SỐ PHẬN LẠ LÙNG CỦA
PHẬT GIÁO
Tại sao Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn Độ
Tại sao Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn Độ
Vào khoảng năm 525 trước Jésus, Đức Phật
đã tiên đoán trước: Hai
ngàn năm trăm năm sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu tín đồ trên toàn thế
giới, nhưng lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo từng là
một trào lưu tình thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X. Tại sao lại xảy ra
như thế? Sau đây là lời giải đáp của Ông Philippe Cornu.
Báo Le Point phỏng vấn
Philippe Cornu (nguyenhoaivan.com)
Lời giới thiệu của
người dịch:
Ông Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại Học Phật
Giáo Âu châu, Giảng sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương
(Inalco) của Pháp. Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều
kinh sách từ các tiếng Tây tạng, Trung hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết
báo và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông là
quyển Tự điển bách khoa Phật giáo.
Sau đây là một bài báo ngắn do nữ ký giả Cathérine
Golliau phỏng vấn ông, đăng trên một tờ tạp chí lớn của nước Pháp là Le Point
(số ngoại lệ với chuyên đề về nên Văn minh Ấn độ, số 3 tháng 7 và 8, năm 2008).
Báo Le Point: Phải định nghĩa Phật giáo như thế nào?
P. Cornu: Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự giải thoát khỏi vô minh và lầm
lẫn, nguồn gốc đưa đến khổ đau, và giúp đạt được Giác ngộ, tức một thể dạng lột
trần được mọi ảo giác, và từ thể dạng đó sự thực tối thượng sẽ hiển hiện. Người
ta thường xem Phật giáo là một tôn giáo, trong chiều hướng Phật giáo chủ trương
một con đường đạo đức, một luận thuyết triết học, đề nghị những nghi lễ và cách
thức tu tập tinh thần trong mục đích giải phóng con người: vì thế cần phải đặt
lòng tin nơi Đức Phật để bước vào con đường ấy. Tuy nhiên Đức Phật không phải
là một vị trời, và Đạo Phật, còn gọi là Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật)
không phải là một tôn giáo thờ trời, theo ý nghĩa một vị trời sáng tạo.
Báo Le Point: Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không?
P. Cornu: Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của Đạo
Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số người không chấp
nhận khía cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là
Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân. Con đường
của Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên
tính cách đặc thù trong luận lý và kinh nghiệm của Đức Phật khác hẳn các hình
thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.
Báo Le Point: Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai
trào lưu đó?
P. Cornu: Trọng tâm trong những lời giáo huấn của Đức Phật là tính cách vô thường của
tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một “cái ngã” trường tồn, và những gì mà
thông thường người ta gọi là sự tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều
kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên
đới với nhau, những hiện tượng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác
hiện hữu.
Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận
đứng, bằng bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những
hiểu biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi.
Tại sao lại như thế?
Bởi vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ
kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo
ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được
nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể đích thực
của hiện thực.
Báo Le Point: Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống
nhau...
P. Cornu: Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ “karma”
(nghiệp) (1). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma tượng
trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế giới thiêng
liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển Upanisad, thì chữ
karma lại mang ý nghĩa về luân lý: tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay
ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi
khi tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về sau.
Ngoài ra, Ấn độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh:
chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và
không thể nào thoát ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế.
Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và
trước hết là một ý đồ trong tâm thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên
thủy làm nguồn gốc và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác
nhau không thể lầm lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu
ta không làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá
cả karma trước khi nó chín muồi.
Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một
cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định sẳn: mỗi cá nhân phải tự nắm
lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một
thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có
thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi). Chữ
samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật
giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.
Nhưng đối với Ấn độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra
khỏi samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được giải thoát để hội nhập
với thể dạng Nhất Nguyên Vĩ Đại.
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một
sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục
vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính mình
ra khỏi cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ
trong từng trường hợp một.
Vòng quay Samsara (luân hồi)
Báo Le Poìnt: Phật giáo có thu nạp các vị trời (2) của Ấn giáo hay
không?
P. Cornu: Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp vào Phật
giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đã thu nạp
nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.
Thật vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc
vào cảnh giới samsara (luân hồi). Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong
sự lầm lẫn! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn, họ
sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi bản chất có
tính cách toàn diện của khổ đau.
Báo Le Point: Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần
đến các vị trời?
P. Cornu: Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ đơn giản đặt
mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị trời không phải là mục đích cũng
không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương nhiên không hề là một đối tượng
cho sự nương tựa.
Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của
Giác ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người
đã chọn những lời giáo huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo: Đức
Phật, Dharma (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).
Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị
hướng dẫn; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã
khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ
là những tu sĩ, những vị hiền nhân.
Các vị trời được xem như những gì mang tính cách truyền
thống lâu đời: người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem
họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần
dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải
thích sự thành công của Phật giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức
để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá.
Báo Le Point: Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống
lại trật tự xã hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng?
P. Cornu: Từ nguyên thủy, chủ đích của Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội.
Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế
giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả
mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự dứt bỏ.
Báo Le Point: Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại
sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể phù hợp được với sức
mạnh của uy quyền?
P. Cornu: Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng chỉ chủ
trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân: nhưng nếu vì thế mà xã hội
có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân đã tu tập để tự biến cải tận
đáy lòng của chính họ.
A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị; triều
đại khởi sự bằng chém giết: và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ
đau là gì và đã quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn: quả thật có một
huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử, và đã đem đến
thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông. Trong đó có một phần sự
thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng
là một vị vua độc đoán...
Báo Le Point: Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á châu lại biến mất
ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp
tục sinh động trên bán lục địa này?
P. Cornu: Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải tiến của Đạo
Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc
xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã bị các đạo quân Hồi giáo
tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.
Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng
hạn như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về
nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy
diệt hơn (3).
Cũng nên thẳng thắn mà nói: chính những đạo quân Hồi giáo
đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.
(Hoàng Phong lược dịch)
GHI CHÚ THÊM CỦA
NGƯỜI DỊCH
1- Karma: tức là nghiệp. Kinh sách
Tây phương không dịch mà thường dùng thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù
của Phật giáo dưới hình thức chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara,
nirvana, atman v.v… Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và
người đọc cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ
lại các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm từ
tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.
2- Các vị trời ở đây có nghĩa là các
thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng liêng, v.v… được tôn thờ
trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc Ấn giáo, một số phát xuất từ các
nên văn hoá địa phương tùy theo quốc gia nơi Phật giáo phát triển.
3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy
thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào thế kỷ
thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá tất cả các trung
tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn độ cũng bị tan rã,
Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về các vùng trung tâm trên
lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không thù nghịch hẳn với Phật giáo,
nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các vua chúa của vùng Bắc Ấn.
Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi
giáo phát xuất từ Afghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại học
Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và giết hết
các tu sĩ.
Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối
cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ
trên đất Ấn.