Lời Chúa Lễ Đức Mẹ Lên Trời _ các bài suy niệm

Các bài suy niệm
LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI


MỤC LỤC

CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?

ĐỨC MARIA: ĐỊA CHỈ TRÊN CAO

(GM Giuse Vũ Duy Thống)
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.

THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

(GM GB. Bùi Tuần)
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:“Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem... cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.


THĂM VIẾNG VÀ BÀI CA NGỢI KHEN


VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo Hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: "Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn...". Biết được tin này, Maria "vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa", cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo như lời sứ thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta đi từ "người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người "nữ tỳ" hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động" ("Truyền tin cho Maria", Cerf, 1981, Lectio divina số 106, tr-222). Trong Maria Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới mọi bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? có lẽ là vì bác ái: để giúp Êlisabét? Thánh Luca không thoả mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mặc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai gặp nhau. Về điều này L.Legrand đã nhận xét rất đúng: "Khi đọc chính bản văn hình như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của Êlisabét và hát bài ca ngợi khen" (Sđd, tr.219).
2. Và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Giacaria, Maria truyền đến cho chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai Êlisabét, con trẻ trong lòng bà nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hylạp, từ "nhảy mừng" có nghĩa là: "Nhảy bật lên", "nhảy lên", "nhảy múa".
Như thiên thần đã báo tin cho Giacaria, Gioan được "đầy Thánh thần ngay trước khi sinh" (1,15) nên Gioan nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được "đầy Thánh Thần" nên Êlisabét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ mà bà đang trải qua.
Khi cất tiếng thán phục, Êlisabét nhìn nhận Maria và "đứa con trong lòng" được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Êlisabét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh Tv109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria tước hiệu "Mẹ Chúa tôi".
Cuối cùng sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em"; "đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng, mối phúc Thanh Luca dành cho một tên khác của Maria: "Người đã tin" (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa
Bài ca "Ngợi khen" là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: "theo lối văn kể chuyện... một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sôlô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thuỷ, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Lu ca cho chúng ta thấy rằng hình ảnh đẹp về Mẹ". ("Cahiers- Evangile", số 77, tr.45).
Các câu 45 và 47 chi phối tất cả phầ còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những ký công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên "Mẹ Chúa". Ở đây Luca diễn tả văn bản đầy cảm hứng này qua sự đối lập đầy lòng khiêm tốn của người "nữ tỳ" và sự cao cả của Đấng "quyền uy" đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca "nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ cá nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1,48) tới dân nghèo (1,52); từ người nữ tỳ (1,48) tới Israel tôi tớ (1,54) ("Cahiers- Evangile", số 77, tr.47).
Những kì công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc xuất hành, là Lề luật, nhưng trên hết đó là kỳ công của đã hoàn tất nơi Maria: sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người Con này Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Chúa Cứư Thế đến với lòng tin tưởng không phải là một giáo thuyết, nhưng là một sức mạch chuyển lay nhằm thay đổi và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: "người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng". (Cahiers- Evangile, số 77, tr.48).

MẸ LÊN TRỜI

Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau:"Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.  Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?"
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm  (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa".
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: "Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”  (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu - Thiên Chúa làm người - tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người”   Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới"
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng  “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa" là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái "tôi" của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: "Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến" (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương  hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng  (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.

CHÚ GIẢI CÁC BÀI ĐỌC

Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng  mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: "Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc "thực hiện chính mình". Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.

TRẬN CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ DỮ

Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ.  Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù "người phụ nữ" chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian ; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.

ĐỨC MARIA ĐỒNG TRINH, HỒN XÁC LÊN TRỜI

Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
 “Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không ?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
- Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
- Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
- Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5) .
 “Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô,  một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).

PHẬN HÈN CAO TRỌNG

(Trầm Thiên Thu)
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người”(Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài”(Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác:“Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.

 

VẦNG TRĂNG TUYỆT VỜI

LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1.  Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2.  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ
     ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3.  Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh
     khiết vẹn toàn.
4.  Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào
     trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời : một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta.  Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
 “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
                             Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
                   Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tình Mẹ còn mãi

Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
 “Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…”
 (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng  cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì  có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
 Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?"
- Biết gì ? "Biết là, biết là con thương Mẹ không ?"
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền