CHÚA NHẬT XVI QUANH NĂM, NĂM C
Stk 18. 1-10a; Cl 1.24-28;
Lc 10. 38-42
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Chọn lắng nghe Lời Chúa, chọn cầu nguyện, hay chọn sống mật
thiết với Chúa là đã chọn phấn tốt nhất và nắm chắc hạnh phúc thiên đàng.
Muốn làm Tông đồ Chúa, tức thành môn đệ chính tông của
Chúa, trước nhất phải là tông đồ cầu nguyện và thứ đến là tông đồ hoạt động hay
cũng gọi là hoạt động tông đồ.
II. Vấn nạn P.Â.
Gia đình Mátta, Maria trong Phúc Âm Luca hôm nay và gia
đình có ba chị em Mátta, Maria và Ladarô ở Betania có phải là một gia đình không?
Matta có nghĩa: nữ gia chủ hay người đàn bà chăm lo mọi
việc cho gia đình.
Maria có nghĩa: người đàn bà khôn ngoan hay nhiều khi chỉ
đơn giản là người đàn bà.
Maria trong tiếng Do Thái gọi là Miriam hay Mariam
Ladarô có nghĩa: Chúa đã ra tay giúp đỡ.
Câu chuyện hai chị em gái mang tên Matta và Maria làng
Bêtania được tường thuật trong các Phúc Âm khác nhau:
Chúa đến thăm hai chị em cô Matta và Maria như trong phúc
Âm Luca 10.38-42 hôm nay. Chúa bị cô Matta trách cứ vì để cho cô em Maria ngồi
bên cạnh lắng nghe Lời Chúa mà không phụ giúp chuyện dọn bữa cho Chúa và các
môn đệ. Nhưng Chúa lại dạy rằng: Maria đã chọn phần tốt nhất. Ở đây, chúng ta
không thấy đề cập tới tên Ladarô.
Hai chị em Matta và Maria trong Phúc Âm Gioan 11. 1- 44
sai người đến báo tin là bạn của Chúa là Ladarô bị bịnh nặng. Chúa đến muộn,
Ladarô đã chết và đã chôn trong mồ bốn ngày rồi. Nhưng Chúa đã cho Ladarô sống
lại và ra khỏi mồ. Qua đó Chúa muốn mạc khải rằng: Chúa là sự sống lại và là sự
sống.
Maria làng Bêtania xức dầu thơm trên chân Chúa được tường
thuật trong Phúc Âm Gioan 12.1-8. Phúc Âm tường thuật rằng: Matta, Maria và
Ladarô mời Chúa dùng bữa tối. Đang khi ăn thì Maria đã xức dầu thơm hạng đắt tiền
trên chân Chúa, lấy tóc mình mà lau. Cả phòng sực nức mùi thơm, đến nỗi Giuđa
phải lên tiếng là “phí quá! Phải chi đem bán cũng được ba trăm đồng bạc mà bố
thí cho người nghèo. Phúc Âm cũng tường
thuật là: Có đông người đến xem, không chỉ vì Chúa Giêsu, nhưng còn muốn chứng
kiến tận mắt Ladarô được phục sinh và đang ăn uống với Chúa.
Đa số các nhà chú giải Phúc Âm đều đồng ý: Matta, Maria
và Ladarô là ba chị em cùng một gia đình ở làng Bêtania, không xa Giêrusalem lắm.
Chúa và các môn đệ hay tới lui với gia đình nầy.
Ladarô chính là người Chúa đã cho sống lại sau khi đã chết
chôn bốn ngày trong mồ được tường thuật trong Phúc Âm Gioan 11.1-44. Ông cũng
chính là người ngồi dùng bữa với Chúa được tường thuật trong Phúc Âm Gioan 11.
1-8
Matta chính là người đã cằn nhằn Chúa “Thưa Thầy, em con
để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?” Matta cũng chính là người khi
nghe tin Chúa đến làng thì ra đón và nói rằng: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em
con đã không chết!” như tường thuật trong
Phúc Âm Gioan 11, 1-44. Matta cũng chính là người đã can ngăn Chúa đừng
cho mở tảng đá lấp mộ ra vì: “Thưa thầy Ladarô đã chết bốn ngày rồi và đã nặng
mùi!”
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng Maria trong Phúc Âm Luca
hôm nay khác với:
Người phụ nữ có tiếng xấu được tường thuật trong Phúc Âm
Luca 7.7-39. Phúc Âm không nêu tên người phụ nữ. Bữa tiệc nầy xảy ra ở nhà Ông
Simon Biệt Phái. Người phụ nữ xức dầu nơi chân Chúa. Rồi Chúa kể dụ ngôn hai
người thiếu nợ, một người thiếu nhiều và một người thiếu ít. Cả hai không có gì
trả, nên đều được tha… Chúa kết luận: Chúa là Thiên Chúa, Chúa có quyền tha tội
Việc xức dầu thơm cũng được tường thuật trong Matthêô 26.
6-13 và Matcô 14. 3-9, xảy ra ở làng Bêtania, nhưng nhà Ông Simon tật phung.
Người phụ nữ nầy không được nêu tên và chị ta xức dầu thơm trên đầu Chúa (Mat.
26.7) chứ không phải trên chân Chúa như trong Phúc Âm Gioan và Luca.
Maria trong bài Phúc Âm Luca hôm nay, ngồi bên chân Chúa
để lắng nghe lời Ngài cũng chính là Maria đã không ra đón Chúa khi Chúa đến
làng Bêtania, sau khi Ladarô chết bốn ngày. Maria hôm nay cũng chính là Maria
đã xức dầu trên chân chúa, lấy tóc lau, nhưng không có khóc hay lấy nước mắt mà
rửa chân Chúa như trong các Phúc Âm khác.
Cách chung: Truyền thống Công Giáo nhìn nhận
có một Maria thôi:
Maria của Bêtania chính là Maria Madalêna. Maria Madalene
cũng là người phụ nữ mang tiếng xấu.
Truyền thống
chính thống giáo cho rằng có hai Maria khác nhau:
Maria của Bêtania chính là Maria trong phúc Âm hôm nay:
Ngồi bên chân chúa và lấy dầu thơm xức chân chúa, lấy tóc mình lau. Còn Maria
mang tiếng xấu là Maria Madalêna, người xức dầu thơm, khóc lấy nước mắt rửa
chân và lấy tóc lau.
Sao Maria ngồi bên chân Chúa và nghe Lời người dạy lại là
người chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi? Tốt nhất so với cái gì và sao lại
sẽ không bị lấy đi?
Bản văn tiếng Việt đang sử dụng nói “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị
lấy đi!”.
Bản văn tiếng
Anh: “Mary has chosen a better part, which will not
be taken away from her” – Mary đã chọn phần tốt hơn.
Bản văn tiếng
Pháp cùng nghĩa với tiếng Anh “Marie a
choisi la meilleure part: elle ne lui sera pas enlevée” Mary đã chọn phần tốt
hơn.
Ý nghĩa không có gì khác nhau giữa tốt hơn, trong bản dịch
tiếng Anh và tiếng Pháp hay tốt nhất trong bản văn tiếng Việt. Tuy nhiên, cách
so sánh tốt hơn để nói lên so sánh giữa tông đồ cầu nguyện và tông đồ hoạt động.
Còn “tốt nhất” là so sánh tối thượng cấp, có ý nói tốt hơn hết mọi chuyện.
Không sai, nhưng không cụ thể như đang so sánh giữa hai cái tốt: tông đồ cầu
nguyện và tông đồ hoạt động. Việc tất bật chuẩn bị bữa ăn là chuyện tốt và cần,
nhưng không tốt và cần cho bằng so với việc lắng nghe Lời Chúa.
Chúa thật tình không có ý bảo Matta: Bỏ ngay việc bận bịu
lo chuẩn bị cơm tối đi! Đến ngay đây nghe Lời Chúa. Nếu như thế Chúa và các
tông đồ sẽ không có cơm ăn ban tối. Chúa chỉ muốn cho một so sánh: Lắng nghe Lời
Chúa hay chuẩn bị ăn tối đều tốt và cần, và việc tông đồ cầu nguyện cần hơn và ưu tiên hơn
tồng đồ hoạt động. Vì lắng nghe Lời Cbúa, tức tiếp xúc với
Chúa và sống mật thiết với Chúa thì mới nhận ra việc gì phải làm, làm thế nào
và qui hướng việc làm về Chúa.
Thật vậy: Nhiều người quá bận bịu và vất vả lo việc hoạt
động tông đồ để rồi sinh ra cáu giận, nóng tính và xúc phạm đến người khác. Hoạt
động tông đồ mà lại không khiêm tốn, thiếu hiền lành và mất bác ái. Cũng có nhiều
người quá hăng say trong hoạt động tông đồ mà mất hướng hay sau cùng qui hướng
về lợi lộc hay ích kỷ cá nhân. Cũng có những người lăn xả hoàn toàn vào việc xã
hội sau cùng không còn giờ dâng lễ, nguyện gẫm hay cầu nguyện. Người ta hay
dùng từ vào đời hay dấn thân giúp đời để diễn tả hoạt động tông đồ nầy.
Thí dụ: Phong trào linh mục thợ ở Pháp năm 1950 đã đưa gần 2000 linh
mục ra khỏi giáo xứ và hoạt động mục vụ. Đa số đã không quay lại với đời sống
linh mục độc thân và với công việc mục vụ giáo xứ.Vì quá bận bịu, họ không còn
giờ đọc kinh, nguyện gẫm và dâng lễ và mất dần nhiệt tâm làm linh mục.
Tại sao “sẽ không bị lấy đi!”? Muốn lấy đi cái gì phải có cái gì để lấy. Người
sống đời nội tâm, chuyên cầu nguyện và sống mật thiết với Chúa thì họ không có
sở hữu một thứ gì cả. Họ không có gì cả: Không của cải, không chức quyền danh
tiếng, không tìm lợi cho bản thân. Họ chỉ có Chúa và công việc của Chúa thì
không ai tranh giành hay bon chen tước đoạt Chúa với họ. Ở đây chúng ta hiểu được
thánh vịnh 16 nói: Chúa là gia nghiệp đời con. Người sống đời nội tâm, chọn
Chúa làm gia nghiệp là chọn phần tốt nhất và không ai lấy Chúa là gia nghiệp đi
được.
Khái niệm về thần học giải phóng phát xuất từ Nam Mỹ?
Thần học giải
phóng, nhấn mạnh đến công bình xã hội, xây dựng trên nền tảng
Công Giáo phát xuất ở Nam Mỹ năm 1950 nhằm đương đầu với chủ nghĩa Marxism đang
chinh phục giới thợ thuyền và công nhân nghèo ở Âu Châu.
Thần học giải phóng được phát triển mạnh vào năm 1968 và
hầu hết các Giám Mục, linh mục ở Nam Mỹ đều bị chinh phục bởi chủ trương chống
bất công xã hội do giới cầm quyền thời bấy giờ. Đến năm 1980 từ chóp bu Giáo Hội
như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng ủng hộ và vận động cho thần học giải
phóng nguyên thuỷ dựa trên căn bản Kinh Thánh Công Giáo để chủ trương nhân quyền
và chống bất công, bênh vực người nghèo. Tuy nhiên thần học giải phóng không
làm cách mạng giải phóng lật đổ giai cấp địa chủ bóc lột của Marxism. Thần học
giải phóng dựa vào Kinh Thánh Công Giáo chủ trưong: Tất cả mọi người, khác chủng
tộc, màu da hay ngôn ngữ đều là con Thiên Chúa, có giá trị nhân phẩm và quyền
làm người ngang nhau. Không chấp nhận chế độ chủ nô theo hình thức mới là giới
cầm quyền lợi dụng quyền hành, cấu kết với giới giàu có bóc lột dân nghèo như ở
Nam Mỹ.
Phong trào Thần học giải phóng phát triển đến Bắc Mỹ
trong giới người da đen. Nên chúng ta thấy xuất hiện Thần Học Giải Phóng người
da đen. Tuy nhiên, ở Bắc Mỹ, thần học giải phóng nghiên chiều về chủ trương bạo
động của Marxism nhằm đấu tranh giai cấp đầy bạo lực. Nó mất hẵn tinh thần thần
học giải phóng lúc khởi thuỷ nhằm dùng Kinh Thánh xác định giá trị con người và
chống bóc lột từ giai cấp cầm quyền giàu có. Hiện tại Phong Trào Thần Học Giải
Phóng do Công Giáo chủ trương đã bị biến chất sang hoạt động đấu tranh chính trị
và bị giới Công Giáo kém quan tâm và đặt thành vấn đề ý nghĩa thần học của nó:
Nghiêng chiều về hoạt động chống bất công xã hội gần như toàn bộ và lơ là chuyện
tông đồ cầu nguyện.
Đức Tổng Giám Mục Óscar Roméo của El Salvador, Nam Mỹ có
thể nói là chứng nhân và cũng là nạn
nhân của Thần Học Giái Phóng nguyên thuỷ nầy. Năm 1979 Ngài lên tiếng bênh vực
nhân quyền của người nghèo trước phong trào giải phóng do chính quyền tổng thống
Junta chủ trương. Năm 1980 Ngài biên thư cho Tổng Thống Mỹ, Jimmy Carter chống
đối việc đem quân đội ủng hộ chính quyền El Salvador lúc bấy giờ. Ngài kêu gọi
quân đội phải thể hiện tinh thần Công Giáo bằng cách không tuân phục chính quyền
để áp bức người nghèo. Ngài bị bắn chết đang khi dâng Thánh lễ tại La Divina
Providencia ngày 24 tháng 3 năm 1980. Những hình chụp ghi lại là máu Ngài hoà
chung với máu Thánh Chúa trên bàn thờ.
III. Thực Hành P.Â.
1. Người cầu nguyện thường nói ít:
Quang cảnh Chùa Phật Giáo thường hơi tĩnh mịch và âm u một
chút, nhưng cũng thường rất yên lặng và mang vẻ siêu thoát. Thường vừa bước qua
cổng chùa chúng ta thấy mái Chùa nằm im, phủ rong rêu, dưới những tàng cây to rợp
bóng. Vào Chùa, người ta không thấy nhiều ánh sáng, nhưng mờ ảo linh thiêng.
Không nghe tiếng người thuyết giảng ồn ào hay tiếng cầu kinh tập thể, nhưng
nghe tiếng đại hồng chung vang từng nhịp cách khoảng, chậm, đều, trầm lắng.
Cảnh Chùa tĩnh mịch, im lặng và siêu thoát. Khung cảnh của
qui tâm, của xét mình, của suy niệm.
Những đan viện kín hay chiêm niệm của Công Giáo cũng rất
chú trọng vào sự thinh lặng và yên tĩnh nầy. Dòng kín có nhiều nữ tu Việt Nam ở
Dolbeau Mistassini, Québec, thật yên tĩnh và thoát tục. Đan viện các Cha dòng
Xitô ở Rouge-Mont Québec cũng thật là nơi lý tưởng để chiêm niệm và cầu nguyện.
Dòng Nữ tỳ Chúa Giêsu và Đức Mẹ ở Gatineau, nơi Soeur Cêcilia Thanh Thi tu,
cũng thật yên lặng. Mình Thánh chúa bày ra suốt ngày đêm và quí Nữ Tu thay
phiên nhau chầu Thánh Thể và cầu nguyện cho linh mục suốt ngày và đêm. Đan viện
Bênêdictô ở Mission, BC., cũng là nơi lý tưởng của âm thầm, của cầu nguyện và
tu hành.
Người cầu nguyện thường chuộng nơi yên tĩnh, tiêu pha nhiều
giờ trong yên lặng và nhất là ít nói.
Thật không có gì khó chịu cho bằng khi gặp một linh mục
hay một tu sĩ nam nữ mất bệnh “thích nói!” ba hoa lắm lời nhiều khi rỗng tuếch.
Họ giành nói và nói liên tục, nói nhiều lời và nhiều chuyện. Nói nhiều, thường
không chỉ là dấu của đời sống thiếu nội tâm và cầu nguyện nhưng còn sẽ dễ bị vướng
những sai sót trong lời ăn tiếng nói. Nói nhiều quá, tức ít giờ lắng nghe. Ít lắng
nghe, tức ít học hỏi hay ít suy niệm. Thường người nóí nhiều, kiến thức không đủ
rộng và đánh mất cơ hội lắng nghe và học hỏi. Nói nhiều che đậy một nội tâm trống
rỗng.
2. Cầu nguyện, nghề của tôi ( trích Đường Hy Vọng của Đức Hồng Y
Fx. Nguyễn văn Thuận)
118.
Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy
móc tự động có thể làm hơn con.
119. Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động.
120. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối
liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.
121. Con tin lời cầu nguyện toàn năng không? Hãy suy lời Chúa: "Thày
nói thật với các con, hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa, sẽ mở."
Có công ty bảo hiểm nào bảo đảm cho chắc chắn hơn lời ấy không?
122.
Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện.
Không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin.
123.
Con hãy cầu nguyện luôn luôn bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã
nói: "Hãy cầu nguyện không ngừng."
124.
"Khi hai hay ba người hiệp nhau vì danh Ta, thì Ta ở
giữa họ." Lời Chúa Giêsu đã ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu
nguyện, họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện
kiên trì giữa gian nan và cô đơn.
125.
Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức
tin, phản bội Hội Thánh? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: họ
bỏ cầu nguyện từ lâu.
126.
Đừng xem thường việc đọc kinh, các Tông đồ đã thưa:
"Xin Thày dạy các con cầu nguyện." Chúa Giêsu đáp: "Khi các con
cầu nguyện hãy nói: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..." chính Chúa
Giêsu dạy đọc kinh.
127.
Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc
chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: "Khi con cầu nguyện, đừng lo
phải nói gì! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo,
và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con." Không cần hình thức, chỉ cần tâm
tình phụ tử.
128.
Lời kinh phụng vụ rất đẹp lòng Chúa, vì đó là lời Thánh
Kinh, là lời cầu của Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Giêsu. Con hãy dùng sách lễ,
sách ca vịnh, sách nguyện mà cầu nguyện.
129.
Cha nói: "thứ nhứt là cầu nguyện", không phải
là vô căn cứ; Chúa Giêsu đã bảo: "Maria đã chọn phần nhứt", ngồi dưới
chân Chúa, nghe lời Chúa, mến yêu Chúa. Maria đã được Thánh Thể, Thánh Kinh,
Thánh Nguyện.
130.
Con tìm bạn để an ủi, nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sao con
không tìm người bạn không bao giờ phản bội con, và có thể ở với con liên lỉ bất
cứ nơi nào?
131.
Một người thánh mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi
xem, họ sẽ sụp đổ không mấy hồi.
132.
Muốn biết công việc Tông đồ của ai, con hãy xem người ấy
cầu nguyện thế nào.
133.
Nếu con không phải là người cầu nguyện, không ai tin con
làm việc vì Chúa thôi.
134.
Tại sao trong Hội Thánh khủng hoảng? Vì hạ giá sự cầu
nguyện.
135.
Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các
Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu,
quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thứ như người trộm lành.
136.
"Người ta sống không chỉ nhờ bánh mà còn nhờ lời
Chúa": Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh Nguyện. Nếu không, con không có sự sống
Thần Linh.
137.
Một người chưa vào đạo mà cầu nguyện là dấu rất tốt; khởi
sự cầu nguyện là khởi sự có đức tin.
138.
Tinh thần cầu nguyện cũng như một lò lửa nung đốt tâm hồn
tông đồ của con. Muốn nuôi ngọn lửa ấy, con hãy nhen vào đó những thanh gỗ lớn
của hy sinh, của những cuộc tĩnh tâm và cả những que củi nhỏ của lời nguyện tắt
và hy sinh thầm kính.
139.
Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con,
con hãy xem gương bà đau băng huyết: động đến gấu áo Chúa, được nhậm lời ngay.
140.
Con tội lỗi không dám ra trước mặt Chúa, nhưng lời Hội
Thánh khiến con vững tâm: "Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con." tất cả sự
thương khó Chúa Giêsu, công nghiệp Đức Mẹ và các Thánh không đủ bao bọc lời cầu
nhỏ bé của con sao?
141.
Con tưởng trẻ em chưa làm gì được, người bệnh không làm
gì được cho Hội Thánh nữa? Không đâu, sau lời cầu chính thức của Hội Thánh, lời
nguyện của trẻ em và bệnh nhân rất đẹp lòng Chúa. Năng nhắc họ ý thức!
142.
Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không
phải là giờ làm bài, là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng
nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.
143.
Nhiều xứ không có linh mục đã vững đức tin suốt nhiều chục
năm, nhờ đọc kinh cầu nguyện trong các gia đình.
144.
Lời cầu nguyện của con phải phổ cập, quả tim con phải chứa
đựng cả thế gian, nhưng đừng vì đó mà quên những thực tế trong con, và chung
quanh con.
145. Sách thiêng liêng làm nhiều người nên thánh, đó là dầu nuôi lò lửa cầu
nguyện.
146. Đặc biệt với tâm hồn toàn hiến, đáng lẽ trong căn cước phải khai:
"nghề nghiệp: cầu nguyện". Các nghề khác thế gian đều làm cả. Thế
gian đòi hỏi con giữ đại lý và xin nài con: "cầu nguyện cho tôi!"
147. Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc âm không
phong thánh người lười biếng. Maria chọn phân nhứt: nghe Chúa, để lời Chúa thấm
tâm can, lay chuyển mình làm việc trong mình, với mình. Có gì hoạt động bằng sự
lột xác, sự biến đổi ấy?
Tôi đã đọc “Kinh Xin Ơn” nhờ lời cầu bàu của Đức Hồng Y
Phanxicô Nguyễn văn thuận hằng ngày. Tôi cũng đã giảng dạy và phổ biến Video
“The Road to Hope” do Salt and Light Television của Toronto sản xuất. Tôi đã mua
và biếu sách của Đức Hồng y cho một ít Giám Mục và linh mục Canada và xin họ đọc
và cầu nguyện.
Lời Cầu nguyện không chỉ của riêng tôi, nhưng của nhiều
người đã được Chúa nhậm lời. Tháng bảy nầy, án phong thánh cấp địa phận của Đức
Hồng y được niêm phong để chuyển sang giao đoạn Rôma. Như vậy tiến trình phong
Thánh sẽ bước sang giai đoạn 3: Phong Á Thánh, hay Chân Phước sau khi đã thu thập
những dữ kiện và bằng chứng của ít là một phép lạ mà Đức HY. đã làm qua lời cầu
nguyện của ai đó.
Chắc chắn Đức Hồng Y. Phanxicô Thuận đã là thánh. Nhưng vẫn
mong cho ngày tuyên phong chân phước cho Đầy Tớ Chúa Phanxicô Nguyễn văn Thuận
sớm thực hiện. Vì Ngài đã là gương cầu nguyện và Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của
chúng ta qua Đức Hồng Y.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên