CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?
Mặc dù rất đau khổ khi nghe tin cậu con
trai yêu quí Jacques vừa tử trận, nữ bá tước Littry vẫn không quên việc phục vụ
các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870 ở thung lũng Marne, xứ
Eperny.
Một hôm, người ta chở đến bệnh viện một thương
binh người Đức. Dù anh ta là đồng đội của những người đã làm con mình chết, bà
vẫn vui vẻ tiếp nhận và săn sóc. Nhưng thật bất ngờ là trong đồ đạc của anh ta
bà đã bắt gặp chiếc ví và đồng hồ của con trai mình.
Ai có thể diễn tả được tâm trạng đau đớn
của một người mẹ khi gặp kẻ giết chết người con thân yêu của mình. May thay!
một mảnh giấy trong cái ví của Jacques rơi xuống. Bà cúi xuống nhặt lên. Những
nét chữ thân quen như mang theo cả giọng nói của người con thân yêu mới qua đời
vừa an ủi vừa thêm sức mạnh cho bà: “… Mẹ
yêu quí, con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con bị tử
trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu
nguyện cho con …”
Thế là bà lại cúi xuống tiếp tục săn sóc
anh lính Đức, dù rất đau lòng.
Không ai mà không có những cảm nghiệm đau
đớn về một sự mất mát. Mỗi cái mất có một nỗi đau riêng: Ai cũng thấy cảm thương
và đau xót cho các nạn nhân của một thiên tai hay một cuộc khủng bố nào đó; nhưng
có sự khác biệt đáng kể giữa nỗi đau nơi một người xem tin thế giới và nỗi đau
nơi thân nhân của một nạn nhân. Nỗi đau này thực sự chạm đến và làm thay đổi
cuộc sống của họ; nỗi đau không để cho họ ngồi yên.
Khi đến để cứu độ con người, Đức Kitô chỉ
có một công việc là nói cho mọi người về Thiên Chúa, vì ơn cứu độ được bắt đầu
khi người ta biết Chúa. Khi biết Chúa, người ta biết được tình yêu, và thấy được
hạnh phúc thật của mình: “Lạy Chúa là
Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa”.
Biết Đức Kitô là biết Thiên Chúa, biết Đức
Kitô cũng là biết được chính mình, nên vấn đề ơn cứu độ nằm ngay trong câu hỏi
của Đức Kitô “các con bảo Thầy là ai?”.
Phêrô vừa tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, thì Chúa tiên báo ngay về cuộc
khổ nạn. Cuộc khổ nạn của Chúa giúp cho chúng ta tránh xa những sai lạc, để có
một cái biết đúng đắn về Đức Kitô, tình yêu hiến thân của Chúa, và về con người
mới, hoa trái của ơn cứu độ.
Biết Đức Kitô là cái biết đem lại ơn cứu
độ, nhưng cũng là một cái biết gây đau đớn vì khi nhận ra tình yêu của Chúa
cũng chính là lúc chúng ta ý thức được mình đã phản bội Chúa, đã gạt Thiên Chúa
- Tình Yêu ra khỏi cuộc sống. Càng biết tình Chúa yêu, càng thấy mình bất xứng;
càng biết mình bất xứng, càng thấy rõ hơn tình yêu bao la của Chúa: “Họ sẽ ngước
mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua”. Đó là một nỗi đau sống động và hiện
sinh: “họ sẽ khóc than người như khóc
than con một, họ sẽ thương tiếc người như quen thương tiếc đứa con đầu lòng đã
chết”; mà tột đỉnh của nỗi đau đó là thấy mình đã đánh mất chính mình khi
lìa bỏ Chúa, nỗi đau của vua Giôsia khi tử thương tại Ađad-remmon, trong cánh
đồng Magêđon, vì bất tuân lời Chúa. (x. 2 Sb 35,22-25)
Như thế, biết Đức Kitô là khởi điểm và
thành toàn của ơn cứu độ. Cái biết đó làm cho chúng ta vừa đau đớn nhận biết sự
bất xứng của mình, vừa được an ủi khi thấy tình yêu tác sinh của Chúa. Cái biết
đó thúc đẩy và dẫn đưa chúng ta bước vào quĩ đạo của tình yêu Chúa, con đường
dẫn đến hạnh phúc: “Ai muốn theo Ta, hãy
từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng mình vì Ta thì sẽ cứu được mạng
sống mình”.
Nói cách khác, biết Đức Kitô là biết được ơn
gọi của mình khi chịu phép rửa tội, là mặc lấy Đức Kitô, là để tình yêu Chúa hướng
dẫn và thúc đẩy, là sống tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống con người.
Cuộc đời thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu rất
bình dị nhưng cũng rất vĩ đại, nhiều đau khổ nhưng tất cả đều mang lại hạnh
phúc, vì ngài đã hoàn toàn để tình yêu Chúa hướng dẫn và nâng đỡ, như lời ngài
kể lại:
“Một lần tại nhà giặt, con
ngồi giặt ở đằng trước một chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước
bẩn vào con. Thoạt đầu, con muốn lùi ngay ra lau mặt cho chị ấy biết để giúp
con một điều là đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghĩ lại, con thấy thế
là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng mình một cách rất đại lượng, và
con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa con lại cố nén mình để ước ao
nước bẩn ấy bắn lên con nhiều hơn. Qua nửa giờ, con đã cảm thấy sự vui thú được
vấy nước bẩn. Con định bụng hễ sau này có dịp, lại đến chốn đất lành ấy để làm
giàu một cách không mấy khó khăn.”
Thập giá là tình yêu hiến mạng vì người mình yêu,
tình yêu tác sinh, tình yêu giải thoát. Đấng Cứu Chuộc tôi đã không ngần ngại
vác lấy nó. Tại sao tôi lại ngại ngần?
Lm. HK