nhân cách hoá Thiên chúa nầy không thiếu trong cách sống đạo của người Công Giáo:
Chúa đau khổ vì bị nhốt trong nhà chầu.
Chúa đi qua đi lại trước nhà xem coi con cái có mời vào hay không. Nhưng lòng con người rất vô tâm, ngảnh mặt làm ngơ…
Chúa như một tình nhân mong mỏi người tình phản bội quay về. 
Ý Nghĩa dụ ngôn bỏ 99 chiên không lạc để đi tìm chiên lạc,
Hay khổ công thức đêm đốt đèn quét nhà để tìm đồng tiền bị mất
Hay Cha già ngày ngày mong ngóng thằng con hư hỏng quay về nhà để mà tha thứ và ban lại cho con mình quyền thừa kế?
Có người cho rằng: Không khôn ngoan hay không thực tế chút nào nếu bỏ chin mười chín con chiên không lạc để đi tìm con chiên lạc. Không chắc gì tìm được con chiên lạc mà chín mưới chín chiên đang trong đàn có thể bị bỏ rơi và thất thoát?
Cũng vậy, có đáng gì để thức đêm, đốt đèn, cực nhọc quét nhà để tìm đồng tiền bị mất. Sau đó lại con mời hàng xóm bạn bè đến chung vui?
Người con hoang là người đã trưởng thành: Có suy nghĩ và tự do quyết định, cũng như  chịu trách nhiệm quyết định bỏ nhà ra đi của mình. Đây là thứ con hư vô ơn bạc nghĩa, tại sao Cha già còn khổ công để ngóng trông, mòn mỏi chợ đợi ngày con mình quay về làm gì?
Dụ ngôn là chững chuyện không có thật, nhưng không là những câu chuyện bịa đặt hay vô căn cứ, nhưng được vận dụng để diễn tả một sứ điệp siêu nhiên để con ngưồi dễ hiểu, dễ nhớ khi nhắc đến câu chuyện giả tưởng nầy.
Rất kiến hiệu: Chỉ cần nói đến câu chuyện người con hoang đàng là chúng ta thuộc gần như nằm lòng những câu trao đổi giữ Cha già và người con hoang trở về cũng như hiểu được tình thương vô bờ của Thiên Chúa trong tường thuật người Cha nhân hậu.
Cũng vậy, việc chủ chăn bỏ chin mươi chin con chiên không bị lạc để băng rừng vượt suối đi tìm chiên lạc không là chuyện khôn hay dạy, chuyện lợi hay hại nhưng là chuyện giá trị của con người. Chúa sinh ra con người để con người sống hạnh phúc và được hưởng ơn cứu độ. Tội lỗi làm con người bỏ Chúa đi lạc. Nếu Chúa bỏ người con tội lỗi là Chúa mất con cái mình và Chúa thua ma quỉ là kẻ cố gắng làm cho chiên bỏ đàn. Nên bất cứ giá nào Chúa cũng phải đi tìm chiên lạc, tìm được thì vui mừng, mang vác trên vai quay về nhà.
Nên người tội lỗi quay về đường ngay nẽo chính làm cho cả triều thần thánh vui mừng. Vì mỗi con người đều có giá trị cao cả trước mặt Chúa và đáng nhận được cứu đỗ. Cách nói “Ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là chin mươi chín người công chinh không cần phải sám hối ăn năn!” chỉ để nói lên giá trị con người được sinh ra và được cứu độ hay nhắm khuyến khích người tội lỗi ăn năn sám hối. Phúc Âm không có ý coi nhẹ việc người công chính không cần sám hối ăn năn.
Cũng giống như vậy với việc tìm được đồng bạc bị thất lạc. Đồng bạc thất lạc không làm người đàn bà ra nghèo khổ hay đói khác. Bà cũng không tìm đồng bạc thất lạc vì sự sống của mình. Nhưng đồng bạc là thành phần trong gia sản của bà, bà không thể bỏ. Cũng vậy, người tội lỗi là con Chúa, là con chiên trong đàn chiên Chúa. Chúa không đành hy sinh con chiên lạc trong đàn chiên mà Chúa phải hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc.
Người Cha già nhân hậu cũng vậy. Đứa con trai hoang đàng vẫn là con ông. Bò nhà ra đi hay hoang đàng phung phí không giết chết tính phụ tử nơi Ông. Tình yêu thương tha thứ của Ông dành cho con mình lớn gấp nhiều lần với hành động bỏ nhà đi hoang. Cũng vậy không có tội lỗi nào lớn hơn tình thương tha thứ của Chúa. Không đứa con nào mà không có chỗ trong nhà Cha mình.
Từ Vựng thông thường trong Kinh Thánh (dựa trên Tự Điển Kinh Thánh Thần Học)
Ông Aaron:
Con của Ông Aram và bà Giokêbeth, thuộc chi tộc Lêvi, theo Sách Xuất hành 6, 16-20.
Là Anh của Môsê theo Sách Xuất Hành 7,7.
Ông được chọn để giúp Môsê đưa dân chúa ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ông là phát ngôn viên của Môsê, cũng như đã đồng hành với Môsê suốt bốn mươi năm trong sa mạc, theo sách Xuất hành 4:10-16, 27-31.
Ở Núi Sinai, Ông tháp tùng với Môsê lên núi để diện kiến Thiên chúa, theo Xuất hành 19:24. Sau đó, Ông chính là người được chọn làm thẩm phán trong thới gian Môsê vắng mặt cũng như Ông đã chìu theo dân chúng gom vàng làm tượng bò vàng để thờ lạy. Xuất hành 24, 14-18
Môsê được hướng dẫn để chọn Aaron và bốn người con của Ông là Nadab, Abihu, Elêza và Ithamar làm tư tế để chuyên lo việc phụng vụ, tế tự và canh giữ hòm bia Giao Ước theo Xuất Hành 28:1-4
Aaron chết trên núi Hor ở tuổi 123 theo sách Dân số 10, 22-29
Tháp babel
Babel có nghĩa là tiếng nói, âm thanh lộn xộn, nghe không hiểu được, có nguồn gốc từ thành ngữ Tháp Babel được ghi lại trong sách Sáng Thế Ký 11:1-4. Kinh Thánh tường thuật rằng: Ngày xưa, tại vùng Mesopotamia, có một thành phố tên là Babylon, hay là Babel, con cháu của ông Noah xây cất một cái tháp cao chọc trời với cao vọng lưu danh muôn đời cho hậu thế.
Lúc đầu họ làm được vì họ cùng nói một thứ tiếng nói, nhưng sau đó công việc xây cất phải bỏ dở vì họ không còn hiểu nhau nữa. Ví tội kiêu ngạo, Thiên Chúa đã làm cho họ nói hằng trăm thứ ngôn ngữ khác nhau.
Ngày nay, từ Babel dùng để chỉ một tình trạng hổn độn, xáo trộn, nhiều âm thanh lộn xộn và cũng nhắc lại cầu chuyện kiêu ngạo của người thời xưa.
Tám mối phước thật hay Tám mối phúc thật?
Tám mối phúc thật tìm thấy trong đoạn Phúc Âm Matthêô 5:3-10 nằm trong khuôn khổ Bài Giảng Trên Núi.
Beatitude có nguồn gốc từ chữ Latinh có nghĩa là Phúc, là Blessed. Trong tiếng Anh, mỗi mối phúc thật đều bắt đầu bằng chữ Blessed, có nghĩa phúc cho. Người Việt nam ở Miền Bắc hay nói là Phúc, còn người Việt Nam ở Miền Nam hay gọi là Phước.
Người Việt ở Miền Nam trách gọi Phúc, vì kỵ huý các vua chúa nhà Nguyễn. Tương truyền vào năm 1563, bà vợ của Nguyễn Hoàng khi mang thai người con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng, nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy hồng điều trên có nhiều chữ Phúc, lại có một chữ Phúc rất lớn rơi vào lòng, sau đó sanh ra một trai đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên, sau là Chúa Sãi. Các con trai cháu trai về sau của Chúa Nguyễn đều dùng chữ lót là Phúc. Ai ai cũng tìm phước, lánh họa. Người đời tìm cầu phước về phương diện vật chất, như người Á Đông cầu xin Ngũ Phúc Lâm Môn là mong 5 thứ phước vào nhà mình, đó là Phú, Quý, Thọ, Khương, Ninh tức là Giàu, Sang, Sống Lâu, Khỏe Mạnh, Bình An.
Qua Bài Giảng Trên núi, có người quen gọi là Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu đưa một quan niệm về phúc thật khác hẵn với đời thường.  Thí dụ: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành vì sẽ được đất nước làm gia nghiệp….
III.   Thực hành P.Â.:
1.     Con người tốt, vì là con Thiên Chúa tốt lành.
Tôi luôn nhớ lời dạy của Cha Giám Đốc trong giờ huấn đức ngày xưa khi còn trong Chủng Viện, Ngài hay nói: Tên cướp của giết người cũng có ít nhất là 5% hay 10% tốt vì tất cả là Con Chúa. Việc anh ta cướp của hay giết người không làm thay đổi bản chất con người, hay con Thiên chúa nơi anh ta. Nên ‘il était un voleur!’anh ta có lần đã là người ăn trộm chứ không bao giờ được nói là ‘il est un voleur!’, anh ta là tên ăn trộm, đã ăn trộm và bây giờ cũng vẫn ăn trộm! Lời kết án!
Chuyện mới xảy ra đây thôi làm tôi buồn sâu đậm và không tránh được sự khinh thường dành cho hai anh em linh mục. Một linh mục đã già ngoài 80 tuổi và linh mục khác cũng không còn trẻ, đã hơn năm mươi tuổi đời. Hai linh mục đã lên mét với Giám Mục của mình về một anh em linh mục khác và xin được quyết định rút quyền thi hành bí tích dành cho linh mục vô phúc nầy trong hai địa phận mà hai linh mục trên đang hoạt động.
Lý do: Trong thư Quyết định của Giám Mục nói rõ những linh mục đương quyền trên yêu cầu vì lý do mục vụ, cha ấy không được quyền cử hành bí tích trong địa phận của hai Giám Mục nầy.
Đọc lệnh treo chén của Giám Mục địa phương, ai cũng nghĩ là linh mục kia xấu xa, nên bị trừng phạt. Không ai tốt cả, nhưng không chắc gì linh mục bị treo chén xấu hơn hai linh mục đi tố cáo anh em mình? Làm linh mục, ai không có lúc là chiên lạc hay yếu đuối sa phạm tội. Nhưng “yếu đuối của anh em tôi cũng chính là yếu đuối của tôi!” như Thánh Phaolô từng nói.
Linh mục là Chúa Kitô khác. Xin hai Cha hãy dành đôi phút tự vấn xem: Mình làm điều đó có lợi gì cho Chúa, cho Giáo Hội hay cho người khác không? Hai Cha có cách nào làm tốt và có tình nghĩa hơn không? Có lần nào hai Cha đã thức đêm, thắp đèn quét nhà tìm đồng tiền bị mất hay băng rừng lội suối để tìm con chiên lạc không? Thật là uổng nếu vì sự tố cáo của hai Cha, mà anh em linh mục kia nản chí, bất cần bỏ chức linh mục của mình. Hai Cha có biết rằng: anh em linh mục kia đã đau khổ đến mức nào khi nhận được hai thư treo chén kia không?
Xin hai cha hãy thức tĩnh lương tâm con người: Không ai xấu xa tồi tệ đến nỗi chúng ta phải khai trừ hay triệt cho họ chết đâu?
2.     Hàn mặc Tử, người xấu số thật hữu ích cho đời.
Hàn Mặc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Nhưng gốc gác Tử, ông nội là Phạm Bồi người Thanh Hoá, vì có liên quan đến phong trào Cần Vương chống Pháp sau khi thất bại đã trốn vào miền rừng núi Thừa Thiên.
Đến đời thân phụ Hàn Mặc Tử, để tránh rắc rối về lý lịch, cụ Phạm Bồi đã đặt tên là Nguyễn Văn Toản. Sau khi cha mất sớm, Nguyễn Trọng Trí được mẹ đưa vào sống với người anh cả Nguyễn Trọng Nhân lúc này đương là công chức Sở Cầu đường ở Quy Nhơn, Bình Định. Năm 16 tuổi, Trí được mẹ cho ra Huế học. 18 tuổi đoạt giải nhất cuộc thi thơ do một Thi xã tổ chức lấy bút hiệu Lệ Thanh và Phong Trần…
Năm 20 tuổi, Hàn Mặc Tử làm công chức Sở Đạc Điền Quy Nhơn dưới quyền của cha người yêu Kim Cúc là Thương tá Hoàng Phùng. 22 tuổi theo Thúc Tề vào Sài Gòn viết báo làm thơ, lấy bút danh Hàn Mặc Tử. Năm 24 tuổi thấy mình lâm bệnh, Tử lui về Quy Nhơn xuất bản tập thơ đầu Gái quê. Khi xác nhận bệnh phong, Tử gần như cô biệt với bên ngoài.
Tử đã dốc tàn lực viết nên những thi phẩm nổi tiếng, trong đó có bài Đây thôn Vĩ Dạ để tặng người yêu là Kim Cúc. Hàn Mặc Tử đã trút hơi thở cuối cùng vào sáng sớm một ngày cuối năm 1940 tại nhà thương Quy Hoà trong tiếng chuông nhà nguyện đưa anh về thế giới bên kia… Có lẽ khi viết Trường tương tư tặng Mai Đình, Tử đã linh cảm đến sự chia lìa: "Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt"…
Giã từ cõi nhân gian vừa lúc 28 tuổi xuân xanh bởi sự nghiệt ngã của tật bệnh, Hàn đã ra đi trong cơn đau điên loạn không phải của thể chất mà ở tâm hồn. Ngôi sao ấy xoẹt qua bầu trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX, Hàn là thi nhân trẻ nhất và cũng là người bỏ đi đầu tiên. Nhưng Hàn đã kịp để lại những áng thơ tuyệt bút, kết tinh từ tài năng và tình yêu cùng với thương đau. Nhà thơ Hồng Thanh Quang từng nói:  "Khi mọi sự bất lực thì thơ xuất hiện". Có lẽ đúng như vậy. Con người ta thường khi tột cùng hạnh phúc và tận cùng thương đau thì cái tinh tuý nhất của tâm hồn còn lại là những câu thơ.
Nhờ tình yêu, Hàn đã cống hiến cho chúng ta những thi phẩm vừa lãng mạn vừa dữ dội. Năm người con gái bước vào đời Hàn đều để lại dấu ấn thi ca, dù có những đau tình hận, những hờn trách tình phụ. Đời Tử hẩm hiu không phải vì Tử mà vì cảnh huống số phận bắt Tử phải thế. Là người yêu chân thành nên có lúc Tử rơi vào tuyệt vọng: "Họ đã đi rồi không níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa bưa/ Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ…".
Người tốt số hay người xấu số như nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Tất cả đều là Con Thiên Chúa và được tiền định để được cứu độ.
Xin hãy làm người tìm chiên lạc bằng một khuyến khích hay một an ủi hơn là một khai trừ.
Xin hãy thức đêm, đốt đèn thắp sáng cả nhà để tìm cho được xem người anh em xấu số của mình đang trốn tránh ở ngõ ngách nào trong cuộc đời nầy.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên