Lời Chúa cntn 17c _ hãy xin thì sẽ được


Hãy Xin Thì Sẽ Được  
Rất nhiều lần cầu xin mà ta không thấy kết quả nhãn tiền thì ta phải xác tín là việc cầu xin đó không bao giờ trở thành vô ích… Chúa vẫn âm thầm ban một ơn nào đó cho ta chẳng những tương đương với ơn ta xin mà còn vượt cả điều mong ước của ta nữa.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Trong bài Tin Mừng ta vừa nghe, Chúa dạy ta phải cầu nguyện và kiên nhẫn cầu nguyện.
Cầu nguyện là gì?
Mỗi lần ta nhắc lòng trí ta lên với Chúa là cầu nguyện, khi làm bất cứ việc gì, ta dâng cho Chúa, cũng là cầu nguyện. Tuy nhiên cầu nguyện đúng nghĩa có bốn hình thức sau: ngợi khen, cảm tạ, thống hối và xin ơn.
Chúng ta phải kiên nhẫn cầu nguyện. Trong dụ ngôn ta vừa nghe, tuy lúc đầu người đến vay bánh bị từ chối, nhưng do kiên nhẫn mà đạt được mục đích, và Chúa còn nói: “Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người xin, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.”
Sở dĩ nhiều khi ta thiếu kiên nhẫn trong việc cầu xin là vì cầu xin mãi mà không thấy kết quả, ta đâm ra chểnh mảng, thất vọng, không cầu xin nữa.
Chúa phán: “Các con hãy xin thì sẽ được.” nhưng đôi khi ta cũng cần phải nghĩ tới trật tự, sự an bài của Chúa trong cả vũ trụ bao la. Một người gieo mạ bên một con lộ, trên lộ đó một người đang phơi thóc, phơi khoai mì, cầu xin Chúa cho trời nắng. Muốn có mưa dưới ruộng, đồng thời lại có nắng trên lộ, là bắt Chúa phải thực hiện phép lạ: giữa lộ trời nắng chang chang, còn hai bên lộ trời lại mưa xối xả, và nếu luôn luôn Chúa phải cho ta kết quả như trên, tức là chúng ta bắt Chúa luôn luôn phải xáo trộn trật tự của thiên nhiên. Vậy rất nhiều lần cầu xin mà ta không thấy kết quả nhãn tiền thì ta phải xác tín là việc cầu xin đó không bao giờ trở thành vô ích, tuy trời không nắng hay mưa, nhưng rồi Chúa vẫn âm thầm ban một ơn nào đó cho ta chẳng những tương đương với ơn ta xin mà còn vượt cả điều mong ước của ta nữa.
Bác sĩ Alexis Carrel được giải thưởng Nobel về y khoa năm 1912. Tuy là một người Pháp nhưng khi đã nổi danh, ông sang nghiên cứu và làm việc tại Mỹ. Cũng do để tâm nghiên cứu các phép lạ xảy ra tại Lộ Đức, ông đã viết một loạt bài nghiên cứu về cầu nguyện, đứng trên quan điểm y khoa. Vì đang làm việc tại Mỹ nên các bài khảo cứu này được ông viết bằng tiếng Anh. Thấy những bài khảo cứu này có giá trị, tuần báo Semaine Religieuse ở Thụy Sĩ đã dịch từ tiếng Anh sang tiếng Pháp rồi chẳng những phổ biến tại Thụy Sĩ mà còn đem phổ biến khắp nước Pháp. Khi ông đọc những bài khảo cứu này bằng tiếng Pháp, ông thấy có nhiều câu dịch sai và diễn tả không đúng ý của ông, nên ông đã viết lại bằng tiếng Pháp, thu tập các bài khảo cứu này thành tập sách lấy nhan đề là “CẦU NGUYỆN”. Trong sách này ông chủ trương: Bất cứ người nào cầu nguyện, họ cũng được một cái gì. Theo kinh nghiệm của ông, ông thấy có những người mắc bệnh, những chứng bệnh cần phải có thuốc, cần phải có một thời gian điều trị, như bệnh lao, bệnh sưng ruột, gẫy xương… thế mà qua mấy phút cầu nguyện, bệnh nhân tự nhiên thấy đau dữ dội, và liền sau cơn đau đó vết thương lành lại, bệnh nhân cảm thấy khỏe như thường. Một số bệnh tới nay chưa có thuốc điều trị dứt như ung thư gan, ung thư bao tử… thế mà sau khi cầu nguyện, tự nhiên bệnh nhân được khỏi. Ông quả quyết khi bệnh nhân cầu nguyện, tuy họ không khỏi bệnh ngay thì cũng vẫn xảy ra những thay đổi trong tâm lý và thể xác mà bất cứ một lương y nào hữu ý nghiên cứu cũng nhận thấy. Bệnh nhân cầu xin, bệnh không thuyên giảm, nhưng tâm hồn họ trở thành mạnh mẽ, kiên nhẫn chịu đựng, việc phấn đấu với bệnh tật kiên cường hơn. Như vậy không một lời cầu xin nào trở thành vô ích.
Bác sĩ Boissarie, trong tập sách nhan đề “Lourdes depuis 1858” (Lộ Đức từ 1858 tới nay) đã thuật lại đầy đủ chi tiết nhiều câu chuyện được khỏi một cách lạ thường, tỷ dụ như câu chuyện sau đây:
Célestine Dubois, khi bảy tuổi, đã bị một khúc kim gẫy ăn sâu vào lòng bàn tay, bàn tay sưng lên và các ngón tay co quắp lại. Người ta đã khía vết thương, mở rộng vết thương ra và trong ba tuần lễ không làm cách nào kéo khúc kim đó ra được. Thời đó y học chưa tiến như ngày nay. Ngày 20 tháng 8 năm 1886, cô nhúng bàn tay vào nước suối Lộ Đức, tự nhiên khúc kim này vạch một đường dài 8 phân lồi ra ngoài qua đầu ngón tay cái.
Em bé Mathilde Verkimpe 10 tuổi ở tại Loochristi. Em bị què, dùng nạng mới đi được. Các bác sĩ tại nhà thương ở Gand công bố em sẽ bị què suốt đời. Mẹ em đến cầu xin ở hang đá Oostackker, và lấy nước suối Lộ Đức được phân phát tại đây về xoa bóp cho em trong một tuần chín ngày. Tới ngày thứ chín tức ngày 12 tháng 2 năm 1874, em bé tự nhiên khỏi què, đi không cần dùng tới nạng.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
  • Đề tựa của Lm. HK