ĐÊM ÂM U
CHỢT BỪNG SÁNG HÂN HOAN
Đèn
sáng khắp nơi trong đêm Giáng sinh, nhưng tâm hồn tôi chỉ thực sự sáng bừng lên
khi có sự hiện diện của Chúa.
Lm. HK
Tại Haminski, một ngôi làng nhỏ bé của Hà lan, có một
thanh niên tên là Hans Feken. Anh bị mọi người khinh miệt, bỏ rơi vì vóc dáng
bên ngoài quá xấu xí. Buồn sầu và tủi hổ vì số phận hẩm hiu, anh lầm lũi kéo lê
cuộc sống của thân xác, nhưng tâm hồn như đã chết từ lâu.
Rồi cũng đến một ngày mà cuộc sống cô độc của anh cũng chấm
dứt. Anh qua đời, tất nhiên là trong cô đơn và thinh lặng như anh đã sống. Sau
khi an táng, người ta tìm thấy tờ di chúc của anh. Người ta ngạc nhiên thấy gia
tài của anh lớn đến 40.000 đôla, được để lại một cho một em gái chẳng có liên lạc
bà con ruột thịt gì với anh. Tên em là Amatin.
Trong tờ di chúc, anh đã nói lên cái lý do mà anh muốn nhường
tất cả gia tài cho cô bé: “Tất cả các
ông, các bà, các cô, các cậu đều đã cau mày hoặc quay mặt nhìn đi nơi khác mỗi
lần gặp tôi. Nhưng một ngày kia, tôi đã gặp Amatin, em đã âu yếm tặng tôi một nụ
cười khả ái đầy tình thương. Đó chính là nụ cười chân thành và duy nhất mà tôi
đã nhận được trong suốt cuộc đời đau thương và ngắn ngủi của tôi.”
Hans đã gửi 40.000 đôla, tất cả những gì anh có, cho một
nụ cười vì nụ cười đó làm cho anh được sống như một
con người trong giây lát.
Hôm nay, cả vũ trụ cũng phải hợp với Đức Maria hát kinh
Magnificat để ngợi khen và tạ ơn Chúa vì công trình cứu độ! Giây phút Chúa nhập
thể làm người cũng là giây phút nhân loại bắt đầu được giải thoát khỏi ách nô lệ
tội lỗi, giây phút mỗi người được mời gọi bước vào một đời
sống mới, sống trong sự tự do của người con Chúa.
Dân Chúa phải chịu áp bức bởi Syria và Assyria, và sau
này bởi đế quốc La mã diễn tả phần nào sự khốn đốn nhân loại phải chịu từ ban đầu,
dưới ách thống trị của Satan: “Nếu ngươi
hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi”
(St 4,7).
Đôi khi tội lỗi làm cho người ta đi từ thoả mãn đến tự
hào: “Chúng khoe tội mình như Xơ-đôm, chứ
không giấu giếm” (Is 3,9), nhưng tội lỗi ràng buộc, xiềng xích người ta vào
sự ác, và tước đoạt tự do của con người: “Họ
hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến
hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy” (2Pr 2,19), mà phận nô
lệ thì không thể nói đến hai tiếng bình an, dù có ở lầu son gác tía.
Nhưng kìa, ngôn sứ Isaia đã tiên báo cho họ một Tin Mừng:
“Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một
người con đã được ban tặng cho ta.” (Is 9,5). Với người đang chịu áp bức
thì chẳng có gì vui hơn khi được tự do. Trong Đức Kitô, lời hứa ban ơn cứu độ
đã được thực hiện: “Này tôi báo cho anh
em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu
Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11).
Amatin chỉ nở một nụ cười, và Hans thấy mình được làm người;
còn Chúa, khi nhập thể, “đã tự hiến để cứu
chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính” (Tt 2,14), và tất cả
chúng ta, dù nhiều tội lỗi, được Chúa ôm lấy mà đem về với Chúa Cha, như một người
con.
Vâng, bất cứ ai tin vào Đức Kitô sẽ được giải thoát khỏi
ách thống trị của tội lỗi và được hưởng sự tự do thực sự của người con Chúa. “Những ai ở trong Đức Kitô Giêsu, thì không
còn bị lên án nữa. Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô
Giêsu, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8,1-2).
Sau khi chịu chức linh mục, cha Vianney được sai đến Ars,
một xứ đạo khô khan, nguội lạnh, và từ lâu không có Thánh lễ. Có người nói với
cha Vianney: “Ở đấy chẳng có việc gì để
làm cả”, nhưng cha Vianney trả lời: “Như
vậy là có nhiều việc phải làm rồi đó.”
Với cái nhìn của một ‘Kitô-khác’, cha thấy được cái đói
và sự tối tăm trong tâm hồn đang hoành hành ở xứ Ars, như ở bất cứ nơi nào
không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì thế, việc đầu tiên cha Vianney thấy cần
phải làm là tìm cách đưa Chúa vào đời sống dân chúng. Ngài đã bắt đầu từ chính
ngài: Thức dậy từ hai giờ sáng để cầu nguyện, rồi dâng Thánh lễ, và sau Thánh lễ,
cha còn quì lại cám ơn và cầu nguyện đến trưa, gối quì trên nền nhà, mắt hướng
về Nhà Tạm.
Rồi sau đó,… người ta dần dần kéo nhau đến làm cho ngôi
nhà thờ cũ kỹ lại trở nên chật chội với những hối nhân…?!
Như với Dân Chúa xưa, sự hiện diện của Chúa làm cho tâm hồn
mọi người bừng sáng lên: “Dân đang lần bước
giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Người người tuôn đến nhà thờ Ars mà trước đó bị bỏ hoang
cho thấy Chúa luôn là nỗi khao khát nằm sâu thẳm trong tâm hồn mỗi
người.
Để niềm vui ngày Giáng sinh được nên trọn vẹn, để tâm hồn
bừng sáng lên vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống, tôi tiếc gì mà không
“từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê
trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt
2,12).
Đèn sáng khắp nơi trong đêm Giáng sinh, nhưng tâm hồn tôi
chỉ thực sự sáng bừng lên khi có sự hiện diện của Chúa.