Suy niệm hạnh thánh _ 01/12

Thánh MARY JOSEPH ROSELLO
(1811-1880)
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Thánh Mary Joseph sinh ở làng ven biển Albissola, nước Ý, trong một gia đình Công Giáo đông con. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã có ý định đi tu.
Thiên Chúa Quan Phòng đã can thiệp qua vị giám mục địa phương, là người biết đến tài dạy giáo lý của thánh nữ, nên đã cung cấp cho ngài và các cô dạy giáo lý một ngôi nhà để làm lớp học.
Từ một khởi đầu khiêm tốn ấy đã phát triển thành tu hội Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu vào năm 1837.
Các nữ tu nào bị đau yếu đều cảm nhận sự chăm sóc đặc biệt của ngài.
Sơ Mary Joseph từ trần vào tháng Mười Hai năm 1880 và được phong thánh năm 1949.
Suy niệm 1: Ý định đi tu
Ngay từ khi còn nhỏ, Roselle đã có ý định đi tu.
Ngài xuất thân từ một gia đình rất giàu lòng đạo đức và đồng thời cũng rất giàu con cái, nhưng lại rất nghèo tiền của vật chất, đến mức ngài phải chấp nhận đi giúp việc cho một đôi vợ chồng láng giềng khá giả nhưng lại hiếm muộn.
Hấp thụ bầu khí đạo đức của gia đình, vào lúc 16 tuổi, ngài có ý định đi tu. Nhưng dù lòng khao khát ấy mãnh liệt đến đâu đi nữa, ngài đã bị từ chối chỉ vì quá nghèo, không có của hồi môn. Đôi vợ chồng đạo đức nhưng hiếm muộn mà ngài giúp việc trong bảy năm, lẽ ra đã có thể giúp ngài thể hiện giấc mơ ấy, nhưng họ không muốn làm như vậy chỉ vì quá yêu quý thánh nữ và họ muốn nhận ngài làm con nuôi. Dầu vậy ngài vẫn nuôi dưỡng ước nguyện ấy bằng việc không ngừng tự nhủ: Thiên Chúa sẽ Quan Phòng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho thế giới có nhiều ân nhân hảo tâm trợ giúp các ơn thiên triệu gặp khó khăn về kinh tế.
Suy niệm 2: Thiên Chúa Quan Phòng
Thiên Chúa Quan Phòng đã can thiệp qua vị giám mục địa phương.
Niềm vững tin vào Thiên Chúa Quan Phòng mà ngài hằng tự nhủ đã trở thành hiện thực. Vào năm 1837, Vị giám mục địa phận biết đến tài dạy giáo lý của thánh nữ, nên đã cung cấp cho ngài và các cô dạy giáo lý một ngôi nhà để làm lớp học. Ngài vội quy tụ 3 người bạn cùng chí hướng và dần dần biến nơi này thành Tu Hội với danh xưng là Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu.
Đúng như tâm sự của một người sau giờ kinh Thần Vụ ban sáng đã đọc tiểu sử của ngài: Cả cuộc đời thánh nhân chỉ cần tóm gọn trong một câu, đó là một người tin vào Thiên Chúa Quan Phòng.
Một câu chuyện cũng xác minh. Một ngày kia, hết tiền. Mẹ Rosello tập trung các học sinh mồ côi từ Nhà Chúa Quan Phòng cũng như các chị em trong cộng đoàn. Mẹ xin họ hãy cùng nhau cầu nguyện. Sau vài phút, Mẹ bảo chị quản lý vào hộp tiền xem sao. Chị đi và trở lại với hai đồng tiền. Mẹ bảo: Chúng ta chưa cầu xin tha thiết đủ, cần cầu xin tha thiết và sốt sắng hơn nữa. Một giờ sau, chị quản lý lại vào xem hộp tiền và trở ra với nét mặt ngạc nhiên, vì hộp tiền đã đầy ắp đủ cho nhu cầu của mọi người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân luôn vững tin vào Thiên Chúa Quan Phòng.
Suy niệm 3: Dạy giáo lý
Thiên Chúa Quan Phòng đã can thiệp qua vị giám mục địa phương, là người biết đến tài dạy giáo lý của thánh nữ.
Giáo lý viên là ai?
Tông điệp "sứ vụ Đấng Cứu độ" của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: "Những cán bộ chuyên trách, những chứng tá trực tiếp, những người Phúc âm hoá không thể thay thế, tượng trưng cho sức mạnh cơ bản của cộng đoàn Kitô giáo, đặc biệt là các cộng đoàn trẻ".
Giáo luật khoản 785/1 dạy: "Những giáo dân được huấn luyện thích đáng và trổi vượt về đời sống Kitô giáo, để dưới sự hướng dẫn của các vị thừa sai họ dấn thân giảng dạy giáo lý Phúc âm, tổ chức các cử hành Phụng vụ và các việc bác ái". Sổ tay hướng dẫn về giáo lý viên có dạy: "giáo dân" được Hội Thánh uỷ thác cách đặc biệt, theo nhu cầu địa phương, để giúp những người chưa biết Đức Kitô và cả tín hữu nữa, có thể nhận biết yêu mến và bước theo.
Ngoài ra bộ Phúc âm hoá còn dựa theo tông huấn "Kitô hữu giáo dân" để nhắc các mục tử có thể trao cho giáo lý viên giáo dân làm những việc không thuộc riêng chức thánh như: thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ toạ buổi cầu nguyện, rửa tội, cho rước lễ tùy theo các qui tắc, luật định; vai trò giáo lý viên giáo dân đặt nền tảng trên bí tích Rửa tội, Thêm sức, Hôn phối nữa.
Là một giáo lý viên, Roselle chẳng những truyền đạt mà còn sống nhờ thấu hiểu giá trị của câu lời Chúa: Ai kêu cầu danh Chúa sẽ được ơn cứu độ (Cv 2,21) và nhất là câu: Hãy tìm kiếm Nước Chúa trước hết… Đừng lo lắng cho ngày mai (Mt 6,33-34). Ngài đã nêu gương sống niềm tin vào lời cầu nguyện và tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, với ý thức: Không ai có thể cho điều mình không có! Không ai có thể dạy những gì mình không biết! Đúng như nhận định của Đức Giáo Hoàng Phalô VI: người thời đại sẵn sàng lắng nghe các nhân chứng hơn là các thầy cô, và nếu họ có lắng nghe các thầy cô, chỉ bởi vì những thầy cô ấy là những nhân chứng” (Evangelii Nuntiandi, 41).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các giáo lý viên luôn sống đời chứng nhân như một củng cố cho những gì giảng dạy.
Suy niệm 4: Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu-phát triển
Từ một khởi đầu khiêm tốn ấy đã phát triển thành tu hội Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu vào năm 1837.
Đức Giám Mục Savona nhận thấy nơi Roselle năng khiếu có thể quy tụ và giáo huấn giới nữ trẻ. Người cung cấp cho một ngôi nhà để làm lớp học. Từ một khởi đầu khiêm tốn ấy đã phát triển thành tu hội Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu vào năm 1837 với công việc dạy dỗ giới trẻ và chăm sóc các bệnh nhân. Vài năm sau, nhóm phụ nữ đạo đức ấy tuyên khấn, và Mary Joseph làm bề trên của tu hội ấy trong 40 năm, ngài đặt cộng đoàn dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ Từ Bi và Thánh Giuse. Câu nói thời danh của thánh nữ là: "Đôi tay để làm việc, trái tim để dâng cho Chúa." Ngài muốn cảm nghiệm cay đắng của ngài khi còn nhỏ sẽ không cản trở các thiếu nữ muốn dâng mình cho Chúa. Do đó, bất cứ thiếu nữ nào cũng được nhận vào cộng đoàn của ngài mà không cần của hồi môn.
Công đoàn phát triển lớn mạnh. Vào năm 1875, ngài mở thêm những nhà mới ở Buenos Aires, Argentina, và dần dần đạt tới con số hơn 3.000 nữ tu trong 200 nhà rãi khắp Ý, Argentina và Hoa Kỳ. Trước thành quả đáng ghi nhận này của Mẹ Roselle, Đức Giám Mục cho phép Mẹ thiết lập một cơ sở nhằm hỗ trợ ơn thiên triệu cho các chủng sinh không có khả năng vào được chủng viện.
Mẹ qua đời vào ngày 07.12.1880. Ngài được nâng lên bậc Chân Phước vào năm 1938 và được phong Thánh vào năm 1949.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho thế giới chúng con hiện nay vốn có chiều hướng suy giảm về ơn thiên triệu thì đừng xảy ra trường hợp một ơn gọi bị mất chỉ vì tình trạng đói nghèo.
Suy niệm 5: Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu-linh đạo
Từ một khởi đầu khiêm tốn ấy đã phát triển thành tu hội Nữ Tử của Đấng Nhân Hậu vào năm 1837.
Một nét linh đạo làm nền cho đời sống thiêng liêng và công việc phục vụ của các chị em trong tu hội, đó là lòng tôn thờ Phép Thánh Thể. Mẹ răn dạy: Hãy đến cùng cùng Chúa Giêsu. Người yêu quý các bạn và hằng trông chờ các bạn đến để phú ban nhiều ơn huệ. Người hiện diện trên bàn thờ được các thiên thần vây quanh chầu chực và thờ lạy. Hãy để các ngài dành chỗ cho các bạn và liên kết với các ngài khi làm những gì các ngài làm”. Đó chỉ là một trong những lời chỉ bảo của một thánh nhân.
Mẹ Rosello thấu biếu tầm quan trọng của việc tôn thờ Thánh Thể cũng như bao nhiêu hồng ân nhận được, bất cứ khi nào một tâm hồn khiêm tốn và chân thành thống hối đến gần với Chúa trong Phép Thánh Thể Cực Trọng của Người, vốn đích thực hiện diện trong Mình, Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Người. Mẹ cũng xác tín viếng Thánh Thể thì không phải viếng Bí Tích mà đúng hơn là viếng chính “Người”, là Chúa và là Đấng Cứu Độ Giêus Kitô, cũng là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Chí Thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín rằng viếng Thánh Thể là đến với một Nhân Vị và Ngôi Vị.
Suy niệm 6: Chăm sóc
Các nữ tu nào bị đau yếu đều cảm nhận sự chăm sóc đặc biệt của Roselle.
Thái độ chăm sóc phải phát xuất từ một tâm hồn dạt dào đức ái trọn hảo, vốn đã nung nấu và giúp Mẹ Roselle thực hiện ngay từ hồi còn thơ ấu. Ngày kia, trên dường cùng đi viếng thánh điện với một số bạn hữu, một cô bạn ít tuổi nhất yếu sức không theo kịp nên tụt lùi dần đàng sau. Sôi sục lòng yêu thương, Roselle không phải cùng đi bộ mà cõng cô bạn suốt hai dặm đến thánh điện. Đức ái là giúp khi có người cần đến.
Từ bài học của một kinh nghiệm bản thân, Mẹ Roselle luôn tiếp nhận vào cộng đoàn bất cứ ơn gọi nào, mà không bao giờ đòi hỏi phải có của hồi môn. Đúng hơn, ngài chỉ yêu cầu một điều: một con tim dạt dào yêu thương. Điều mà Đức Giêsu đã yêu cầu nơi Phêrô để an tâm chuyển giao trách nhiệm (Ga 21,15-19). Ngài luôn sống yêu thương đặc biệt ân cần chăm sóc các bệnh nhân, như được bày tỏ trong lời nói sau đây: "Chúng ta phải quan tâm hơn hết các bệnh nhân như một nguồn hỗ trợ vững chắc nhất của chúng ta. Qua sự kiên nhẫn, sự đau khổ và lời cầu nguyện của họ, toàn thể cộng đoàn này đã sống còn cho đến ngày nay, nhờ bởi họ luôn luôn tìm kiếm và đạt đươc những ơn sủng cho chúng ta từ Cha Nhân Lành."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy yêu rồi làm gì thì làm.