LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A - TÌNH YÊU BA NGÔI
LỄ CHÚA BA NGÔI (năm B) - Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần
LỄ THÁNH THỂ NĂM A - BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI
LỄ THÁNH TÂM NĂM A - NGÀY THẾ GIỚI XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH
MỤC – TÌNH YÊU
LỄ KÍNH TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ MARIA
LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
LỄ HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A - TÌNH YÊU BA NGÔI
Lời Chúa: Ga
3, 16-18
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa
Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất,
nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận
phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai tin Người
Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không
tin vào danh Con Một Thiên Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Thiên
Chúa tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một bạn trẻ
hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi
thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi
dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận
xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm
nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời
trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình
và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch
bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa
thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa
Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập
thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để
đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc
Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa
đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng
việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì
thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải
Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu
thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu
thương.
2. Dấu thánh
giá
Khi suy tư về
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu thánh giá.
Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước khi ra khỏi
nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện, buổi tối
trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức quan
trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu
thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những
ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa
trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện
qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với
niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho
những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người
Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi
Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý
thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy
không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống
như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời
nói của chúng ta.
Xin Chúa cho
chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ vậy, đời
sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này, chúng ta sẽ
“như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).
3. Mầu nhiệm
Ba Ngôi
Augustinô
thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm,
con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu
óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé
đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi
dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã
tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc
nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm
gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
- Thưa ông,
cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh nhân lắc
đầu bảo nó:
- Cháu không
thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước
lên và mỉm cười nói:
- Múc cạn nước
đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh
Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người
không thể nào thấu hiểu được.
(D.Wahrheit,
Tìm về cõi phúc, tr 68).
4. Hình ảnh
về Ba Ngôi
Đây quả là một
mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi,
nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể
dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công viên Hyde
Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn
nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc
nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là
dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây."
Dĩ nhiên tất
cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta
có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ
có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể
nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một phương
pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà
thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận
ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và cuối
cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo
(3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào
chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng
ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng
ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước
khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...
5. Tình yêu
hiến thân.
Ngày
20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới
25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho
bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà
chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối cùng,
chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh.
Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết
mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công
và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ."
Bác sĩ
Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy
sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt."
6. Bài học từ
loài ngỗng.
Vào mùa thu,
khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có
tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ
đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng
cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng
bay từng con một.
Mỗi khi một
con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo
và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay
theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
Khi con ngỗng
đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn
đầu.
Tiếng kêu của
bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.
Cuối cùng,
khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời
khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho
đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập
vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet theo Thùy Trang
forward)
7. Tình yêu
của Thiên Chúa
Một bà kia
không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo,
nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù
ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở
đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình
yêu là gì cả. Bà bảo:
- Tôi không
hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu
yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại
nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu
nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ
trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi
người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong
nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này
vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng
trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:
- Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ
tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
8. Để biết
Chúa
Một người
nông dân đi lên thành phố. Đang di trên một đường phố đông đúc ồn ào, bổng dưng
người nông dân dừng lại và nói với người bạn. “Tôi nghe có tiếng dế kêu.” Người
bạn ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao anh có thể nghe được tiếng dế kêu giữa những ồn
ào của đường phố như thế này?” Người nông dân trả lời: “Tôi có thể nhận ra được
tiếng dế kêu bởi vì tai tôi rất nhạy cảm với tiếng dế.”
Rồi ông ta lắng
nghe một cách chăm chú hơn, và đi theo tiếng dế, tìm thấy chú dế ở dưới phiến
đá cạnh cửa sổ của một ngôi nhà. Người bạn vẫn không hề nghe thấy tiếng dế đó.
Người nông dân vẫn không lấy gì làm lạ. Như để giải thích cho người bạn hiểu,
ông móc túi ra mấy đồng bạc cắc và thảy nó lên vỉa hè. Nghe tiếng bạc kêu lẻng
kẻng, tất cả khách qua đường đều dừng lại và nhìn. Người nông dân mới nói với
người bạn: “Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ. Không ai trong họ có thể nghe được tiếng
dế kêu, nhưng tất cả họ lại nghe được tiếng đồng bạc kêu. Người ta nghe thấy những
tiếng mà tai họ mong mõi nghe, còn những cái khác họ không nghe thấy.
Điều tốt nhất
mà một Kitô hữu có thể làm, đó là mong muốn được lắng nghe và suy niệm Tin Mừng
về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta muốn biết Chúa bằng cách nhìn vào lời
nói việc làm, cuộc sống của Chúa Giêsu.
9. Thiên
Chúa tình yêu --“Như Thầy Đã Yêu” --Thiên Phúc
Một người
cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước
nhà.
Cô bé vui vẻ
mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gang –
ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng
ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô
bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng
cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn
biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy,
một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc,
đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa
là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo.
Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy
diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người
lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng
vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương
dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
Chỉ những ai
sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai
thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chỉ những ai
biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa tình yêu.
10 Tình yêu
trao tặng
Ngày kia, tại
một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và
mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi
chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn
loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những
trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người
mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét:
"Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt
nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ
không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
- Tại sao
ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền
giáo đáp:
- Vì Ông Trời
đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta
sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy nghĩ hồi
lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể
làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền
giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy
trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy
cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó
các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn
tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã
cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với
em kháo láo với nhau rằng:
- "Bầu
trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng, con
hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ
Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta?
11. Con búp
bê và biển cả--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong quyển
sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông
A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng
muối:
Muốn tìm hiểu
thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra
bờ biển và hỏi:
- “Biển cả
ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả
đã trả lời:
- “Biển cả
là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho
toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả."
Con búp bê bằng
muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa
hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng
muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại,
nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
- “Này con
búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì
đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa nhịp với
ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao
giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại
với đôi chân đã mất."
Tính tò mò
thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối
đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh chị em
thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống nhau. Cũng
thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người đã được
Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về Thiên
Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng khăng
khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế nào.
12. Hình ảnh
của Thiên Chúa
Tại vùng
Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông
trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là
ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì,
mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng
nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những
người láng giềng chung quanh.
Ông có một
người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một
tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn,
một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ
đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được
về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ
rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang
thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là
Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con
nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người
con nuôi mới nhận được.
Nhiều người
bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả
lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi
thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh chị em
thân mến,
"Tôi
thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó." Câu nói
này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên
Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã
yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt
như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một
Ngài nơi mỗi người chúng ta.
13. Yêu
thương nhau vì là con Thiên Chúa
Ngày xưa, có
một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu có nên những người con của
ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật chất. Nhưng chuyện đời thường vốn
vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có hai và cứ thế tánh đua đòi lâu dần
thành thói quen, đến lúc không tự chủ được thì đã trở thành lòng tham vọng.
Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng nhiều và lan ra trên mọi bình diện.
Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc nào cũng khổ tâm vì luôn nghĩ đến sự
hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn lớn, cả năm người con nhờ tiền của
cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ ngơi, nhưng vẫn giữ thói ganh ghét
tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ có. Nhìn cảnh các con không hòa thuận,
người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên bảo nhưng dù ông có cố gắng thế nào, các
con ông cũng không bỏ được lòng hiềm kỵ lẫn nhau làm ông rất đau lòng.
Sau một thời
gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông cho gọi
các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông hai bó đũạ Các con ông
còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì thì ông lấy một
bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:
- Các con mỗi
đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh nghiệm về việc các con làm dễ
hay là khó.
Ông vừa dứt
lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa thật dễ dàng.
Nhìn những
chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông cũng yên lặng đợi chờ. Một
lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và dịu dàng nói:
Tốt. Các con
đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ, các con lại thay phiên nhau
bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.
- Người con
trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến nỗi mặt mũi đỏ gay nhưng
không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh chịu thua, người cha bảo
người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn, người con thứ hai không bẻ
được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người con thứ năm bỏ cuộc mới ôn tồn
nói:
- Đó, các
con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các con cứ tiếp tục hiềm tị
chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không khác gì một chiếc đũa và
các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con biết thương yêu đoàn kết
lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ gãy được các con.
Năm người
con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và hối hận vì ăn ở với nhau
không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy ông vừa khóc, vừa hứa là từ
nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương đoàn kết với nhau.
Sau đó người
cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất đoàn kết và thương mến lẫn
nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không một ai có thể cạnh tranh được
với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của gia đình họ.
14. Trí khôn
và ý muốn
Cách đây
hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà
vua cho vời ông ta đến và hỏi:
- Thượng đế
là gì?
Ông ta xin
nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì
ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai
ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin
thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin
hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận
dữ hỏi:
- Cho tới
bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy giờ ông
ta mới ôn tồn trả lời:
- Xin nhà
vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ
tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối.
Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
15. Mặt trời
ban sự sống
Một vị linh
mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi
bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
- Tôi không
thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba
Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi,
nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một
luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
- Ông có tin
mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
- Dĩ nhiên
là có.
Vị linh mục
nói tiếp:
- Phải, ánh
sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức
nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một
phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh
sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa
Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào
về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu
về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16. Đủ ánh
sáng chưa?
Bà Rose đã
viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm nay tôi đã 40 tuổi và tôi
mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của tôi, nhưng ông ấy không được
có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời cho bà Rose như sau,
"Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng mong muốn để
tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không bao giờ tìm
được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người đàn ông hoàn
hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng ta đều có những
khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có tội
Vậy thì
chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm nay Giáo Hội giới
thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có thể tin tưởng, cậy
trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là Thiên Chúa Ba
Ngôi.
17. Ba ngọn
nến lung linh--Huệ Minh
Làm việc mệt,
tôi thường nghe nhạc cho thư giãn tâm hồn. Thi thoảng mở lên và nghe: Ba ngọn nến
lung linh.
Ba là cây nến
vàng
Mẹ là cây nến
xanh
Con là cây nến
hồng
Ba ngọn nến
lung linh
A à á a a
Thắp sáng một
gia đình
Gia đình,
gia đình
Ôm ấp ta những
ngày thơ
Cho ta bao nhiêu
niềm thương mến
Gia đình,
gia đình
Vương vấn bước
chân ra đi
Ấm áp trái
tim quay về
Gia đình,
gia đình
Ôm ấp ta những
ngày thơ
Cho ta bao
nhiêu niềm thương mến
Gia đình,
gia đình
Bên nhau mỗi
khi đơn độc
Bên nhau đến
suốt cuộc đời
Lung linh,
lung linh tình mẹ, tình cha
Lung linh,
lung linh cùng một mái nhà
Lung linh,
lung linh cùng buồn cùng vui
Lung linh,
lung linh hai tiếng gia đình
LỄ CHÚA BA NGÔI (năm B) - Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến
núi Chúa Giêsu chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ
còn hoài nghi.
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng:
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy.
Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế.”
TRUYỆN KỂ
1. Thiên Chúa Tình Yêu - TGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Một bạn trẻ hỏi tôi: "Thưa Cha, tại
sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi tham u, xa hẳn thị thành,
còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa
đô hội?"
Tôi trả lời: "Bạn quả là có con mắt
nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuat từ quan
niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ
ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính
mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ
sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa.
Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế.
Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một
là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ
là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi
để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả
việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên
Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi
tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu
nên phai cất bước đi tìm.
2. Tìm chìa khóa
Có chuyện kể về một guru đánh mất chìa
khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ trước nhà. Đám học trò thấy
thế bèn hỏi, "Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?" "Thầy mất chìa khóa
vào nhà rồi.” "Để chúng con tìm giúp.” Thế là ai nấy hăng hái bới từng gốc
cây, lật từng ngọn cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt ruột hỏi:
"Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh rơi ơ đâu không?" "Có chứ, thầy
nhớ rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa lại.”
Đám học trò la lên: "Trời ơi, sao
bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở ngoài này, làm sao thấy
được!" Ông thầy có dịp cho học trò một bài học để đời: chúng ta đánh mất
chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta lại
mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ... mà hạnh phúc
vẫn biệt tăm. Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng chúng
ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.
Đúng là "Chúa ở trong con sâu hơn
chính con" và "Con đi tìm Chúa bên ngoài mà quên mất rằng Chúa ở
trong con.” Khong chỉ là cảm nghiệm của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của
mỗi người nếu chân thành nhìn lại chính mình.
3. Cứ nếm thử mà xem.
Sau khi chấm dứt buổi diễn thuyết chống
lại Chúa và các công trình của Ngài, diễn giả mời cử toạ lên diễn đàn, để đặt
câu hỏi.
Một người bước lên. Anh này là một người
nghiện rượu, vừa mới được cải hóa. Đứng trước thính giả, anh ta lấy từ trong
túi ra một trái cam và chậm rải lột vỏ. Chờ mãi, ông diễn giả bực mình bảo anh
ta hãy đặt câu hỏi đi. Nhưng, anh ta cứ từ từ làm tiếp cái công việc lột vỏ
cam, và không trả lời. Lột vỏ xong, anh ta từ từ ăn cam. Ăn xong, anh ta mới
quay về phía diễn giả va øhỏi:
- Ông thấy trái cam có ngọt không?
Diễn giả gầm lên:
- Đồ khùng! Làm sao tôi biết được là ngọt
hay chua, vì tôi có nếm đâu?
Lúc ấy, anh chàng thính giả mới nói:
- Thế thì làm sao ông có niềm tin vào
Chúa, nếu ông không bao giờ nếm thử Ngài.
4. Những hình ảnh về Chúa Ba Ngôi
Nhằm giúp các tín hữu hiểu biết một phần
nào về Chúa Ba Ngôi, các nhà thần học đã dùng những hình ảnh để diễn tả, dĩ
nhiên những hình ảnh này chỉ diễn tả được một phần nào về Chúa Ba Ngôi, còn mầu
nhiệm thì vẫn còn là mầu nhiệm, không thể hiểu được.
Thánh Patrick dùng hình ảnh lá cây “Tam
diệp thảo”, tuy chỉ có một lá nhưng do ba lá nhỏ dính vào nhau.
Thánh Ignace de Loyola thường dùng hình ảnh
ba nốt nhạc trong một hợp âm. Tuy ba nốt nhạc khác nhau nhưng cùng làm nên một
hợp âm nghe du dương.
Hoặc chúng ta có thể dùng hình ảnh nước
để diễn tả: nước có thể ở thể hơi, thể lỏng và thể đặc. Tuy chỉ là nước mà có
thể ở được những dạng khác nhau.
Hình tam giác đều tuy chỉ là một hình,
nhưng có ba góc, ba cạnh đều nhau.
Thời gian có thể lá quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Và còn rất nhiều hình ảnh khác mà chúng
ta không cần kể ra hết.
4. Chúa Ba Ngôi trong đời ta
Năm 500, vua Clovis và rất nhiều binh sĩ
xin được rửa tội qua bàn tay của thánh Rémi tại thành Reims. Trước khi ban phép
Rửa tội, thánh nhân tuyên bố với nhà vua của bộ lạc Franc:”Từ đây ông sẽ thờ Đấng
mà ông đốt và đốt những cái mà ông thờ.” Và nước phép rửa tội đã chảy trên trán
của Clovis và ba ngàn binh sĩ, nhờ công ơn và lời cầu nguyện của bà thành
Clotilde, hoàng hậu.
Ông vua kia nuôi một con chim hót rất
hay, ông vua yêu nó lắm, mua những thức ăn nó thích nhất, sắm cái lồng vàng. Một
ngày kia nghe nó hót líu lô, ông vua say mê, và vì yêu nó quá, nên nghĩ rằng:
thôi, ta nhận nó làm con, để ăn gia tài của ta. Ông vua nghĩ thế, người ta cho
là yêu đến phát điên. Thực ra, Chúa đã yêu ta đến thế: Thiên Chúa mà nhận con
người làm con! Thật là hạnh phúc quá
5. Ba Ngôi hành động nơi ta.
Một cuộc thảo luận của nhóm thanh niên
diễn ra rất sôi nổi về đề tài Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Họ đã
xem lại giáo huấn căn bản: Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, có Ba Ngôi vị, Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Rồi họ
bàn bạc thêm về vấn nạn Ba Ngôi cùng hành động thế nào, nhưng vấn đề sâu xa, vượt
quá hiểu biết của họ, và mấy người hướng về Cha sở đang ngồi ở phía ngoài:
- Thưa cha, cha có thể soi sáng cho
chúng con về vấn đề này?
Cha sở đáp:
- Có lẽ tôi có thể đưa ra chút ánh sáng
cho vấn đề. Rồi ngài quay sang một tham dự viên và hỏi:
- Bill, bạn có biết chơi Guitar không?
Bill nhìn nhận:
- Con chơi được lắm.
Và cha sở tiếp:
- Cây đàn guitar gây ra tiếng nhạc thế
nào? Có ba sự việc liên đới với nhau. Nghệ thuật âm nhạc hay là tâm trí bảo ta
điều phải làm, bàn tay thì gảy – dây tạo ra tiếng đàn. Tâm trí không tạo ra tiếng
đàn, bàn tay không tạo ra tiếng đàn, nhưng cả hai việc cùng với dây tạo ra tiếng
đàn. Cả ba việc cùng làm, dầu rằng việc riêng biệt của dây là tạo ra tiếng đàn.
Thiên Chúa Ba Ngôi hành động giống như thế!
Cả nhóm đồng ý rằng: hình ảnh mà cha sở
trình bầy đã giúp họ hiểu hơn.
6. Phòng ngủ ba cửa sổ.
Thánh Barbara sống vào thế kỷ thứ 3, thời
kỳ mà theo đạo tức là ngầm hiểu là bằng lòng tử đạo. Mặc dù thế, bà thánh này
đã giữ vững đức tin, để nhiều giờ ăn chay cầu nguyện. Cha của bà tên là
Dioscorus, là một người ngoại đạo. Trước khi đi chu du, ông phác họa một đồ án
để xây căn nhà mới. Trong phòng Barbara, theo đồ án thì có hai cửa sổ, nhưng vì
Barbara có lòng tôn sùng Chúa Ba Ngôi cả trong việc xây nhà, bà nghĩ vì Chúa Ba
Ngôi nên tốt hơn phòng bà có ba cửa sổ.
Khi chu du trở về, cha bà thấy có sự
thay đổi trong việc xây cất không đúng như đồ án của ông, ông đoán có lý do gì
đây. Thánh Barbara thú nhận rằng bà đã theo đạo từ lâu. Cha bà bực tức. Ông
không muốn cho vua ngoại đạo làm lôi thôi, nên ông đã đem con đi xử. Bà bị kết
án chém đầu. Để tự cứu mạng mình và để chứng tỏ cho vua thấy mình trung thành với
nhà vua thế nào, chính ông Dioscorus mang bản án đi. Thiên Chúa thịnh nộ vì
hành động bất nhân ấy đã cho sét đánh chết Dioscorus tức thì.
Ngày nay, trên những bức ảnh thánh
Barbara, chúng ta còn thấy bà cầm cành lá thắng trận tử đạo và ba cửa sổ ở phía
sau bà, có ánh sáng mặt trời chiếu qua chói lọi.
7. Tin tưởng vào Chúa
"Chúa ơi, trước đây con chưa bao giờ
thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ từng nói với con rằng
Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ. Nhưng đêm hôm qua,
con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy vẻ đẹp của những
vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó con biết rằng họ
đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài và con gặp nhau.
Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã của con. Thật lạ
lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được Ngài. Trước đây
con đã làm gì? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc rằng con rất hạnh
phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến. Sắp có một trận
đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà Ngài. Con đang khóc!
Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc như thế. Bây giờ con
phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết nữa."
Tiếc là người lính trẻ này biết Chúa quá
muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình tách lìa khỏi
Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng ta tách lìa khỏi
Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa
đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người như thế nào. Còn
bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người thân thiết đến
mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là con cái Ngài.
Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng thừa tự với
Chúa Con trong Nước Trời.
8. Tình yêu hiệp nhất
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một
giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là
nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một
tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
- Ông có cần biên nhận không?
- Không, không cần thiết. Thiên Chúa
nhìn thấy hết chúng ta.
- Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
- Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
- Tôi thì không, thưa ngài.
- A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ
biên nhận!
9. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Kirchner, một nhà thiên văn nổi tiếng,
có một bạn học là người vô thần. Một hôm, ông bạn này tới thăm nhà thiên văn và
rất thích thú ngắm nghía mô hình thái dương hệ đặt trên bàn giấy. Mỗi khi dùng
cần quay, thì cả thái dương hệ di chuyển theo đúng vị trí của mỗi hành tinh.
Ông bạn vô thần hỏi:
- Hay thiệt, ai làm mô hình này vậy?
- Chẳng ai làm cả, nhà thiên văn trả lời.
- Thật đó, nói đi, tôi thật muốn biết,
nhà vô thần nói tiếp.
- Thì tôi vừa nói với anh là không ai
làm cả. Nó tự mình mà có, nhà thiên văn đáp.
Ông bạn vô thần lúc này cảm thấy hơi
nóng mặt, nên nói gằn từng tiếng: “Thì ra anh chơi tôi đấy phải không?” Nhà
thiên văn đáp: “Xin lỗi anh, nhưng tôi chỉ muốn cho anh thấy cái vô lý của anh.
Trong khi anh không tin cái mô hình đó tự nó mà có, anh lại cho rằng mặt trời,
mặt trăng, các ngôi sao, và cả vũ trụ hiện hữu mà không có Đấng Tạo Dựng!”
Người bạn vô thần lặng lẽ từ giã ra về,
lòng suy nghĩ miên man, rồi cuối cùng đã xin trở lại gia nhập Giáo Hội Công
Giáo.
10. Miêu tả Chúa Ba Ngôi cho thiếu nhi
Cha đọc trong thư của Thánh Gioan cha
thấy Ngài viết một câu rất hay. Ngài nói: Thiên Chúa là Tình thương.
Tình thương của Thiên Chúa luôn được việc làm minh chứng. Bởi thế người
ta mới nói:
1. Thiên Chúa Cha là Tình thương tạo
dựng.
Tạo dựng là làm sao chúng con? - Là
làm nên mọi sự ở trần gian này.
Cha kể cho chúng con câu chuyện: Một
ông thông thái người Pháp nọ băng qua sa mạc. Ông dẫn theo vài người Arập làm
người dẫn đường. Khi mặt trời lặn, một người trong bọn họ trải một tấm thảm
xuống đất và cầu nguyện.
- Ngươi làm gì thế?- Ông thông thái hỏi:
- Tôi cầu nguyện.
- Ngươi cầu nguyện ư? Ngươi cầu nguyện
cùng ai?
- Thiên Chúa.
Ông thông thái mỉm cười.
- Ngươi đã bao giờ thấy Thiên Chúa chưa?
- Chưa!
- Vậy thì ngươi là một kẻ điên nếu tin
vào một Thiên Chúa mà ngươi không bao giờ thấy, không bao giờ nghe và không bao
giờ đụng chạm đến.
Người Árập không trả lời gì. Sáng sớm
hôm sau, trước khi mặt trời mọc, nhà thông thái ra khỏi lều, đã nói lên nhận
xét này với người dẫn đường cho ông:
- Đã có một con lạc đà đi qua đây!
Một tia sáng lóe lên trong mắt người Arập.
- Ngài thấy con lạc đà chứ?
- Không.
- Ngài không đụng đến nó chứ?
- Không.
- Vậy thì ngài điên khi tin là có một
con lạc đà mà ngài không nghe, không thấy, không ngửi qua chỗ này.
- Ồ! - Ông thông thái đáp trả – nhưng
người ta thấy rõ các dấu chân của nó trên cát.
Vào chính ngay lúc ấy, mặt trời mọc lên ở
chân trời với tất cả các màu sắc rực rỡ của phương đông. Bằng một cử chỉ gọn
gàng, người Árập đưa tay chỉ vào tinh thể rực sáng, rồi nói:
- Ngài có thấy dấu vết của Đấng Tạo Hóa
không? Vậy sao ngài không biết rằng có một Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nghe lại một trong những lời
thánh vịnh đẹp nhất:
"Trời xanh tường thuật vinh quang
Thiên Chúa
Không trung kể lại những việc tay Người
làm."
2. Chúa Con: Tình Thương Cứu Chuộc.
Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu ngoài sức
tưởng tưởng của loài người.
Trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người
ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa mà cánh tay phải của Chúa đã tách rời khỏi
đinh. Cây Thánh giá này có lịch sử như sau:
Ngày nọ, một tội nhân thuộc loại “gạo cội.”
Gạo cội là làm sao chúng con? Nghĩa là tội ghê gớm lắm. Ông ta đến
xưng thú tội mình dưới cây Thánh giá này với tất cả dấu hiệu của một sự thống hối
chân thật. Cha giải tội do dự ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông ta
nhiều và nặng. Tội nhân cầu xin sự tha thứ.
- Tôi ban phép giải tội cho ông ,- Vị
linh mục nói- tuy nhiên ông không được tái phạm nữa nhé!
- Tội nhân xin hứa và giữ một được một
thời gian. Nhưng rồi, yếu đuối và sã ngã lại . Lòng thống hối thúc đẩy ông đến
toà giải tội . Vị linh mục bão ông:
- Lần này thì tôi không ban phép giải tội
cho ông đâu!
- Con thống hối, tội nhân đáp lời vị
linh mục, con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối! Xin hãy
tha thứ cho con!
Cha giải tôi tha thứ và nói thêm:
- Đây là lần cuối cùng đó nhé!
- Một thời gian khá lâu sau, một phần
theo thói quen, một phần vì yếu đuối, ông lại rơi vào vòng tội lỗi.
- Bây giờ thì dứt khoát! Vị linh mục bảo
ông luôn phạm lại trong cùng một tội lỗi, điều đó chứng tỏ ông không có sự thống
hối chân thành.
- Thưa Cha, con rất chân thành thống hối.
Con sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.
- Không, không còn sự tha thứ cho ông nữa.
Vào chính lúc đó người ta nghe như có tiếng
ai khóc. Rồi người ta nghe thế tiếng động phát xuất từ cây Thánh giá: một cánh
tay của Chúa rời khỏi đinh, giơ lên và vạch trên đầu tội nhân dấu hiệu sự tha
thứ, đồng thời có một tiếng nói: “Chính Ta mới là người đổ máu cho người này chứ
không phải là con!”
Vâng! Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu, chẳng
thể giải thích làm sao cho đủ.
3. Chúa Thánh Thần: Tình Thương Thánh
Hóa
Thánh Thần là Thần thánh hóa. Một trong
những công việc đặc biệt nhất là ơn tha tội. Chúng con hãy nghe lời của Chúa
Giêsu: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy
được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."(Ga 20, 22-23). Đây
là một ơn ban đặc biệt của Thánh Thần. Và ơn ban này chỉ trong Giáo Hội mới có.
Cha kể cho chúng con câu chuyện có thật
này:
Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa
sai người Ý truyền giáo tại Hongkong. Ngài kể lại rằng: trong một ngày thứ sáu
tuần thánh, sau khi nói về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá và ơn tha thứ
của Chúa, tôi giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người
xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi
giáo đến gặp tôi nói như sau:
- Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn
tha thứ.
Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được
rửa tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo
nài nỉ:
- Thưa Cha, trong Hồi giáo của chúng tôi
không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một
dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài. Vị linh mục liền chúc lành cho người tín hữu Hồi
giáo và người này ra về trong bình an.
Đúng như vậy chúng con. Chỉ trong Giáo Hội
của Chúa mới có sự tha thứ. Và đây là ân ban của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy
cám ơn Chúa vì hồng ân cao cả này. Amen.
11. Thánh Augustino và mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi
biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa
Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm
một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Thánh nhân liền đến hỏi:
- Bé ơi! bé đang làm gì đó?
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái
lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng
nói:
- Cháu không thể làm như vậy được đâu!
- Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc
này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận
ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu
đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ba Ngôi vẫn là mầu nhiệm để rồi mầu nhiệm
ấy mời gọi lòng tin của con người.
12. Hiệp thông trong gia đình
Trước đây, anh Bắc ở Hà-nội, chị Nam ở
Sai-gòn, hai người ở hai phương trời cách biệt. Anh và chị là hai “ngôi vị”
hoàn toàn xa lạ.
Về sau, hai người cùng vào làm trong
cùng một công ty nên có nhiều cơ hội gặp gỡ và đôi bên cảm thấy ý hợp tâm đầu.
Tình yêu của anh chị lớn lên từng ngày và với thời gian, anh chị yêu thương
nhau sâu đậm đến nỗi người nầy không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng người
kia.
Do tình yêu thúc đẩy, anh chị tiến đến
hôn nhân. Lúc nầy hơn bao giờ hết, anh chị cảm thấy mình hoàn toàn thuộc về
nhau: cùng chung một tổ ấm, chung một tình yêu, chung niềm vui nỗi buồn, chung
một ước mơ và một niềm hy vọng… Họ không còn là hai mà là một đúng như nhà thơ
Tản Đà nhận định: “Mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai.”
Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận rằng họ
chỉ còn là một mà thôi: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả
hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một
xương một thịt.” (Mt 19, 5-6)
Rồi tình yêu của anh chị đơm bông kết
trái: một đứa con yêu quý chào đời!
Giờ đây tuy trong nhà có ba người hay ba
“ngôi” (=ba vị), nhưng tình yêu thương thắm thiết đã nối kết cả ba nên một. Họ
cảm thấy hoàn toàn thuộc về nhau. Họ cảm thấy mình không còn là ba nhưng chỉ là
một: hạnh phúc của người nầy cũng là hạnh phúc của người kia; khổ đau của mỗi
người cũng là nỗi đau chung của cả gia đình.
Mặt khác, tình yêu và mức độ hiệp thông
tỉ lệ thuận với nhau: khi càng yêu thương nhau hơn thì mức độ hiệp thông càng bền
chặt hơn và ngược lại, khi ghét bỏ nhau, người ta cảm thấy hoàn toàn xa cách dù
sống chung dưới một mái nhà. Lúc ấy, vợ, chồng và con cái trong nhà không còn
là một mà là ba.
Như thế tình yêu là phép mầu nối kết nhiều
người nên một. Những người yêu thương nhau được liên kết nên một với nhau nhưng
vẫn không đánh mất bản ngã của mình.
13. Tôi thương nó vì nó giống con tôi
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại
không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người
ta gọi anh bằng một tên riêng đầy long kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi
nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông
Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần
gũi với moi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung
quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi
thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ
và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần
nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại
và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của
ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé
nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn
biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên
mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư,
nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại
sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất,
là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi,
tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
14. Con búp bê và biển cả
Trong quyển sách tựa đề: "Sức thu
hút của Thiên Chúa", tác giả người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô
đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa
mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
- "Biển cả ơi, bản chất của biển cả
là như thế nào?"
Và biển cả đã trả lời:
- "Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn
biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập
vào biển cả.”
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì
tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển.
Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi
chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lui lại, nhưng đôi chân đã mất.
Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
- "Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển
cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào
đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ đươc hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế
nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển
cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất.”
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm
mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển
và hiểu được thế nào là biển cả.
15. Tin vào Chúa thì tin vào nhau
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một
giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là
nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một
tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
- Ông có cần biên nhận không?
- Không, không cần thiết. Thiên Chúa
nhìn thấy hết chúng ta.
- Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
- Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
- Tôi thì không, thưa ngài.
- A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ
biên nhận!
16. Có tin mới thấy
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia
vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có
một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn
toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của
các Kitô hữu.
Nhưng người bạn đang đi với ông lại có
niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với
anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị
văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng
giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý
do để hiện hữu nữa.”
Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến
hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã
làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ tư hiện lộ
một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông: “Này bạn, đây mới
là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn
lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của
Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh
lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn
đang ra sức loại trừ Ngài.”
17. Chúa Giêsu là người dẫn đường
Có một bà cụ đi xe lửa lần đầu tiên nên
rất bỡ ngỡ sợ lầm tàu và lạc đường. Bà quay sang hỏi một hành khách ngồi bên cạnh:
- Thưa ông, tàu này có phải là tàu đi
Roma không?
Ông ấy trả lời ngay:
- Vâng, đây là tàu đi Roma. Bà đừng lo,
vì Roma là nhà của tôi, tôi phải về đó.
Nhưng bà ấy vẫn chưa thỏa lòng, cứ miên
man nghĩ ngợi: Nhỡ ông kia cũng lầm tàu thì sao? Làm sao mà mình biết được? Vừa
lúc ấy người tài công bước vào, bà hỏi:
- Bác tài công ơi, tàu này là tàu đi
Roma phải không?
Người tài công trả lời:
- Vâng, đây chính là tàu đi Roma. Tàu sẽ
chạy trong vài phút nữa. Bà cứ việc ngồi thoải mái đừng lo lắng gì cả, sẽ tới
Roma an toàn.
Tới lúc ấy bà mới yên tâm, vì bà đã hỏi
người có thẩm quyền trên tàu. Bà ấy đã nhận được câu trả lời từ một người có thẩm
quyền nên không còn lo sợ nữa.
Mỗi người chúng ta cũng đang đi trên
hành trình đời sống, một hành trình vào cõi vĩnh hằng. Có rất nhiều tôn giáo.
Có rất nhiều con đường của người này kẻ kia chỉ chúng ta con đường về trời.
Nhưng chỉ có một người đáng chúng ta tin cậy, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngài có đủ
thẩm quyền để chúng ta tin lời Ngài là chân lý, là sự thật. Đó chính là Chúa
Giêsu.
18. Gặp gỡ Đức Kitô
Em nói: "Con vô tình thấy Video
Thánh Lễ do Đức Tổng Giám mục Bùi văn Đọc giảng lễ, con nhấp xem và sau con lên
Youtube xem thêm nhiều lễ nữa do Đức Cha Đọc dâng sau con cũng xem lễ do Đức
Giám mục phụ tá Luy Nguyễn Anh Tuấn.” Em tìm hiểu về 2 Đức Giám mục. Em hỏi sao
Đức cha Đọc lại lấy câu châm ngôn: "Thiên Chúa là nguồn vui của con."
Đức Cha giảng vui, và hay nở nụ cười. Em nói chắc có Chúa nên Đức Cha mới vui vẻ
và dễ thương như vậy. Còn Đức Cha Tuấn thì em nói Đức Cha giảng hay, dễ hiểu và
có ích cho em.
Thấy con hay nghe giảng và đi lễ công
giáo, gia đình bà con phản đối, nhưng cha mẹ em thì để em được tự do. Sau gần
hai năm tìm hiểu và học giáo lí, em được chịu phép Rửa tội vào ngày a24/10/2020
tại Cần thơ lấy tên thánh Luy của Đức Cha Tuấn.
Điều đặc biệt là việc theo đạo Chúa giúp
em được biến đổi: Trước đây em tiêu xài ngày tới 500.000đ vị chi một tháng là
15 triệu đồng: số tiền do cha mẹ cho vì gia đình em khá giầu có, nhưng nay em
biết tiết kiệm một tháng chỉ tiêu 5 triệu đồng, số tiền còn lại em giúp nhà thờ
và làm việc bác ái. Bạn bè cũng nhận xét giờ em bớt nóng tính, biết xin lỗi và
không hay chửi thề như trước và khi ăn cơm em làm dấu thánh giá tử tế. Hiện nay
em đã học hết trung học và học thêm Anh văn để chuẩn bị qua Mỹ đoàn tụ với cha
mẹ. Cảm tạ Chúa vì em còn có ý muốn đi tu nữa!
19. Ngọn đèn được thắp lên
Tại Melbourne, nước Úc, Mẹ Têrêxa đi
thăm một người già chẳng ai quan tâm để ý đến. Nhìn thấy căn phòng của ông tồi
tệ và dơ bẩn, Mẹ muốn lau chùi và quét dọn cho ông, nhưng ông cản lại:
- Tôi còn khoẻ mạnh.
Trong căn phòng của ông có một cây đèn
tuyệt đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm. Mẹ Têrêxa hỏi ông:
- Tại sao ông không thắp đèn cho sáng?
- Tôi thắp đèn cho ai đây? Chẳng có ai đến
thăm tôi cả, còn tôi, tôi chẳng cần phải thắp đèn.
- Ông có thắp đèn không nếu như có các
sơ đến thăm ông?
- Có chứ, nếu tôi nghe thấy một tiếng
người, tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó một thời gian, Mẹ Têrêxa nhận được
một lá thư ngắn gọn của ông với dòng chữ sau: “Xin hãy nói với các bạn hữu của
tôi rằng ngọn đèn bà thắp sáng trong đời tôi sẽ còn cháy sáng luôn mãi”
Mẹ Têrêxa rồi cũng trở về Ấn độ, nhưng
ngày nào ngọn đèn của ông lão còn cháy sáng ngày ấy Mẹ như vẫn còn đó trong nhà
ông.
Trước khi gặp Mẹ Têrêxa, ông lão chỉ sống
trơ ra đó như là không hề hiện hữu trên đời, như người ta nói đùa là ông phải sống
vì chưa tìm ra lý do để chết. Nay ông có lại được “sự sống”, ngọn đèn đã được
thắp lên.
20. Tiến thân nhờ dấu thánh giá
Valencia mồ côi cha lúc mới lên 5, phải ở
với mẹ tại một khu lao động nghèo khổ. Sau Thánh lễ hằng ngày, cậu vào các tiệm
ăn đánh giầy cho khách. Mỗi khi nhận tiền công, cậu đều làm dấu thánh giá tạ ơn
Chúa.
Tụi bạn trông thấy to nhỏ với nhau: “Gạo
không lo mà lo giữ đạo!” Valencia vẫn cứ hiên ngang giữ hình thức cầu nguyện
đơn sơ ấy.
Năm 17 tuổi, cậu được ban văn nghệ mượn
đóng vai thằng quỉ. Màn đầu vừa dứt, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sang màn thứ hai, trời đột nhiên đổ mưa, sấm sét nổi lên ầm ầm. Nghe sét đánh,
“thằng quỉ” quên mất mình đang đóng kịch, vội quì gối làm dấu thánh gia. Khán
giả cười rộ lên, tưởng thằng quỉ làm hề, không ngờ Valencia cầu nguyện thật!
Sau đêm ấy, mọi người trong khu xóm hiểu
được hoàn cảnh của cậu, họ chung nhau quyên tiền để giúp Valencia ăn học. Đến
sau, Valencia đỗ tiến sĩ lúc vừa mới 30 tuổi … nhờ dấu thánh giá!
Mỗi ngày và cả đời tôi được bắt đầu với
dấu thánh giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” để nhắc tôi nhớ rằng Chúa
là con đường và thành đạt thực của đời tôi.“That vậy, tất cả các dân đều bước
đi nhân danh thần của mình; còn chúng ta, chúng ta tiến bước nhân danh Đức
Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đến muôn thuở muôn đời” (Mk 4,5).
21. Huyền nhiệm Tình yêu
Một sinh viên vô thần nói với một vị
linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi
là "mầu nhiệm Ba Ngôi.” Phải hiểu thế nào kiểu nói "Thiên Chúa có một
bản tính nhưng ba ngôi vị”? Một mà ba, ba mà một! Thật khó hiểu, nếu không nói
là phi lý!
Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang
sống kinh nghiệm tình yêu?
Ủa! Sao cha hỏi lại thế? Đúng là tôi
đang yêu thật!
Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải
có những gì?
Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên! Tự
ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!
Đúng lắm! Nhưng tình yêu hướng đến cái
gì?
Hướng đến sự hiệp nhất! Tất cả phải nên
một! Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống. Tình đồng
chí, tình bằng hữu... hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!
Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao
giờ đạt được chăng?
Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng. Ví dụ,
những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì "anh nói em nghe, em nói anh
nghe", nhưng năm sau thì "cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!” Trong một
tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.
Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì
đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc
nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là
Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.
Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba
mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?
Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu
nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị
có chân thật và bền vững không?
Thưa không! Tình yêu chúng tôi phải chảy
tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là
tình yêu mình trong người bạn đời của mình. Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải
rộng cho mọi người chung quanh nữa!
Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi. Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!
22. Tên của miền đất đầu tiên được khám
phá
Người ta kể rằng Christophe Colomb, người
đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng
sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu
Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ:
“Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh.” Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm
1498, Christophe Colomb đã thề hứa sẽ dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông
khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành
trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là
Chúa Ba Ngôi.
23. Cha rửa con, nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần
Cha Maistrino người Ý, thuộc hội thừa
sai Milanô đang truyền giáo tại Hồng Kông vào đầu thế kỷ 20. Cha kể lại một chứng
từ sau đây:
Một ngày năm 1938, một phụ nữ người Hoa
đến gặp tôi và rụt rè nói:
- Con không có đạo. Con có người bạn có
đứa con gái tên là Têrêsa Quang thị Lộ bị lao phổi nặng, chắc không sống bao
lâu nữa. Cô ấy muốn trở lại đạo Công Giáo. Xin cha thương giúp.
Tôi nhận lời đi giúp ngay. Nhưng bà ta
nói tiếp:
- Thưa cha, bạn con dặn: Nếu cha bằng
lòng đến giúp thì xin cha đến cách kín đáo, vì chồng bà không thích người có đạo.
Ông ta còn ngăm đe bà vợ: Nếu linh mục nào bén bảng đến nhà, ông sẽ đuổi ra xấu
hổ. Vậy xin cha cẩn thận đến nhà lúc ông đi làm.
Nói xong bà ta biên địa chỉ nhà cho tôi
rồi cáo biệt ra về.
Tôi bắt đầu tìm biết đến người không
thích đạo ấy. Ông ta là luật sư nổi tiếng, có hai vợ, Têrêsa là con của vợ bé ở
ngoại ô, còn ông thường sống với vợ lớn ở thành phố.
Sáng hôm đó, tôi đánh bạo đến nhà
Têrêsa. Tôi cảm thấy vừa nguy hiểm vừa ngượng ngùng vì những cặp mắt soi mói của
những người trong xóm. Cố tìm được nhà, vừa bước vào, tôi đã thấy cô Têrêsa nằm
trên giường cây, đầu gối trên viên gạch, thân hình gầy ốm xanh xao.
Cô lễ phép chào tôi rồi kể lại lúc học ở
trường Tin Lành, cô đã chọn tên Têrêsa vì thích tên này và vì mộ mến thánh nữ.
Giờ đây cô muốn trở thành người Công Giáo….
Tôi liền nhờ một phụ nữ Trung Hoa tên là
Êlêna dạy đạo cho cô. Và ba tháng sau, Êlêna báo tin cho tôi cô Têrêsa trở bệnh
nặng. Tôi vội vàng chạy đến và rửa tội cho cô. Tôi vừa đọc xong:
“Têrêsa, cha rửa con, nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần.”
Cô ngước mắt nhìn tôi với đôi mắt tràn đầy
niềm vui tươi hạnh phúc….
24. Ba Ngôi cực thánh
Hơn năm mươi năm trước đây, ở Chicago, một
phụ nữ Tin Lành da đen tên là Maria Weaver. Chị là một tín đồ Baptist,
Methodist – Kitô hữu khoa học và Holly Roller. Chị chỉ tin: “Duy nhất một Đức
Kitô.” Một ngày nọ, chị nghe lén bài giáo lý Công giáo ở nhà một người bạn. Đây
là dịp để chị biết người Công giáo tin điều chi, làm điều gì. Rồi chị thấy tức
cười. Chị bắt đầu đọc, đọc lan lần từ ghét đến tò mò, đến ngỡ ngàng, rồi đến ước
muốn học hỏi. Chị thổ lộ: “Nếu đây là những điều Giáo Hội Công giáo dạy thì tôi
muốn làm một người Công giáo.” Maria Weaver đã được rửa tội tại nhà thờ thánh
Elisabeth ngày 11 tháng 12 năm 1938.
Bây giờ, chị hoạt động mạnh mẽ giúp Giáo
Hội Công giáo như trước kia chị đã hoạt động để chống lại.
Một người bạn của chị thuộc phái Holly
Roller đã bày tỏ xúc động trước sự trở lại của chị như sau: “Ôi, Maria chị làm
gì với: Duy một mình Đức Kitô?” Maria Weaver trả lời: “Tôi vẫn còn Ngài. Bây giờ
tôi tin nhận Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa.”
Khi Maria Weaver tin nhận Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần, có nghĩa là chị đã tin Chúa Ba Ngôi. Cũng thế, bạn và
tôi trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi: Tin nhận Ba Ngôi bằng việc tin, ca tụng, cảm tạ
và yêu mến Thiên Chúa.
25. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Trên chuyến xe lửa Lyon-Paris, một thanh
niên sang trọng ngồi bên mot ông già ăn mặc thô sơ, có vẻ quê mùa. Thấy cụ già
cầm xâu chuỗi, miệng lẩm bẩm đọc kinh, chàng thanh niên gợi chuyện:
- Tôi thấy ông vẫn còn tin tưởng ở tập
quán thời trung cổ. Chắc ông cũng tin Đức Mẹ Đồng Trinh và những chuyện ghi
trong sách Thánh, được nhai đi nhai lại trong các nhà thờ chứ gì?
Ông già trả lời:
- Đúng vậy đó cậu ạ. Còn cậu thì sao?
Chàng thanh niên cười rộ:
- Tôi mà lại tin theo những chuyện vớ vẩn
ấy à? Tôi đã tìm được sự thật đầy đủ ơ trường Đại học. Ông cũng nên từ bỏ xâu
chuỗi, để có giờ mà đọc các sách khoa học tân tiến.
- Tôi cũng muốn thế, nhưng sợ không hiểu
nổi khoa học.
- Được rồi, tôi sẽ gửi biếu ông một số
sách. Ông có biết đọc không?
- Cám ơn cậu, tôi có biết đọc.
- Thế thì tốt rồi, nhưng xin ông cho địa
chỉ để tôi gửi sách.
Ông già rút trong túi ra một tấm danh
thiếp, và cậu thanh niên tròn đôi mắt đọc thấy trên đó ghi: Louis Pasteur –Viện
nghiên cứu khoa học–Paris. Đó là người đã viết nhiều sách khoa học mà người
thanh niên say mê nghiền gẫm.
Trong đạo Công giáo có nhiều mầu nhiệm,
cao sâu trên hết là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đã la mầu nhiệm thì trí khôn
con người khó mà thấu hiểu được. Nhưng nếu khiêm tốn cầu nguyện và tìm hiểu, ta
vẫn có thể tiếp thu những mầu nhiệm đó mà không thấy nghịch lý chút nào.
26. Sống niềm tin
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ. Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
(Mt, 28,19).
Một thanh niên làm việc trong nhà máy
thuộc da. Các đồng nghiệp của anh đều ngoài Công giáo. Cứ đến ngày thứ sáu, anh
lại đem trứng, cá và bánh sandwich kẹp phomat để ăn trưa, họ gọi anh anh lá “thằng
ăn cá”, lại còn đặt miếng sandwich kẹp thịt của họ trước mặt anh. Tất nhiên đó chỉ
là trò đùa trẻ con.
Nhiều năm sau anh bạn thuộc da gặp lại bạn
đồng nghiệp cũ vừa ra khỏi một nhà thờ Công giáo; nghe người ta nói người bạn ấy
là linh mục. Hai người nhận ra nhau và cùng ôn lại ký ức xưa. Cuối cùng vị linh
mục nói: “Chính nhờ gương của anh đã làm tôi có thiện cảm với đạo Công giáo.
Tôi nghĩ giữa những chế nhạo của đám đông mà người ta vẫn còn tự hào về niềm
tin của mình, thì hẳn phải cò điều gì đó lạ lùng lắm trong niềm tin này. Chuyện
ấy đã dẫn tôi tới tìm hiểu đạo công giáo. Hôm nay, tôi vừa dâng lễ mở tay.”
(Trích “Dụ ngôn đời thường” -Drinkwater kể).
27. Mầu nhiệm, Trí khôn và Ý muốn
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền
triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
- Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để
suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa
để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại
xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần
nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau
cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời
câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề
thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi
vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra
ngoài khả năng của tôi.
28. Ba Ngôi yêu thương nên một với nhau
Đài truyền hình VTV3 có chương trình gọi
là "Truyện cổ tích ngày nay.” Chương trình này thường họ đưa một đoạn phim
ngắn. Sau đó người dẫn chương trình mới nói lên ý nghĩa của đoạn phim này. Có một
đoạn phim như sau: một cậu bé cầm trên tay 7000đ đến tiệm kem để mua 1 cây kem
giá đúng 7000d.
Ở tiệm bán kem cậu nhìn thấy có một cô
bé dẫn theo đứa em của nó, và tìm mua cây kem giá 1000đ, bởi trên tay nó vỏn vẹn
chỉ có 1000đ. "ở đây khong có cây kem 1000đ, giá chót cũng phải
2000đ", tiếng bà chủ quát. Hai chị em cô bé lặng lẽ ra về. Đứa em như thèm
được ăn kem, nó quay lại nhìn về phía tiệm kem. Bấy giờ cậu bé có 7000đ đã
không mua cây kem 7000đ nữa, nhưng là mua 3 cây kem giá mỗi cây 2000đ. Ba đứa
bé tìm đến một bóng cây ở ven đường, chúng nó ngồi xuống cùng ăn kem và nói cười
vui vẻ.
Cuộc sống quanh ta có biết bao nhiêu là
nét đẹp, chỉ cần chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra ngay. Một cậu bé
còn quá nhỏ, chưa thể giải thích nỗi về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, cũng không
thể nói về tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho rỏ ràng được. Vậy mà, qua việc làm của
cậu, cậu như đang hoạ lai chính diện mạo về một tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
29. Cửa sổ
Một người đàn ông bị bắt giam vào nhà
tù. Ông ta chỉ được nhìn ra thế giới bên ngoài, thông qua một cửa sổ nhỏ cao
trên tường. Lúc đầu, ông ta ghét cảnh bị giam hãm, và coi thường tầm nhìn khốn
khổ mà ông ta có về thế giới bên ngoài, đó là thế giới duy nhất mà ông ta tin
tưởng.
Nhưng thời gian qua đi, và cái cửa sổ nhỏ
đó đã trở thành một người bạn của ông. Thật vậy, mặc dù nó chỉ cho ông một mẩu
cuộc sống nhỏ xíu – một làn mây, một máy bay vụt bay qua, một chiếc lá rơi, một
giọt nước mưa, một bông tuyết…, nhưng ông nhận ra rằng nó không phải là một đồ
vật xấu xa gì. Ô cửa sổ đó bắt buộc ông phải tập trung vào những điểm đặc biệt,
và biến cái nhỏ nhoi trở thành cái lớn lao. Ông kinh ngạc khám phá ra rằng
thông qua một mẩu vật nhỏ bé như thế, làm thế nào mà cuộc sống lại có thể thật
phong phú đến thế. “Nhìn qua một khe hở, không lạ gì khi có cả một bầu trời quá
rộng lớn ở đó” (Patrick Kavanagh).
Đôi khi, khung cảnh từ cửa sổ lại nông cạn
và mờ đục. Dường như thế giới kết thúc ngay tại khung cửa sổ. Nhưng những lúc
khác, cửa sổ lại mở ra một bầu trời trong xanh và trống trải. Thế rồi cửa sổ
còn mở vào cõi vô biên, và ông cảm thấy ben trong con người ông bừng tỉnh những
ước muốn siêu việt, mà ông không bao giờ biết rằng những ước muốn này muốn có ở
đó. Vì thế, cái cửa sổ đó đã giúp ông đánh giá được những sự vật ở trên cõi trời,
cũng như ở dưới mặt đất.
30. Tình yêu
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi
một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ
ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng - ngoại trừ một mảng
cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền
đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu
mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm
tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi
ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của
máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng
nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản
bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức
Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để
thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là
mầu nhiệm tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đa thương dành cho con người. Vì thế,
lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của Tình Yêu.
31. Mặt trời ban sự sống
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi
trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập
tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
- Tôi không thể nào chấp nhận được những
điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống
như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua
khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
- Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
- Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
- Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất
phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được
cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự
như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha
mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt
trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức
nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế
nào thì Chúa Ba Ngôi cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt
trời chiếu toả ánh sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng
ta như vậy. Mặt trời đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba
Ngôi cũng sẽ đem lại sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với
Thiên Chúa và đối với anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh
tật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ
tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho
chúng ta niềm vui cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng
ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu như thế.
32. Sống hoà nhịp
Ngày kia, có một người nông dân đi lên
thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta
nói với một người bạn cùng đi với mình:
- "Tôi có thể nghe được tiếng kêu
rúc rích của một con dế.”
Người ban của anh ngạc nhiên và hỏi:
- "Làm sao mà anh lại có thể nghe
được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?"
Người nông dân đáp lại:
- "Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp
được với tiếng dế.”
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng
nghe nhiều hơn, và dõi theo âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò
trên bờ cửa sổ. Người bạn của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người
nông dân không hề tỏ ra ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong
túi áo ra, và ném chúng xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng
xu, những người qua đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói:
- "Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai
trong số những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có
thể nghe được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai
tai của họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại.”
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu
ít bị lo lắng phiền muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã
nói: "Ngay khi mở đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được
sự hiện hữu của Thiên Chúa.” Và Abraham Lincoln đã nói: "Tôi có thể nhận
thấy con người có thể nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao,
nhưng tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu
trời, và nói rằng không hề có Thiên Chúa.”
LỄ CHÚA BA NGÔI (năm C)
Lời Chúa: Ga 16,
12-15
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các
con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần
Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình
mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những
việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con.
Tất cả những
gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con.”
TRUYỆN KỂ
1. Đó là
tình yêu
Trong phòng
xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế
đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt
đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành
móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và
có in ký hiệu "AB.” Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề
nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một
tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho
con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác
hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm
trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa
mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà
ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà -
Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi,
cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi
hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi
xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn
khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách,
không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn
đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ
bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm
con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin
xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó
ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà
nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến
nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không
hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong
phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện
bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có
các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài:
"Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay
con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen.
Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính
tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang
2).
Mọi người
trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn
cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không
tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và
ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống
hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời
đời" (x.Ep 1,9).
2. Hình ảnh
về Chúa Ba ngôi
Thánh
Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước
đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em
bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà
Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp
giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc
bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể:
khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô
khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của
Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài
năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ
các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp
đồng thanh:
- Thưa cha
hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì
các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con
người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này,
nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh
rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba
Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã
không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian.
3. Nhìn thấy
Chúa
Một vị vua
kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm
thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác
quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ
nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết.”
Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu
họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một
chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ
hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được.” Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo
lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt
trời và bảo: "Hãy xem kìa.” Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại
ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn
cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa
mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa
bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt
khác.”
Nhà vua rất
thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây
giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người
chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay
kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống
trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt
ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở
ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta.”
Nhà vua dừng
bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên
khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một
điều nữa.” Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước
bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp:
"Thiên Chúa.” "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ,
Bệ Hạ chỉ cần nhìn.” Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt
của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi.” Người
chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi.
Ngài sống trong Bệ Hạ đó.”
Nhà vua nhận
ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về
hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói
rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử
rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở
khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay
trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô
tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng
ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một
công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa
Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm,
nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM).
4. Những
hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu
Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm
Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức
tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người
một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi
phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên
Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào
làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về
sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều
tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên
Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc
áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không,
Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa
bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều
điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi
người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện
trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ
thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được
một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người
khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong
phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn
hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu
biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao
chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp
chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân
lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
5. Augustinô
và mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Thánh
Augustinô một hôm đi bách bộ trên bãi biển và tâm trí thì luôn suy nghĩ về mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi: Làm sao chỉ có một Thiên Chúa và Ngài lại có Ba Ngôi
khác nhau: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con và Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.
Như vậy lẽ ra phải có Ba thay vì chỉ có Một Thiên Chúa mới hợp lý?
Augustinô không sao lý giải được mầu nhiệm này: Một mà lại là Ba, và Ba chỉ ở
trong Một?
Bấy giờ
Augustinô trông thấy em bé trai đang ngồi trên bãi biển, tay cầm một cái vỏ sò
múc nước biển rồi đổ vào một cái lỗ nhỏ hang còng ở trên bãi cát. Vị Giám mục hỏi
cậu bé:
- Này em, em
đang làm gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Cháu đang
cố gắng múc tất cả nước của đại dương này để đổ vào lỗ hang của con còng này
Vị Giám mục
nói:
- Sao em lại
làm một điều vô lý như thế? Em hãy nhìn xem: nước biển bao la như vậy thì làm
sao cái lỗ hang còng nhỏ bé kia có thể chứa hết nước của nó được?
Nhưng
Augustinô thật bất ngờ, khi nghe cậu bé đáp:
- Việc cháu
làm đây cũng không vô lý bằng việc Ngài đang làm: làm sao ngài có thể dùng trí
khôn nhỏ bé của ngài mà hiểu thấu được mầu nhiệm lớn lao vô cùng của Thiên
Chúa?
Nói xong cậu
bé biến mất.
Bấy giờ Giám
mục Augustinô hiểu rằng Chúa đã sai thiên thần đến để giúp mình ý thức về sự giới
hạn và bất lực khi phải đối diện với những mầu nhiệm cao cả vô cùng của
Thiên Chúa.
6. Thiên
Chúa là tình yêu
Một bà kia
không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo,
nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù
ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở
đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình
yêu là gì cả. Bà bảo:
- Tôi không
hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu
yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại
nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu
nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ
trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi
người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong
nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này
vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng
trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:
- Thưa cha,
bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể
xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
7. Từ ngữ
“ba ngôi”
Trong Kinh
Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi.” Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học
sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng
luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả
là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa
không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là
một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc
Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha
và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản
tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng
là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa,
là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con
người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba
Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng
Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong
cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là
cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được.
Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế.”
Ngôn từ là
phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần
để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ.
Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học
muốn diễn tả.
8. Chúa Ba
ngôi như mặt trời
Một linh mục
ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề
cập về tôn giáo. Ông khoe rằng:
"Tôi
không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề "Ba Chúa trong một
Chúa" hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi,
nên tôi không tin.”
Chỉ vào luồng
sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: "Bạn có tin mặt trời không?" Kẻ hoài
nghi trả lời: "Dĩ nhiên có chứ.” Linh mục nói tiếp: "Được, ánh sáng bạn
thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng
ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi
có phần tương tự như vậy: Mặt trời là Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh
sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và
Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh
sáng và sức nóng được không?" Người hoài nghi im lặng.
9. Colombus
sùng kính Chúa Ba Ngôi
Người ta kể
rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối
cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi
hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì
mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh.” Trong cuộc khởi
hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba
Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu
tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi
là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa
giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên
xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng
ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu
mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ
anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang
sống. Amen.
10. Tình yêu
kỳ diệu
Ngày
22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày
22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng
khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà
Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất,
Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn
trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic
sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không
may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu
chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng
đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một
cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực
phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất
hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân
tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế
giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành tinh.” Qua những bài diễn thuyết,
Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh
nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
11. Tình yêu
nên một và chưa nên một
Có người môn
đệ của nhà đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và
bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi
thoát tục.”
Nghe nói thế,
vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết.
Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này
khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm
mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân
nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau,
vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người
quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời
rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay
cho anh.”
Anh chàng giả
chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh
là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của
mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần
chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống.”
12. Chính
tôi đã gặp thấy Người.
Hồi ấy
André Foissard là một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân
phụ ông là người vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách
báo có nội dung bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín
của mình. Nhưng dù sống trong môi trường vô tín như thế, Foissard vẫn
đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
Một hôm,
anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt
của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên
cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của
Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập giá ấy một hồi lâu và những
giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy
mình như một đứa con đi lạc trong một thời gian dài, vừa tìm thấy
người cha thân yêu.
Sau này anh
đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là "Quả
thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài.”
13. Biết
Chúa bằng đức tin
Nhà văn Nga,
Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường
ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy.
Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ,
sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu
có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu.
Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự
vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng
trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng.”
Người nào có
cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật
hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần
tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy.”
Khi người ta
biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta
không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là
đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không
biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết
đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
14. Hình ảnh
của Thiên Chúa
Công chúa
Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo:
Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi
là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích
Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên
Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi,
để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự
thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở
trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
15. Bắt đầu
biết Chúa
Isaac Newton
là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông,
ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không
biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một
cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi
bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao
la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi.”
Cả khi chúng
ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt
đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng
lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
16. Con người
tìm Chúa
Đức Hồng y
Henri de Lubac đã nói:
“Con người
tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt
sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.
“Nhưng Thiên
Chúa vừa là bên bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội
trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng
về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn
đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô
và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.”
17. Chúa Ba
Ngôi ngự trong ta
Dù ta sống lẻ
loi cô độc, dù mọi người bỏ ta, dù ta phải gian nan cơ cực, điều an ủi ta là
hãy nhớ Chúa Ba Ngôi đang sống với ta, đang ngự trong tâm hồn ta.
Sau khi được
trả tự do, mục sư Wurmbrand, người Roumanie, cho xuất bản cuốn “Mes prisons
avec Dieu” (bản dịch sang Pháp văn). Mục sư, trong cuốn sách này, đã tả một số
chi tiết:
Trong thời
gian bị cầm tù, mục sư phải ở dưới một căn hầm tối tăm, lạnh lẽo. Cực hơn nữa
là phải ăn uống và làm vệ sinh tại chỗ!
Các bạn tù với
ông la lết trong đó, cuối tuần mới được phép quét dọn. Ông đã chịu nhiều cực
hình. Có lần lính gác bắt ông ăn phân, ông xin phép được ăn phân của mình nhưng
họ không chịu, bắt phải ăn phân người khác.
Suốt mười
năm tù ngục như thế, mục sư vẫn kiên trì dũng cảm. Ông luôn luôn hăng hái phục
vụ các bạn tù, động viên tinh thần họ, cư xử với mọi người trong tâm tình bác
ái yêu thương.
Bí quyết của
ông: “Tôi đang ngồi tù với Chúa.”
Ước gì trong
cuộc sống chúng ta, mỗi khi gặp rủi ro, buồn khổ, bị bỏ rơi, bị hất hủi, bị dị
nghị, bị hiểu lầm… hãy can đảm nói: “Tôi đang sống với Chúa. Có Chúa Ba Ngôi
đang sống trong tôi. Thế là đủ cho tôi rồi.”
18. Con người
là hình ảnh Thiên Chúa
Nhà văn
Robert Louis Stevenson kể chuyện về một con tàu chở khách bị bão đánh giạt gần
bờ, có nguy cơ bể tan vì lao vào bờ đá.
Giữa cảnh
kinh hoàng đó, một hành khách băng qua con tàu. Dò dẫm trên boong, ông tìm đến
phòng thuyền trưởng, và thấy một cảnh tượng đáng nhớ: Thuyền trưởng nắm chặt
bánh lái, xoay con tàu từng chút một ra biển
... và mỉm
cười với ông.
Người hành
khách đó quay lại phòng của hành khách, và động viên mọi người đang co quắp vì
sợ hãi: “Tôi đã thấy mặt thuyền trưởng, và ông ấy mỉm cười với tôi. Mọi sự đều
tốt đẹp.”
Chỉ một nụ
cười mà làm yên bão tố! Sức mạnh của nụ cười nằm ở tình yêu mà nó muốn diễn tả,
một tình yêu liên kết mọi người nên một trong giông tố, thử thách. Đó chính là
nét đẹp của con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa, được chia sẻ hạnh phúc
của chính Ngài.
Vâng, sự sống
và hạnh phúc của Thiên Chúa nằm ngay trong bản tính yêu thương của Ngài.
19. Nhận biết
nhờ đức tin
Năm 1945, tại
nhà ga Verona, Italia, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập
trung của Đức Quốc Xã. Chuyến xe lửa đầu tiên xuất hiện làm vang lên những tiếng
reo vui tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.
Từ trên xe lửa
những tấm thân tiều tuỵ bước xuống sân ga giữa những tiếng cười pha lẫn tiếng
khóc của người thân. Cuối cùng một anh lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ
từ tiến về phía một người đàn bà già yếu, và chỉ đủ sức thốt lên tiếng ‘Mẹ’.
Hai mẹ con
ôm chầm lấy nhau… Người mẹ xót xa:
- Làm sao một
người mù như con lại có thể tìm đến mẹ?
- Thưa mẹ,
con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, anh lính mù trả lời, nhưng trái tim con đã
hướng dẫn con.
Sự khôn
ngoan của Thiên Chúa đã nhập thể, sống giữa nhân loại để nên ánh sáng cho tôi:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối”, và ánh sáng đó đã nên hoàn hảo trong Thánh
Thần được ban cho tôi: “Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả
sự thật.”
Còn gì vui
hơn khi tôi cũng có thể thốt lên, cùng với thầy tiểu đệ Carlo Carretto: “Ba
Ngôi trở nên một thực tại trong ta như vị khách của tâm hồn. Tại sao lại đi tìm
Thiên Chúa ở bên ngoài các vì sao đang khi Ngài ở rất gần ta, bên trong
ta?”
20. Chúa ở
bên ta
Khi Kathryn
Koob bị bắt làm con tin ở Iran, đám đông giận dữ la hét bên ngoài phòng của cô
hầu như suốt ngày. Một đêm nọ, cô giật mình thức giấc. Cô nói: “Tôi quay lại
mong gặp một trong những người bảo vệ, nhưng không có ai ở đó cả.” Kathryn thêm
rằng vì một lý do nào đó, cô chợt nhớ đến Chúa Thánh Thần. Từ lúc đó, dường như
Chúa Thánh Thần hiện diện bên cô trong lao tù một cách đặc biệt. Cô nói: “Ngài
dạy tôi biết yêu thương... và nhận ra những điều mới mẻ.”
Hiện tại,
tôi ước ao Chúa Thánh Thần ban tặng cho tôi tình yêu và sự hiểu biết mới mẻ
trong lĩnh vực nào của đời tôi?
Lạy Chúa
Thánh Thần, Đấng Bào Chữa, xin hoàn thiện trong chúng con công trình Chúa Giêsu
đã khởi sự. (ĐGH Gioan 23).
Lời
Chúa: Ga 3, 16-18
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai
tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi,
vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Thiên Chúa tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một
bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng
núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những
nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận
xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền
tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời
trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình
và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch
bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa
thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa
Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập
thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để
đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc
Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên
Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì
chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ
vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không
phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã
yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình
yêu thương.
2. Dấu thánh giá
Khi
suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu
thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước
khi ra khỏi nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện,
buổi tối trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức
quan trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu
thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những
ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa
trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện
qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với
niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho
những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người
Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi
Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý
thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy
không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống
như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời
nói của chúng ta.
Xin
Chúa cho chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ
vậy, đời sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này,
chúng ta sẽ “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv
131,2).
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Augustinô
thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm,
con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu
óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé
đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi
dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng
dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy.
Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang
làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
-
Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh
nhân lắc đầu bảo nó:
-
Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa
bé ngước lên và mỉm cười nói:
-
Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về
Thiên Chúa.
Thánh
Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người
không thể nào thấu hiểu được.
(D.Wahrheit,
Tìm về cõi phúc, tr 68).
4. Hình ảnh về Ba Ngôi
Đây
quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều
hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại
công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu
được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây
thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng
– nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây."
Dĩ
nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên
chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước,
mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có
thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một
phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là
ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng
nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và
cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục
thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm
thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể?
Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của
chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối
trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...
5. Tình yêu hiến thân.
Ngày
20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới
25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho
bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối,
thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối
cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu
khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị
Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng
thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ."
Bác
sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy
sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt."
6. Bài học từ loài ngỗng.
Vào
mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ
V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con
ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau
nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với
khi chúng bay từng con một.
Mỗi
khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức
trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn
để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
Khi
con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng
khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng
kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của
chúng.
Cuối
cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác
sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở
lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó
chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet
theo Thùy Trang forward)
7. Tình yêu của Thiên Chúa
Một
bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn
giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi
bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia,
cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu
tình yêu là gì cả. Bà bảo:
-
Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi
cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha
sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ.
Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ
Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị
mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người
trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời
này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy
tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước
mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây
giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
8. Để biết Chúa
Một
người nông dân đi lên thành phố. Đang di trên một đường phố đông đúc ồn ào, bổng
dưng người nông dân dừng lại và nói với người bạn. “Tôi nghe có tiếng dế kêu.”
Người bạn ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao anh có thể nghe được tiếng dế kêu giữa những
ồn ào của đường phố như thế này?” Người nông dân trả lời: “Tôi có thể nhận ra
được tiếng dế kêu bởi vì tai tôi rất nhạy cảm với tiếng dế.”
Rồi
ông ta lắng nghe một cách chăm chú hơn, và đi theo tiếng dế, tìm thấy chú dế ở
dưới phiến đá cạnh cửa sổ của một ngôi nhà. Người bạn vẫn không hề nghe thấy tiếng
dế đó. Người nông dân vẫn không lấy gì làm lạ. Như để giải thích cho người bạn
hiểu, ông móc túi ra mấy đồng bạc cắc và thảy nó lên vỉa hè. Nghe tiếng bạc kêu
lẻng kẻng, tất cả khách qua đường đều dừng lại và nhìn. Người nông dân mới nói
với người bạn: “Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ. Không ai trong họ có thể nghe được
tiếng dế kêu, nhưng tất cả họ lại nghe được tiếng đồng bạc kêu. Người ta nghe
thấy những tiếng mà tai họ mong mõi nghe, còn những cái khác họ không nghe thấy.
Điều
tốt nhất mà một Kitô hữu có thể làm, đó là mong muốn được lắng nghe và suy niệm
Tin Mừng về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta muốn biết Chúa bằng cách nhìn
vào lời nói việc làm, cuộc sống của Chúa Giêsu.
9. Thiên Chúa tình yêu --“Như Thầy Đã Yêu” --Thiên
Phúc
Một
người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước
nhà.
Cô
bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn
gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông
bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt
xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt
nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò
mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa
chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá
thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên
Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài
thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã
không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con
người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ
về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa
đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
Chỉ
những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ
những ai thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chỉ
những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa
tình yêu.
10 Tình yêu trao tặng
Ngày
kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói
rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi
nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa
cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi
những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy
có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào
thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với
những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng
chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
- Tại
sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà
truyền giáo đáp:
-
Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái
của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy
nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
-
Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà
truyền giáo mỉm cười đáp:
-
Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể
từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ
băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là
em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc
từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống
với em kháo láo với nhau rằng:
-
"Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng,
con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà
lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta?
11. Con búp bê và biển cả--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong
quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông
A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng
muối:
Muốn
tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một
mình tiến ra bờ biển và hỏi:
-
“Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và
biển cả đã trả lời:
-
“Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây,
hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả."
Con
búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước
rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi
chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi
lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
-
“Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế
nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa
nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì
không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm
tháng còn lại với đôi chân đã mất."
Tính
tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng
muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh
chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống
nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người
đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về
Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng
khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế
nào.
12. Hình ảnh của Thiên Chúa
Tại
vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một
nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng
là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là
gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng
nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới
những người láng giềng chung quanh.
Ông
có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần,
ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những
ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách
rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả
lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã
bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người
khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng
gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về
nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho
Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều
người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông
Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết.
Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh
chị em thân mến,
"Tôi
thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó." Câu nói
này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên
Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã
yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt
như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một
Ngài nơi mỗi người chúng ta.
13. Yêu thương nhau vì là con Thiên Chúa
Ngày
xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu có nên những người
con của ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật chất. Nhưng chuyện đời
thường vốn vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có hai và cứ thế tánh đua
đòi lâu dần thành thói quen, đến lúc không tự chủ được thì đã trở thành lòng
tham vọng. Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng nhiều và lan ra trên mọi
bình diện. Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc nào cũng khổ tâm vì luôn
nghĩ đến sự hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn lớn, cả năm người con nhờ
tiền của cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ ngơi, nhưng vẫn giữ thói
ganh ghét tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ có. Nhìn cảnh các con
không hòa thuận, người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên bảo nhưng dù ông có cố
gắng thế nào, các con ông cũng không bỏ được lòng hiềm kỵ lẫn nhau làm ông rất
đau lòng.
Sau
một thời gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông
cho gọi các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông hai bó đũạ Các
con ông còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì thì ông lấy
một bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:
-
Các con mỗi đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh nghiệm về việc
các con làm dễ hay là khó.
Ông
vừa dứt lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa thật dễ dàng.
Nhìn
những chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông cũng yên lặng đợi
chờ. Một lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và dịu dàng nói:
Tốt.
Các con đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ, các con lại thay
phiên nhau bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.
-
Người con trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến nỗi mặt mũi đỏ
gay nhưng không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh chịu thua, người
cha bảo người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn, người con thứ hai
không bẻ được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người con thứ năm bỏ cuộc
mới ôn tồn nói:
-
Đó, các con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các con cứ tiếp tục
hiềm tị chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không khác gì một chiếc
đũa và các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con biết thương yêu
đoàn kết lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ gãy được các
con.
Năm
người con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và hối hận vì ăn ở với
nhau không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy ông vừa khóc, vừa hứa
là từ nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương đoàn kết với nhau.
Sau
đó người cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất đoàn kết và thương
mến lẫn nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không một ai có thể cạnh
tranh được với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của gia đình họ.
14. Trí khôn và ý muốn
Cách
đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia,
nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
-
Thượng đế là gì?
Ông
ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới,
thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và
khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta
lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta
lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến
và giận dữ hỏi:
-
Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy
giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
-
Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng
bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy
bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
15. Mặt trời ban sự sống
Một
vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến
ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
-
Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề
Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho
tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ
vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
-
Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông
ta trả lời:
-
Dĩ nhiên là có.
Vị
linh mục nói tiếp:
-
Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu
cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với
Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt
trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa
Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng.
Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự
như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16. Đủ ánh sáng chưa?
Bà
Rose đã viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm nay tôi đã 40 tuổi
và tôi mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của tôi, nhưng ông ấy
không được có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời cho bà Rose như
sau, "Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng mong muốn để
tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không bao giờ tìm
được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người đàn ông hoàn
hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng ta đều có những
khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có tội
Vậy
thì chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm nay Giáo Hội giới
thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có thể tin tưởng, cậy
trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là Thiên Chúa Ba
Ngôi.
17. Ba ngọn nến lung linh--Huệ Minh
Làm
việc mệt, tôi thường nghe nhạc cho thư giãn tâm hồn. Thi thoảng mở lên và nghe:
Ba ngọn nến lung linh.
Ba
là cây nến vàng
Mẹ
là cây nến xanh
Con
là cây nến hồng
Ba
ngọn nến lung linh
A à
á a a
Thắp
sáng một gia đình
Gia
đình, gia đình
Ôm ấp
ta những ngày thơ
Cho
ta bao nhiêu niềm thương mến
Gia
đình, gia đình
Vương
vấn bước chân ra đi
Ấm
áp trái tim quay về
Gia
đình, gia đình
Ôm ấp
ta những ngày thơ
Cho
ta bao nhiêu niềm thương mến
Gia
đình, gia đình
Bên
nhau mỗi khi đơn độc
Bên
nhau đến suốt cuộc đời
Lung
linh, lung linh tình mẹ, tình cha
Lung
linh, lung linh cùng một mái nhà
Lung
linh, lung linh cùng buồn cùng vui
Lung
linh, lung linh hai tiếng gia đình
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM C
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể
lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất
cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy,
và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh
Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy
đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Đó là tình yêu
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí
Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng
xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc
lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu
lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB.” Cho đến khi công tố
viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết
người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu
đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người
nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính
là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995,
chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con
dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay
bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11,
làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với
người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng
hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn
không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày
quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền
còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai
cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở
tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở
về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị
đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ
khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút
thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình:
"Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học
xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con
của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên
Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói
được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang
bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..."
Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo,
bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết
thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại...
(theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn
trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường
cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn
lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên
Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9).
2.
Hình ảnh về Chúa Ba ngôi
Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa
Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân
gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về
công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ
vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi
em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được
ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe
so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả
những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung
thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa
Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba
Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể
hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi
dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp
nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần
gian.
3.
Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán.
Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người
có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy,
đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi
thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết.” Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn
ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy.
Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và
tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được.”
Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh
một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa.”
Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo:
"Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ,
đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi.
Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ
Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác.”
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn
ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của
Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời:
"Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không
khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên
Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe.
Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng
như ở ngay trên đầu chúng ta.”
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe.
Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn
cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa.” Rồi chàng dẫn nhà vua đến một
cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó
thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa.” "Ta có thể nhìn thấy
Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn.” Nhà vua chăm chú nhìn xuống
giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói:
"Ta chỉ thấy mặt Ta thôi.” Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ
Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó.”
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và
giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có
nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi
trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả
người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng
nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn
ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở
trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó
chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân
thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt
chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM).
4.
Những hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên
Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và
Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng
đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa
mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó
diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa
vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải
lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng
một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ
ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài
mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau.
Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ
lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra
mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy
toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của
mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không
bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn
phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời.
Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa.
Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính
Thiên Chúa.
5.
Augustinô và mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Thánh Augustinô một hôm đi bách bộ trên bãi biển và
tâm trí thì luôn suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: Làm sao chỉ có một Thiên Chúa và Ngài lại có
Ba Ngôi khác nhau: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con và Ngôi thứ Ba là
Thánh Thần. Như vậy lẽ ra phải có Ba
thay vì chỉ có Một Thiên Chúa mới hợp lý?
Augustinô không sao lý giải được mầu nhiệm này: Một mà lại là Ba, và Ba
chỉ ở trong Một?
Bấy giờ Augustinô trông thấy em bé trai đang ngồi
trên bãi biển, tay cầm một cái vỏ sò múc nước biển rồi đổ vào một cái lỗ nhỏ
hang còng ở trên bãi cát. Vị Giám mục hỏi cậu bé:
- Này em, em đang làm gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Cháu đang cố gắng múc tất cả nước của đại dương
này để đổ vào lỗ hang của con còng này
Vị Giám mục nói:
- Sao em lại làm một điều vô lý như thế? Em hãy nhìn
xem: nước biển bao la như vậy thì làm sao cái lỗ hang còng nhỏ bé kia có thể chứa
hết nước của nó được?
Nhưng Augustinô thật bất ngờ, khi nghe cậu bé đáp:
- Việc cháu làm đây cũng không vô lý bằng việc Ngài
đang làm: làm sao ngài có thể dùng trí khôn nhỏ bé của ngài mà hiểu thấu được mầu
nhiệm lớn lao vô cùng của Thiên Chúa?
Nói xong cậu bé biến mất.
Bấy giờ Giám mục Augustinô hiểu rằng Chúa đã sai
thiên thần đến để giúp mình ý thức về sự giới hạn và bất lực khi phải đối diện
với những mầu nhiệm cao cả vô cùng của
Thiên Chúa.
6.
Thiên Chúa là tình yêu
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai.
Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất
công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch
cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên
Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:
- Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu
thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về
câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một
ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu
đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của
Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân
thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và
giúp đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại
thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:
- Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu
thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình
yêu của Thiên Chúa.
7.
Từ ngữ “ba ngôi”
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi.” Từ ngữ
“ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng
“nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng
nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng
từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại,
nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ
ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh
Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là
một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền
năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của
tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập
thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên
Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự,
dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng
“ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay
cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt
mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên
Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ
cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy,
không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều
Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
8.
Chúa Ba ngôi như mặt trời
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một
người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng:
"Tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn
đề "Ba Chúa trong một Chúa" hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có
thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin.”
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: "Bạn
có tin mặt trời không?" Kẻ hoài nghi trả lời: "Dĩ nhiên có chứ.” Linh
mục nói tiếp: "Được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây
150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh
sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: Mặt trời là
Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và
ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn
có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?" Người
hoài nghi im lặng.
9.
Colombus sùng kính Chúa Ba Ngôi
Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám
phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính
Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba
Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân
danh Chúa Ba Ngôi cực thánh.” Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498,
Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu
tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm
tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa
Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng
kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết
đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba
Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất
yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình,
gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
10.
Tình yêu kỳ diệu
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân
không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết
(45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh
viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước
15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến
Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne,
Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick
đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như
ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế
nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa
trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống:
"Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy
vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn
lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu
nhất hành tinh.” Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin
và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành
người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
11.
Tình yêu nên một và chưa nên một
Có người môn đệ của nhà đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế
gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá
thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục.”
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật
nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị
đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã
thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được
mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến.
Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang
khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống
anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh.”
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người
trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc
nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng
một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không
có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống.”
12.
Chính tôi đã gặp thấy Người.
Hồi ấy André Foissard là một sinh viên thuộc
một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần, cố tình
để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác đạo Công
giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống trong môi
trường vô tín như thế, Foissard vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh
Thần.
Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri
để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng
Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm
nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập
giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên
má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong một thời
gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu.
Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong
một tác phẩm thời danh là "Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã
gặp Ngài.”
13.
Biết Chúa bằng đức tin
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia,
ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng
Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối
đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một
vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những
cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào
linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân
mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy,
ông hãy bái quì Người và thinh lặng.”
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện
của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang
có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn
quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy.”
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách
thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều
đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên
Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự
hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
14.
Hình ảnh của Thiên Chúa
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc.
Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua.
Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về
sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng
ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta.
Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống
Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những
điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong
người ấy.
15.
Bắt đầu biết Chúa
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại
của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế
nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh
thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp
hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải
ra trước mắt tôi.”
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm
Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi
đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
16.
Con người tìm Chúa
Đức Hồng y Henri de Lubac đã nói:
“Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại
dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho
con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.
“Nhưng Thiên Chúa vừa là bên bờ vừa là đại dương. Ai
bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở
trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà
không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên
Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.”
17.
Chúa Ba Ngôi ngự trong ta
Dù ta sống lẻ loi cô độc, dù mọi người bỏ ta, dù ta
phải gian nan cơ cực, điều an ủi ta là hãy nhớ Chúa Ba Ngôi đang sống với ta,
đang ngự trong tâm hồn ta.
Sau khi được trả tự do, mục sư Wurmbrand, người
Roumanie, cho xuất bản cuốn “Mes prisons avec Dieu” (bản dịch sang Pháp văn). Mục
sư, trong cuốn sách này, đã tả một số chi tiết:
Trong thời gian bị cầm tù, mục sư phải ở dưới một
căn hầm tối tăm, lạnh lẽo. Cực hơn nữa là phải ăn uống và làm vệ sinh tại chỗ!
Các bạn tù với ông la lết trong đó, cuối tuần mới được
phép quét dọn. Ông đã chịu nhiều cực hình. Có lần lính gác bắt ông ăn phân, ông
xin phép được ăn phân của mình nhưng họ không chịu, bắt phải ăn phân người
khác.
Suốt mười năm tù ngục như thế, mục sư vẫn kiên trì
dũng cảm. Ông luôn luôn hăng hái phục vụ các bạn tù, động viên tinh thần họ, cư
xử với mọi người trong tâm tình bác ái yêu thương.
Bí quyết của ông: “Tôi đang ngồi tù với Chúa.”
Ước gì trong cuộc sống chúng ta, mỗi khi gặp rủi ro,
buồn khổ, bị bỏ rơi, bị hất hủi, bị dị nghị, bị hiểu lầm… hãy can đảm nói: “Tôi
đang sống với Chúa. Có Chúa Ba Ngôi đang sống trong tôi. Thế là đủ cho tôi rồi.”
18.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa
Nhà văn Robert Louis Stevenson kể chuyện về một con
tàu chở khách bị bão đánh giạt gần bờ, có nguy cơ bể tan vì lao vào bờ đá.
Giữa cảnh kinh hoàng đó, một hành khách băng qua con
tàu. Dò dẫm trên boong, ông tìm đến phòng thuyền trưởng, và thấy một cảnh tượng
đáng nhớ: Thuyền trưởng nắm chặt bánh lái, xoay con tàu từng chút một ra biển
... và mỉm cười với ông.
Người hành khách đó quay lại phòng của hành khách,
và động viên mọi người đang co quắp vì sợ hãi: “Tôi đã thấy mặt thuyền trưởng,
và ông ấy mỉm cười với tôi. Mọi sự đều tốt đẹp.”
Chỉ một nụ cười mà làm yên bão tố! Sức mạnh của nụ
cười nằm ở tình yêu mà nó muốn diễn tả, một tình yêu liên kết mọi người nên một
trong giông tố, thử thách. Đó chính là nét đẹp của con người được dựng nên theo
hình ảnh Chúa, được chia sẻ hạnh phúc của chính Ngài.
Vâng, sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa nằm ngay
trong bản tính yêu thương của Ngài.
19.
Nhận biết nhờ đức tin
Năm 1945, tại nhà ga Verona, Italia, dân chúng đang
chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Chuyến xe lửa
đầu tiên xuất hiện làm vang lên những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao
giờ chấm dứt.
Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tuỵ bước xuống
sân ga giữa những tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng một
anh lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà
già yếu, và chỉ đủ sức thốt lên tiếng ‘Mẹ’.
Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ xót xa:
- Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến mẹ?
- Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, anh
lính mù trả lời, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con.
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã nhập thể, sống giữa
nhân loại để nên ánh sáng cho tôi: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng
Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối”, và ánh
sáng đó đã nên hoàn hảo trong Thánh Thần được ban cho tôi: “Khi Thần Chân lý đến,
Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật.”
Còn gì vui hơn khi tôi cũng có thể thốt lên, cùng với
thầy tiểu đệ Carlo Carretto: “Ba Ngôi trở nên một thực tại trong ta như vị
khách của tâm hồn. Tại sao lại đi tìm Thiên Chúa ở bên ngoài các vì sao đang
khi Ngài ở rất gần ta, bên trong ta?”
20.
Chúa ở bên ta
Khi Kathryn Koob bị bắt làm con tin ở Iran, đám đông
giận dữ la hét bên ngoài phòng của cô hầu như suốt ngày. Một đêm nọ, cô giật
mình thức giấc. Cô nói: “Tôi quay lại mong gặp một trong những người bảo vệ,
nhưng không có ai ở đó cả.” Kathryn thêm rằng vì một lý do nào đó, cô chợt nhớ
đến Chúa Thánh Thần. Từ lúc đó, dường như Chúa Thánh Thần hiện diện bên cô
trong lao tù một cách đặc biệt. Cô nói: “Ngài dạy tôi biết yêu thương... và nhận
ra những điều mới mẻ.”
Hiện tại, tôi ước ao Chúa Thánh Thần ban tặng cho
tôi tình yêu và sự hiểu biết mới mẻ trong lĩnh vực nào của đời tôi?
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Bào Chữa, xin hoàn thiện
trong chúng con công trình Chúa Giêsu đã khởi sự. (ĐGH Gioan 23).
LỄ THÁNH THỂ NĂM A - BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI
Lời Chúa: Ga 6, 51-59
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ
sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống."
Vậy người Do-thái tranh luận với
nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống
máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống
máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì
thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống.
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta,
thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta,
nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là
bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết.
Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời."
TRUYỆN
KỂ
1.
Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi
"Lúc đó tôi biết thế nào
tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống." Đó là lời của bà Susanna
sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi
lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn
tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một
ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ
khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được
sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài
trở nên thức uống cho chúng ta.
2.
Lương thực hằng ngày
Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên
Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một
Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ
các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo
khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi
ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống."
3.
Thánh Thể, nguồn sống thiêng liêng.
Trong lời mở đầu của thông điệp
về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phalô II đã
xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn
thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của
mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình
thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế”(Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về
Quê Trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ
trên họ niềm hy vọng tin tưởng."
Công đồng Vatican II tuyên bố
cách xác đáng rằng “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép
Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa
Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng”
(P.O, số 5).
Thánh Thể đóng một vai trò rất
quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính
Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính
này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về
phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang
thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8.9.1264, Đức Thánh Cha Urbanô
ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.
4.
Biến đổi trong Chúa.
Một người ngoại giáo hỏi người bạn
Công giáo:
- Người Công giáo các bạn ăn
Chúa Kitô phải không?
- Vâng, người Công giáo trả lời.
Người kia hỏi tiếp:
- Vậy sao các bạn không trở nên
như Chúa?
Một lát sau, khi đi ngang qua trại
heo, người Công giáo hỏi:
- Bạn có khi nào ăn thịt heo
không?
- Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy?
- Sao bạn chưa biến đổi thành
heo?
Đó là câu trả lời cứng cỏi nhưng
kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đổi trong
Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ.
5.
Hiện diện thực sự.
Một linh mục và một mục sư Tin
lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi
qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần. Ông tin hết mọi
chân lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy
nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói: “Nếu tôi có thể tin được rằng
tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời;
nhưng xem chừng tôi không thể tin được."
Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng,
Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Qùi gối bên giường, linh mục
cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa
nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối.
Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường.
Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả. Rồi người hấp hối cứ
nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa
phều phào: “Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng
cho toàn thế giới chân lý này."
6.
Nuôi dưỡng và biến đổi
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám
Mục Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm sống mầu nhiệm Thánh Thể như sau: “Mỗi sáng,
tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp
gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường
phố." Bất cứ ai được Thánh Thể cảm hóa đều nhận ra Ngài nơi anh chị em
mình, vì Ngài đang hiện diện ẩn dấu nơi họ, nhất là nơi những người nghèo khổ
và bất hạnh. Chỉ khi cảm nhận thâm sâu về Mình Máu Chúa Giêsu đang thấm nhập
vào máu thịt ta, mới làm ta choáng ngợp và thay đổi dần dần, thay đổi tận căn,
để như Đức Kitô, ta lại tiếp tục trở thành tấm bánh cho người khác.
Tuổi trẻ chúng ta luôn khao khát
tình yêu, muốn yêu và được yêu đến vô cùng. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa qua Đức
Kitô mới lấp đầy khát vọng vô biên của chúng ta. Hãy mở toang trái tim mình cho
tình yêu Chúa trào tuôn. Tình yêu là con đường ngắn nhất để cho Mình Chúa biến
hóa cuộc đời ta thành chính Chúa, vì Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, để
cho tâm hồn ta được thỏa lòng khát mong.
Ước chi chúng ta thật sự hăm hở
và vui mừng mỗi khi được rước Chúa, được cận kề bên Chúa, để được sống trong
Chúa và Chúa sống trong ta. Dần dần ta mới cảm thấy Chúa lấp đầy trái tim khao
khát của mình, mới cảm nhận Ngài là sự sống viên mãn và niềm vui miên trường
cho chúng ta từ chính cuộc sống hôm nay, để ta dám sống vì tha nhân.
7.
Sự sống đích thực—Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Trong lịch sử Giáo Hội, Bí Tích
Thánh Thể đôi khi được chứng thực bằng những phép lạ. Trong những phép lạ đó,
cũng có những trường hợp là Bí Tích Thánh Thể nuôi dưỡng cả phần thân xác con
người. Louis Lateau, một nguời Bỉ được in năm dấu thánh vào năm 1868. Từ nhỏ,
cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn
được ăn chút ít, mỗi ngày một mẫu bánh nhỏ. Và kể từ năm 1871 trở đi, cô không
ăn uống được gì, chỉ còn rước lễ hàng ngày, trong suốt bảy năm.
Những trường hợp khác tương tự
cũng đã xảy ra trong thời gian gần đây. Trong số những người đó, có Têrêsa
Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Họ chỉ rước lễ mỗi
ngày. Như thế, Thánh thể vốn là của ăn thiêng liêng đôi khi trở nên một ơn lạ
nuôi sống cả phần thân xác.
Tuy nhiên khi Chúa Giêsu nói đến
bánh hằng sống, Ngài không có ý nhắc đến cuộc sống thể lý mà Ngài có ý nói đến
sự sống thiêng liêng, sự sống đơì đời trong tình yêu và hạnh phúc với Thiên
Chúa.
Thực ra, cái mà chúng ta gọi là
sự sống, trong lãnh vực tự nhiên ở đời này, chẳng đáng gọi là sự sống. Trong
Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu muốn sửa sai quan niệm của chúng ta về sự sống
và sự chết. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho ông bà tổ Ađam và Evà cả
hai sự sống ấy. Chẳng những đời sống thể lý mà còn đời sống siêu nhiên nữa. Đó
là sự sống thân ái kết hiệp với Thiên Chúa.
8.
Chiếc nhẫn kỷ vật của tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới
lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống thật hòa hợp hạnh
phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi
nhà thân thương, anh chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và
một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một nồng thắm.
Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng trên đường từ sở
làm về nhà bị trúng mưa. Anh đã bị cảm lạnh phải nằm liệt giường và được vợ anh
tận tình chăm sóc. Do bệnh không thuyên giảm, nên anh đã được vợ mang đi bệnh
viện và được chẩn đoán mắc bệnh sưng phổi. Sau đó anh tiếp tục được bác sĩ xét
nghiệm và xác định anh bị mắc ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba vô
phương cứu chữa. Khi biết mình sắp chết, anh chồng đã cầm lấy tay vợ thều thào
nói: “Em yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn
sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống
bên em. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà
cách đây hơn một năm hai vợ chồng mình đã trao cho nhau khi kết ước trước bàn
thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để em tin là anh
luôn ở bên em và hằng cầu xin cho em an lành hạnh phúc." Nói xong, anh
tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã
trao nhẫn trong lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng tại
nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, hằng ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất
trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi viếng nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ
trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng để cầu nguyện cho anh. Tay chị có đeo
hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và một chiếc nhẫn thứ hai là kỷ vật
thân thương của người chồng quá cố đã để lại khi sắp từ giã cuộc đời.
Hơn hai ngàn năm trước đây,
trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể, để trao cho Hội Thánh dấu
hiệu của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh của Người dưới hình
bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ được sự sống
đời đời.
9.
Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta
Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động
đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình
mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt
động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ
trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ,
tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai
tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.
Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất
nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi
thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng
cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.
Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc
tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy
như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ
xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết.
Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: "Một đứa bé! Có một đứa
bé!"
Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ
cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một
cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người
mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy
thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình
khi đội cứu hộ nhấc em lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức
khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên
trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: "Nếu con có thể sống sót, con
phải nhớ rằng mẹ rất yêu con."
Một tin nhắn thật cảm động. Cảm
động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua
bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc
này mà nhớ đến Ta."
10.
Nên một với Chúa Giêsu
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận
được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa
thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào
thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận
được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.
Khi rước Mình Máu Chúa Giê-su,
chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, như bàn tay nối liền cơ thể.
Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho
ta, tựa như sự sống của thân mình chuyển thông cho bàn tay. Nhờ đó, chúng ta được
mang lấy Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi thân mình chúng ta, như lời Chúa
Giê-su xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)
Như thế, khi hiệp dâng Thánh lễ
sốt sắng và trọn vẹn, chúng ta được hưởng cùng một lúc ba hồng ân vô giá:
- Được xóa bỏ tội lỗi;
- Được kết hợp nên một với Chúa
Giê-su
- Và được tiếp nhận Sự Sống đời
đời do Chúa thông ban.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa phải trả giá rất đắt, trả
giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ
quá đỗi tuyệt vời này. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ
ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng
ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh lễ để tận hưởng những ân huệ
lớn lao.
11.
Từ thế giới này đến thế giới vĩnh cửu!
Một trong những cuốn sách nổi tiếng
và bán chạy nhất là cuốn "On Death và Dying" (Hấp Hối và Chết). Tác
giả cuốn sách này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối
và không chấp nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): "Tại
sao tôi lại chết?" 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận
lợi hơn, 4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp
nhận (acceptance).
Tất cả mọi người chúng ta cho dù
ở giai đoạn cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy
theo mỗi người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng
mẹ là chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu nói với chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc
tới. Giai đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là "Chúng
ta sẽ đi đâu sau khi chết?"
Đã có rất nhiều thuyết về sự sống
đời sau mà con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người.
Mỗi một dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày
xưa, họ cho rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh
phúc và không có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái
Nhĩ Lan, sự sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc
(Island of the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều
vui mừng không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc
hay than van.
Tân Ước thì không cho chúng ta
hình ảnh về thế giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không
nói cho chúng ta biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho
chúng ta một vài hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu,
căn nhà với nhiều chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống
đời sau. Ngài trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Ta là
bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta
sẽ ban tặng, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51).
12.
Chúa là nguồn sống
Sau đây là tâm trạng của hai
hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục và một của giáo dân, để giúp chúng ta
thấy sự khao khát và sự biến đổi từ Nhiệm tích Thánh Thể:
- Có một thương gia Công giáo
người Đức đã đến đảo Green Land, miền Bắc cực vào thời đạo Công giáo còn bị cấm
hoạt động ở đây. Vì công việc làm ăn, ông phải ở lại đảo suốt mùa Giáng Sinh.
Được biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó, đã mời ông đến nhà để cầu
nguyện cùng với họ trong đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần
quanh một chiếc bàn nhỏ và cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc, họ đọc, nghe
Kinh Thánh và một vài lời nguyện, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ.
Trong hộp, có một khăn Thánh đã vàng úa theo thời gian. Vừa nâng chiếc khăn
Thánh lên, ông lão vừa run run, vừa bày tỏ: “Cách đây 50 năm, Thánh Lễ Giáng
Sinh cuối cùng trên mảnh đất này đã được dâng trên chiếc khăn Thánh mà tôi đang
cầm. Lúc đó, tôi là một chú giúp lễ và chiếc khăn này là vật duy nhất còn lại
khi ngôi Thánh Đường bị thiêu rụi. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên chiếc
khăn này." Sau khi nghe những lời ấy, tất cả mọi người quì gối và cầu nguyện
trong tiếng nghẹn ngào: “Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gởi các
Linh mục đến để chúng con được phúc có lễ Chúa Giáng Sinh, để chúng con được dự
phần vào Mình Máu Chúa." Mọi người lúc đó, chẳng một ai cầm được nước mắt.
Đôi mắt của người thương gia Đức đã rơi lệ chẳng biết từ lúc nào. Lòng ông cảm
động, bùi ngùi với tràn đầy ước muốn, tha thiết được rước Thánh Thể. Một sự
khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến Nhà Thờ dự lễ mỗi
ngày.
- Và đây là trang nhật ký của một
Linh mục: “… Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật
khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm Thần học, những bổn phận “phải” làm
hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, triết đông và
Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật
tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra
ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi
nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên,
đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại
mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giê- su cứ đeo bám tôi mãi. Một
năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi
làm… Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất
động trong Nhà Nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát
đòi tôi đền bù.
Trước khi làm Linh mục vài hôm,
một đêm tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác,
hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay từ
giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người
bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi
và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi
Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…"
13.
Thánh Thể Là Trung Tâm Đời Sống Kitô Hữu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đức cố Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận
đã từng nói: Tôi mơ ước, Tòa Thánh cùng với tất cả các cơ quan của mình, như một
bánh thánh lớn, một chiếc bánh duy nhất được dâng hiến trong hy tế thiêng
liêng, giữa lòng Giáo Hội như một nhà Tiệc Ly rộng lớn... Mỗi lần dâng Thánh lễ
là mỗi lần tôi được dịp giang tay đóng đanh chính mình vào Thập giá với Chúa
Giêsu, cùng cạn chén đắng với Ngài... Dù thiếu tất cả, dù mất tất cả, nhưng còn
Thánh Thể là còn tất cả vì con có Chúa Thiên Đàng dưới đất... (Trích Bài Thuyết
Trình tại Đại Hội Thánh Thể thế giới, Mexico 2004).
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn,
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này
là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói:
Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống” (Mt 26, 26-29; Lc, 22, 14-20).
Chúa đã lập bí tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: “Các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Thầy."
Tiệc Thánh Thể được chính Chúa
Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết
lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn
khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu
Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội,
là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu
của người tín hữu. Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và
giữa con người với nhau. Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa
trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng
ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là
Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ
tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức
Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập
Giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
14.
Thánh Thể và đời sống Kitô hữu
ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận viết:
”Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không
kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu
trên Thánh giá” (Đường Hy Vọng #349); “Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể,
vì Thánh Thể chứa đựng ‘Mầu nhiệm Đức tin’ và ban sức mạnh đức tin cho
con." (Đường Hy Vọng #373); ”Biết giá trị Thánh lễ, dù xa dù khó con cũng
cố gắng tham dự. Càng hy sinh con càng thấy mến Chúa hơn” (Đường Hy Vọng #346);
”Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các
bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ; con dâng lễ và rước lễ thiêng
liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con” (Đường Hy Vọng #364).
Louis, vị hoàng đế nước Pháp, một
vì hoàng đế tốt lành, một người rất siêng năng làm việc. Vua đam mê hoạt động.
Vậy mà vua vẫn tìm thời giờ để dự hai ba Thánh lễ mỗi ngày. Mấy người cận thần
của vua nói: “Hoàng thượng đã đóng thuế quá nhiều cho những Thánh lễ."
Ngài trả lời: “Nếu ta dành thời giờ săn đuổi những thú vui, tham dự những bữa
tiệc linh đình với bạn bè, coi hát mỗi ngày, có thể các người than phiền rằng
ta đã dành thời giờ quá nhiều cho những thú vui đó. Nhưng các bạn tốt của ta
ơi. Các ngươi quên rằng ta dự Thánh lễ mỗi ngày không phải chỉ để cầu nguyện
cho bản thân ta mà còn cầu cho cả đất nước của ta, vì ngoài những Thánh lễ ra
ta không còn cách nào khác tốt hơn là chuyện đó."
Thánh Louis đã ám chỉ, hàng ngàn
người Công giáo: “Họ có thể dự Thánh lễ mỗi ngày nhưng họ không làm. Nếu họ hy
sinh chút ít thời giờ đi lễ, họ có thể lãnh nhận được vô vàn ân sủng ngoài sự
tưởng tuợng của họ. Thật không hiểu được, không thể giải thích tại sao bao người
Công giáo không chịu dự lễ mỗi ngày để lãnh nhận bao ân huệ từ trời cao, vì dự
một Thánh lễ giá trị cả ngàn ngày cho họ. Họ không hiểu được bao ơn huệ tuyệt vời
và những ích lợi mà họ lãnh nhận được qua Thánh lễ."
Tham dự Thánh lễ tích cực, trọn
vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong
tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều
từ bí tích Tình Yêu.
15.
Thiên đàng ở đây
Nước Trời, Thiên Đàng, Ơn Cứu Rỗi
đang ở đây, không ở đâu xa, đang ở trong lòng ta: chính Thánh Thể Chúa Giêsu,
như Chúa Giêsu đã xác quyết: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong
Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống
nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta" (Ga 6, 56 –
57).
Hơn nữa, dù Thánh Lễ diến ra ở
Âu, Á, Mỹ hay Phi, ở thành thị hay thôn quê, ở Nhà Thờ Chính Tòa hay trong nơi
lao tù, trong trại cải tạo, thì tấm bánh ấy, chén rượu ấy, cũng là chỉ một Mình
Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu, và tất cả chúng ta, những người rước lấy, đều sống
chung một nguồn sống duy nhất là Chúa Giêsu Thánh Thể. Như vậy, mọi người đang
sống trong thiên đàng của Thiên Chúa ngay hôm nay. Vì thế, việc thể hiện tình
hiệp nhất, yêu thương, việc bác ái giúp nhau phần hồn phần xác để đi trọn cuộc
lữ hành này, là bổn phận thiết yếu của mỗi chi thể trong cùng một Thánh Thể
Chúa Kitô.
Thánh Phaolô dạy: "Anh em
thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông
hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần
vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng
ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm
bánh." (1Cr 10, 16 – 17)
Thế là, hình ảnh sống động của
Nước Trời, của Thiên Đàng, của Ơn Cứu Rỗi, còn cụ thể qua việc bác ái. Hai cụ
bà hành khất ở xó chợ. Một bà còn lết được, một bà bất toại một chỗ. Bà còn lết
được chia cho bà kia những gì mà mình kiếm được mỗi ngày. Hai bạn tù chia nhau
một mẫu bánh. Hai người cùng khổ chia nhau mấy con cá lăn tiêu... Đó là hình ảnh
Nước Thiên Đàng của Thiên Chúa đang sống động trong chúng ta.
Thiên Đàng không ở đâu xa, không
là tương lai, nhưng là hiện tại, là ngay lúc nầy, ở ngay trong lòng ta: Chúa
Giêsu Thánh Thể và việc bác ái yêu người mà Thánh Thể Chúa mong muốn, thôi
thúc, hướng dẫn.
16.
Thánh Thể và đức ái
Ở một Giáo xứ gần chỗ tôi, có cụ
già đạo đức đặc biệt. Tuổi cụ hơn gấp đôi tuổi cha sở. Gần đây, cụ thường nhắm
mắt lại khi cha sở đọc Lời Truyền Phép. Ai hỏi cụ tại sao nhắm mắt, cụ trả lời
là thói quen. Nhưng thực ra, không phải như thế. Mới đây, cụ đã vào xin gặp
riêng cha sở.
"Xin cha đóng cửa lại. Con
muốn thưa chuyện riêng với cha... Thưa cha, mỗi khi cha đọc Lời Truyền Phép,
con nhắm mắt lại để không nhìn thấy cha, để chiêm ngưỡng chỉ một Chúa Giêsu quá
sức khiêm nhường. Vì dù cha là con người có bất toàn thế nào đi nữa, có thể có
nhiều tai tiếng không tốt, hoặc kể là cha có tội lỗi đi nữa, thì Chúa Giêsu
cũng vâng lời cha mà ngự xuống trong hình Bánh Rượu, để nên Mình Thánh Máu
Thánh dưỡng nuôi linh hồn chúng con...
Cha biết đó, giáo dân xứ mình đang
không vâng lời cha, bỏ xứ nhà sang dự lễ xứ bạn, không tham dự thánh lễ với
cha, không xưng tội với cha, còn chống lại cha nữa. Trong khi đó, Chúa Giêsu
không bỏ cha, còn thương cha, thương con, thương yêu mọi người mà chịu vâng lời
cha ngự xuống trong hình bánh rượu nữa. Mong cha nghĩ lại điều này, để giáo dân
cũng vâng lời cha như trước."
Tôi nghĩ cụ già ấy đang làm một
việc bác ái do chính Thánh Thể Chúa thôi thúc, Khi đã hiệp nhất trong cùng một
tấm bánh, trong cùng một thân thể, thì thương tích của chi thể nầy cũng là nỗi
đau của chi thể kia. Không thể có sự dững dưng vô tình trước những thương tích
xác hồn của anh em cùng chung tấm bánh, chung ly rượu, đặc biệt hơn khi những
anh em đó lại là những hiện thân của Chúa Kitô.
17.
Bí tích tình yêu
Một câu chuyện lạ lùng và cảm động
về một loài vật vốn đã rất quen thuộc với chúng ta. Chuyện kể rằng, khi sửa
nhà, một anh thanh niên người Nhật đã nhìn thấy một con thằn lằn bị kẹt bên
trong khe hở giữa hai bức tường bằng gỗ. Một sự tình cờ nào đó đã khiến chân
chú thằn lằn tội nghiệp bị một cây đinh ghim vào tường. Nhưng lạ lùng hơn nữa
là căn nhà đã được xây dựng hơn mười năm, điều đó đồng nghĩa với việc chú thằn
lằn đã sống trong tình trạng này suốt thời gian qua.
Quá ngạc nhiên với những gì đang
diễn ra trước mắt, chàng trai bèn ngưng làm việc và tò mò theo dõi xem chú thằn
lằn đã sống ra sao trong tình trạng bị "cầm tù" như vậy.
Không lâu sau đó, anh nhìn thấy
một con thằn lằn khác xuất hiện, miệng ngậm đồ ăn đến bên con thằn lằn bị ghim
vào tường.
Một cảnh tượng thật cảm động.
Con thằn lằn bị ghim đinh vào tường đã được một con thằn lằn khác nuôi ăn trong
suốt mười năm qua. Không ngờ một loài vật không có linh hồn, không biết suy
nghĩ, mà lại có một tình cảm sâu nặng đến như thế.
Thử tưởng tượng cặp thằn lằn ấy
đã sống thế nào suốt chừng ấy năm.
Chắc hẳn con thằn lằn bị ghim
vào tường dù phải chịu đau đớn nhưng vẫn không ngừng hy vọng. Với con còn lại,
nó đã làm việc không biết mệt mỏi và không hề bỏ rơi bạn mình trong suốt mười
năm.
Con thằn lằn là như vậy, còn con
kiến thì sao?
Trong một lần cháy rừng, khi
cánh rừng bốc cháy, anh chị em có biết đàn kiến thoát thân như thế nào không?
Chúng nhanh chóng tập hợp lại, ôm nhau thành một cuộn đen tròn rồi lăn như một
trái banh, thoát khỏi biển lửa. Mỗi lần đọc đến đây chắc hẳn mỗi người chúng ta
đều xúc động. Dường như chúng ta nhìn thấy ngọn lửa đang rừng rực cháy, một bầy
kiến đen đang lăn tròn; dường như chúng ta nghe thấy tiếng lắc rắc trong đám lửa,
đấy chính là tiếng của những con kiến bị lửa thiêu, những con kiến ở vòng ngoài
cùng đã dùng thân mình để mở đường máu. Nếu không nhanh trí quấn lại thành cuộn
tròn, nếu không có sự hy sinh của những con kiến vòng ngoài thì dòng họ nhà kiến
đã bị thiêu cháy hết. Một loài kiến nhỏ bé sao chúng dám hy sinh cho nhau đến mức
ấy.
Câu chuyện con kiến và con thằn
lằn như muốn nhắc nhở chúng ta về lời tâm huyết của Chúa Giêsu: Các con hãy yêu
thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con.
18.
Thiết lập lễ Thánh Thể
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh
Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc
lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra
là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã
rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính
Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV
(1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa
Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã
sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn
loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay
đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều
theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng
nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi
mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để
sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải,
phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh
tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa,
Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi
dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha
ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng
ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
19.
Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện
về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện,
và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên
thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Marcellino
lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ
rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp ăn cắp bánh mang
lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem
bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên trần
gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
- Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức
khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm
chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở
bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức
Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn
có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người,
để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành
trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời."
20.
Mình Máu Thánh Đức Kitô.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn
còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn
Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích
Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
- Làm sao một miếng bánh nhỏ lại
có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
- Được chứ sao lại không? Tôi
xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có
thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao
Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
- Làm sao Đức Kitô to lớn như thế
lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
- Thầy hay nhìn trời, nhìn núi
và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn
thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được
tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại
không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi
thêm:
- Làm sao có thể cử hành nhiều
thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình
và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
- Đối với Thiên Chúa không có gì
là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời
này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều
mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và
nói:
- Trước đây trong tấm gương này,
thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy
gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện
diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng
ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi
ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự
Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình
diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến
Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng
đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng
đoàn của Thánh lễ.
21.
Bánh của tình yêu
Trong suốt những năm từ 1984 đến
1986, Ethiopie đã phải chịu đựng một nạn đói khủng khiếp. Đức Hồng y Hume ở
Westminster kể lại một sự kiện đã xảy ra, khi ngài thăm viếng Ethiopie giữa thời
kỳ nạn đói. Một trong những nơi mà ngài thăm viếng là một trại định cư nằm trên
các sườn đồi, tại đó, dân chúng đang chờ đợi thực phẩm không chắc sẽ được gửi tới.
Đức Hồng Y đã được chở đến đó bằng trực thăng. Ngay khi ngài vừa mới bước ra khỏi
trực thăng, thì có một bé trai, khoảng độ 10 tuổi, chạy đến và nắm bàn tay của
ngài. Cháu bé không mặc quần áo gì cả, chỉ đóng một cái khố nhỏ mà thôi. Suốt
thời gian mà Đức Hồng Y có mặt ở đó, cháu bé này không hề buông tay mình ra khỏi
bàn tay của ngài. Trong khi Đức Hồng y và bé trai này đi bên nhau, cháu bé có
hai cử chỉ: cháu dùng một bàn tay chỉ vào miệng của mình, còn bàn tay kia vẫn nắm
chặt bàn tay Đức Hồng Y, và ép sát bàn tay ngài lên má của mình. Sau này, Đức Hồng
Y đã nói: “Đây là một đứa trẻ mồ côi, đã bị mất hết cha mẹ vì nạn đói. Tuy
nhiên, bằng hai cử chỉ đơn giản đó, cháu bé đã chứng tỏ hai nhu cầu đói khát
căn bản của con người. Bằng cử chỉ đầu tiên, cháu bé đã cho tôi thấy cơn đói ăn
của mình, và bằng cử chỉ kia, cháu đã nói lên nhu cầu được yêu thương. Không
bao giờ tôi quên được sự kiện đó, và cho đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc không biết
cháu bé đó còn sống không. Tôi còn nhớ là khi bước lên trực thăng, cháu cứ đứng
nhìn tôi bằng một cái nhìn đầy trách móc."
Bài đọc hôm nay nói: “Con người
không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán
ra."
22.
Các phép lạ Thánh Thể
Vào năm 1263, một linh mục từ
Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức
tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài
ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ,
khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu
chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên
bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh
Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho
ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là “Tantum Ergo” và “O
Salutaris” mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang
những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc
thành phố Roma.
Mặc dù phép lạ thánh thể này đã
dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể
nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu
chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô khi một linh mục dòng thánh Basiliô
đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Mình Máu
Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong
tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại
thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300 năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng
bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được
đặt trong một mặt nhật quý giá. Và năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một
chén thánh bằng kính trưng bày ở nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.
Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền
đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây
vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng
những thiết bị khoa học tối tân. Công việc được trao cho ông Odoardo Linoli,
giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư mô học bệnh lý, hóa học và hiển
vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học đường Siena.
Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971 trước các vị trong giáo quyền, chính
quyền, các giới khoa học, văn học và báo chí:
- Thịt và máu này là thịt và máu
thật, của một người có máu AB đã sống.
- Thịt được lấy ra từ mô cơ tim
(myocardium), một phần thịt của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một
nhà phẫu thuật tài giỏi. Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh
Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu.
- Thịt và máu không có vết tích
của một chất nào được dùng để ướp xác cả.
- Trong máu có các chất clorua,
phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Các di tích này được lưu trữ bao
nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc tác vật lý,
không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một hiện tượng kỳ lạ,
khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng là nếu đem cân một
cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân riêng lẻ từng cục
hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.
Đây là hai phép lạ Thánh Thể
trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Những
phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu qua
hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta sẽ tùy thuộc vào
sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày chịu nạn: “Anh em
hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy."
23.
Thánh thể tưởng niệm sự hy sinh của Chúa Giêsu:
Một câu chuyện có thật gợi lên sự
hy sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh người Anh bị lính Nhật giam giữ
trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người lính Anh Quốc của trung đoàn Argyll
bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động khổ sai xây dựng đường rầy xe lửa.
Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả những dụng cụ làm việc phải được
kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở về trại,
thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng có một cái xẻng bị mất. Anh lính quả
quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và bán cho người Thái. Cả nhóm tù binh phải
tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới bước lui trước mặt từng người tù, anh phô
trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động xấu xa và vô ơn đối với hoàng đế. Đến lúc
phát cáu, hắn nổi giận, và la hét. Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước ra khỏi hàng
ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật lại càng nổi
cơn điên lên cao độ hơn nữa. Hắn hét lên: “Tất cả phải chết! Chết hết! Chết hết!"
Để chứng tỏ điều hắn nói là thật,
hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn
sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói: Tôi
đã làm điều đó." Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi
vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy
xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột
độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên
như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm
yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn tiếp
tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã lãnh
xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi những
dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có cái xẻng
nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ! Thánh Thể là sự tưởng niệm
cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh “tưởng niệm”
không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa
công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước
từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở
thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: “Tất cả
mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế
trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện."
24.
Chuyện tình cao cả
Trong quyển "Sống Một Nghệ
Thuật" có một chuyện tình được xếp vào hàng chuyện tình đẹp nhất Trung Quốc
2006: Một ông cụ 70 tuổi đã tự tay đẽo 6.000 bậc thang để giúp người vợ 80 tuổi
của mình trèo lên núi, hay nói đúng hơn đó là cái hang mà họ đã sống 50 năm
qua. 50 năm trước, chàng trai Liu Guojiang đem lòng yêu Xiu Chaoqing, một goá
phụ đã có con. Quá mệt mỏi bởi những lời đàm tiếu, chống đối, ngăn trở của gia
đình, bạn bè, họ đã bỏ nhà lên hang động này sống ẩn dật để được trọn vẹn yêu nhau.
"Anh có chắc là không hối tiếc không?" Đó là câu hỏi Xiu thường hỏi
chồng. "Chừng nào chúng mình còn làm việc cần cù, cuộc sống chắc chắn sẽ tốt
lên." Đó là câu trả lời của Liu.
Vâng, sức mạnh của tình yêu là
thế đó. Không có điều gì có thể quật ngã được sức mạnh ấy. Tình yêu nơi nhân loại
chính là hình bóng của tình yêu nơi Thiên Chúa. Và nơi Thiên Chúa, tình yêu
cũng được cụ thể hoá bằng hành động. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian... để nhờ Người Con nầy mà thế gian được cứu"
(Ga 3,16-17). Tột đỉnh của tình yêu ấy là cái chết đau thương của Đức Giêsu
trên thập giá, "Ngài đã tự hiến mình để trở nên của ăn của uống cho toàn
dân."
25.
Thịt Ta thật là của ăn
Thời cách mạng Pháp 1789, đạo
Công giáo bị làm khó dễ và bị cấm không được truyền đạo. Một cha xứ nhà quê lén
đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, theo sau có cậu giúp lễ tên là Benjamin. Bọn
lính cách mạng phát hiện đuổi theo rất gấp. Cha xứ dúi vào tay cậu bé cái hộp đựng
Mình Thánh Chúa và bỏ chạy. Lính bắt cha lại và giết cha. Cậu bé giúp lễ vừa chạy
vừa mở hộp Mình Thánh Chúa ra và bỏ vào miệng nuốt đi. Lính bắt cậu và tra hỏi.
Cậu nói: "Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi." Lính tức giận giết
luôn cậu bé, rồi chôn xác cha xứ và cậu bé chung nhau dưới gốc cây sồi to...Sau
đó cuộc cách mạng thất bại và qua đi. Một hôm một cơn lốc mạnh đã làm trốc gốc
cây sồi, để lộ hai xác: cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta phát hiện Mình Thánh
Chúa vẫn còn trong người cậu bé và xác của cậu vẫn còn tươi dù đã nằm dưới đất
khá lâu...
26.
Chúa Giêsu bồng ẵm tôi
Một trong những truyện hay nhất
của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các tông đồ tranh cãi
xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: “Ai muốn ở bậc nhất thì phải
làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người." Rồi Chúa dắt một em bé lại và
để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như
em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì không phải đón tiếp
Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta” (Mc 9,36).
Theo truyền tụng thì em bé này
sau trở nên thánh Ignatuiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng sống vì Chúa
Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới nơi mà Chúa
Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: “Các bạn coi đó. Đây là chỗ Chúa Giêsu đã bồng
ẵm tôi."
Nếu bạn muốn, bạn có thể coi đó
là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng
Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật tư tưởng của
tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa Giêsu, nhưng
chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.
LỄ THÁNH
THỂ NĂM B
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
LỄ THÁNH
THỂ NĂM C
Lời Chúa: Lc 9, 11b-17
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân
chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế
chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để
họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì
chúng ta đang ở nơi hoang địa.”
Nhưng Người nói với các ông:
"Các con hãy cho họ ăn đi.” Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm
chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông
này.” Số đàn ông độ năm ngàn.
Người nói với các môn đệ rằng:
"Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người.” Các ông đã làm như thế,
và bảo tất cả ngồi xuống.
Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc
bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho
các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta
thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh lễ trong nhà thờ và thánh lễ ngoài cuộc đời
Đức Hồng Y Hellder Camara về ban
phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo
đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ.
Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn
vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra
vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh
ghê gớm.
Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy,
Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị
em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị
chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ
em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không
biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là
Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức Hồng Y không có
ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh
thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích
không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.
2. Ta thương dân bị đói
Tháng 11/ 1979. Đài BBC tiết lộ
Mỹ tổn phí sáu mươi tỷ đô và hai vạn quân trong chiến tranh Việt Nam từ
1965-1969. Một phá tán kinh khủng sau thế chiến thứ II. Báo chí tính tiền đổ
vào bom đạn ở miền Nam, chưa kể miền Bắc, có thể mua vàng chất đầy một đoàn xe
tải đậu sát nhau dài từ Vũng Tàu tới Sài Gòn. Còn trong thế chiến thứ II, người
ta tính số tiền phung phí đánh nhau, nếu lấy chia cho mỗi người trên thế giới,
sẽ được một nhà lầu và một xe hơi. Ngày nay, theo phát giác của một sử gia Thụy
Điển, mỗi phút trên thế giới chi phí quốc phòng là một triệu đô.
Ông Mác Namara, Chủ tịch Ngân
hàng Thế giới mười một năm, đã cảnh giác: Mỗi năm thế giới chi phí vô ích vào
vũ khí ba mươi tỷ đô với năm trăm nghìn bác học và kỹ sư ! Trong khi hơn bốn tỷ
người phải thiếu thốn khổ cực và chết đói.
Tiếng than của chính Đức Kitô đến
nay vẫn còn kêu lên: “Ta thương đám dân này vì đã bị đói lả.” Đói lả phần xác,
ta có thể đổ lỗi cho xã hội bất công, còn đói lả phần hồn, không đổ lỗi cho ai,
mà phải đấm ngực mình ăn năn để lo lãnh nhận của ăn đời đời.
3. Phép lạ ở nhà thờ thánh Christiana.
Vào năm 1263, có một linh mục
người Đức đang cử hành thánh lễ tại nhà thờ kính thánh Christiana, thì lúc bẻ
bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã
biến thành Thân xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua
các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn
thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại.
Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua 25 lần vải
khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết Thánh lễ được.
Sau đó, vị linh mục đến xin yết
kiến Đức Giáo hoàng Urbanô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền
sai một phái đoàn, đứng đầu là một vị Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi
xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa về Rôma và đặt tại
một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời giáo dân đến chầu Mình Thánh liên
tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô đã ra sắc
dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong
toàn thể Hội thánh.
4. Ta đã dựng nên ngươi.
Tại góc đường của một thành phố
lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng xa ăn xin với đứa con trai nhỏ
gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi qua đường phố, có một người đàn
ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng nào, cũng chẳng giúp đỡ gì.
Nhưng khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn với đủ mọi thứ cao lương mỹ vị, ông liên tưởng
đến thằng bé còm kĩnh và người mẹ khốn khổ của nó.
Càng nghĩ về họ ông càng tức giận
Thiên Chúa. Rồi ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm
sao Ngài lại có thể để cho sự khốn khổ như thế này xẩy ra cho được? Tại sao
Ngài lại không làm gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó”? Và từ một nơi
nào đó, rất sâu tự bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta
đã làm. Ta đã dựng nên ngươi”
5. Hy sinh để được rước Chúa
Linh mục Walter Ciszek bị quân
Nga bắt trong thế chiến thứ hai. Ngài bị kết tội là "Gián điệp
Vatican" và phải qua 23 năm trong tù và trong các trại lao động Sibêrica.
Cuối cùng, khi ra khỏi tù, Ngài viết lại một quyển sách về những kinh nghiệm của
mình và đặt tựa cho nó là: "He Liadeth me" (Ngài dẫn dắt tôi)
Một số câu chuyện cảm động trong
cuốn sách nói về những hy sinh mà các tù nhân phải chịu để được nhận lãnh Mình
Thánh Chúa Kitô ở trong tù. Đặc biệt có một câu chuyện đáng ghi nhớ. Trước khi
chia sẻ câu chuyện này với anh chị em, tôi xin trình bày bối cảnh của câu chuyện:
Vào những ngày xảy ra thế chiến
thứ hai, tức là trước Công Đồng Vatican II, giáo luật buộc kiêng ăn uống suốt
24 giờ đồng hồ trước khi rước lễ. Xin lưu ý điều này khi đọc đoạn văn sau trích
từ quyển sách của Linh mục Ciszek:
"Tôi thấy các tù nhân phải
bỏ bớt giấc ngủ cần thiết và thức dậy trước chuông rung để tham dự thánh lễ bí
mật. Chúng tôi sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nếu bị khám phá đang hành lễ và luôn
luôn lúc nào cũng có những tên chỉ điểm… Tất cả điều trên khiến cho những thánh
lễ có đông tù nhân trở nên rất khó khăn, vì thế khi có thể chúng tôi thường
truyền phép thêm bánh lễ để phân phối cho các tù nhân khác. Đôi khi chúng tôi
thường chỉ trông thấy họ khi chúng tôi trở về trại vào ban tối trước bữa ăn.
Tuy vậy, những người này thường phải thực sự nhịn đói cả ngày và phải lao động
cật lực mà không dám ăn một miếng kể từ bữa ăn tối chiều hôm trứơc chỉ với mục
đích là để có thể rước Thánh Thể, điều này cho thấy Bí Tích Thánh Thể có ý
nghĩa với họ biết là dường nào !" (Trích từ He Leadeth me của Walter
Ciszek và Daniel Fatherly, bản 1973 của Walter J. Ciszek S. J).
6. Bí tích tình yêu
Trái bom nguyên tử đầu tiên đã nổ
tại Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945. Năm giờ rưỡi sáng hôm sau, một thánh lễ được
cử hành ở ngoại ô thành phố giữa những nạn nhân nằm la liệt.
Linh mục giám đốc tập viện Dòng
Tên mở cửa nguyện đường đón nhận họ và tìm cách săn sóc họ. Về sau, khi đã trở
nên Bề Trên Cả Dòng Tên, cha giám đốc tập viện Pedro Arrupe kể lại cảnh tượng
sáng hôm đó như sau: "Nguyện đường tập viện chúng tôi phân nửa đã bị tàn
phá, khi ấy tràn ngập những người bị thương do bom nguyên tử. Họ nằm la liệt
bên nhau trên nền nhà, co quắp lại, bị đau khủng khiếp. Tôi khởi sự dâng thánh
lễ, ráng tập trung trong một thế giới chẳng hiểu biết gì về những điều đang thực
hiện trên bàn thờ. Họ là người ngoại đạo chưa hề dự một thánh lễ. Tôi không thể
nào quên được cử chỉ tôi làm khi hướng về họ và nói: Chúa ở cùng anh chị em, giữa
cảnh họ đang chịu đau đớn. Tôi hầu như bị tê liệt với hai tay giang ra mà tôi
nghĩ tới thảm kịch con người dùng tiến bộ khoa học và kỹ thuật để tiêu diệt
loài người. Đáp lại là những cặp mắt của những nạn nhân đang chờ nguồn an ủi
nào đó từ bàn thờ giữa cảnh họ đang hấp hối và tuyệt vọng (...)
Sáu tháng sau, tất cả các nạn
nhân được chữa trị đều trở về nhà, chỉ trừ hai người đã chết. Nhiều người trong
số họ đã chịu Phép Rửa và ai thì cũng được biết thế nào là đức Ái Kitô giáo
(...)
Bí Tích Thánh Thể - Dấu chỉ hữu
hình của Tình Yêu siêu việt
7. Bí tích Thánh Thể và nghiên cứu khoa học
Vào thế kỷ thứ 8 tại Lancianô nước
Ý, một linh mục dòng thánh Basiliô đang khi cử hành thánh lễ, sau khi truyền
phép xong, bỗng đâm ra nghi ngờ sự hiện diện của Chúa dưới hình bánh ruợu thì lập
tức Phép lạ đã xẩy ra ngay trong tay vị linh mục đó: Bánh trở nên thịt sống và
rượu trở nên máu tươi.
Được giáo quyền cho phép, ngày
18/11/1970 các cha dòng Phanxicô, những người có trách nhiệm bảo lưu đã trao thánh
tích cho một nhóm chuyên viên khoa học để họ làm công việc nghiên cứu tế nhị và
khó khăn này.
Nhóm này do Giáo sư Odoardo
Linoli với sự cộng tác của Giáo sư Ruggero Bartelli thuộc đại học nổi tiếng
Siena điều khiển.
Sau đây là kết luận của công
trình nghiên cứu được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải:
1.
Thịt này là thịt thật. Máu này đúng là máu thật.
2.
Thịt và máu là thịt và máu của con người
3.
Thịt và máu đều thuộc cùng nhóm A-B
4.
Đồ hình của Máu này giống với đồ hình của máu người được trích lấy từ một cơ thể
con người trong một ngày.
5.
Thịt được làm thành từ mô cơ tim.
6.
Thịt máu hoàn toàn giống với thịt máu của một người sống thực sự.
7.
Không hề tìm thấy dấu vết việc tẩm ướp mô tế bào bởi bất cứ một hóa chất nào được
dùng trong kỹ thuật bảo trì bằng tẩm ướp.
8.
Miếng thịt này được lấy ra từ phần thịt của trái tim một cách khéo léo tuyệt mỹ
như do một nhà phẫu thuật tài ba thực hiện.
9.
Hàm lượng các protéin chứa trong máu được phân phối đều đặn theo tỷ lệ y hệt
như trong đồ hình protéin huyết thanh của máu tươi bình thường.
10.
Trong máu có các chất chlorua, photspho, manhêdi, potassium, sodium và calcium.
11.
Việc các di vật thánh này được lưu giữ một cách tự nhiên từ bao thế kỷ, bất chấp
ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí. sinh vật... là một hiện tượng
không sao giải thích được theo phương diện khoa học.
Như vậy chúng ta có thể nói sau
khi được mời gọi để thẩm định, Khoa học đã nói lên tiếng nói khách quan của
mình về phép lạ Chúa đã làm tại Lancianô.
8. Nhận ra Chúa khi Chúa bẻ bánh
Trong cuộc khủng hoàng con tin xẩy
ra ở Pêru cách đây mấy năm. Một cuộc khủng hoảng dai dẳng, nghẹt thở kéo dài
nhiều tuần lễ, người ta đã hết lời ca tụng một người. Người đó chính là cha
Juan Julio Wicht. Ngài được thả nhưng ngài đã tình nguyện ở lại. Việc Ngài ở lại
đã làm nức lòng thủ lãnh của quân khủng bố. Ngày 18/4/1965 nhân ngày sinh nhật
của Ngài, Nestor Cerpa Carlotini thũ lãnh quân khủng bố có gửi đến Ngài một điện
văn như sau: "Mặc dù giữa chúng ta có những khác biệt nhưng chúng tôi muốn
gửi đến cha những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của cha cũng như
lòng kính trọng của chúng tôi với quyết định ở lại của cha.”
Sau này khi được hỏi về những
ngày bị giam giữ, Cha Juan Julio Wicht đã nói: "Các du kích đã không làm
gì xúc phạm đến chúng tôi trong lời nói cũng như trong việc làm"
Chính sự hiện diện của Cha đã
làm cho mọi người đối xử tốt với nhau hơn.
Chúa Giêsu cũng thế: Cha
Teilhard de Chardin nói tiếp: "Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ
Emmau: Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận
ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài
đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta
thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi
tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cũng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu
Thánh Chúa Kitô.”
9. Bài học từ dòng sông
Trong một giờ học, thầy giáo mở
một tấm bản đồ ra và hỏi các học viên: "Các bạn hãy nhìn xem, những dòng
sông trên bản đồ này có đặc điểm gì?"
Các học viên trả lời: "Tất
cả đều không chảy thẳng theo một đường mà chảy quanh co, gấp khúc."
"Tại sao lại như vậy? Hay
nói cách khác, tại sao những dòng sông đó không chảy theo đường thẳng mà lại chảy
đường vòng như thế?" – thầy giáo tiếp tục hỏi.
Sau đó thầy mới nhẹ nhàng đúc kết:
Dòng sông luôn chảy quannh co để ôm ấp đất, thẩm thấu vào mọi ngõ ngách nó đi
qua, để không nơi nào dòng sông đi qua mà không để lại màu xanh sự sống.
Dẫu rằng, dòng sông cũng có lúc
cạn, nhưng chẳng vì thế mà dòng sông lo âu, rồi toan tính giữ nước cho mình. Từ
quá khứ, xuôi nguồn vào tương lai, nước làm thành dòng sông chứ không phải dòng
sông làm nên nước. Từ ý nghĩ đó, dòng sông vào đời tự do theo ơn gọi của nó.
Cuộc đời con người cũng thế, nếu
ngày nào chúng ta băn khoăn bắt dòng sông cuộc đời ngưng trôi chảy dấn thân cho
đời, ngày đó cuộc đời thành ao tù.Con người sống là để yêu thương và yêu thương
không ngừng. Ngày nào con người không còn biết yêu thương tức là cuộc đời con
người đó đã chấm dứt với anh em, với xã hội vì họ thực sự đã chết trong lòng
người thân của mình.
Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa
là dịp để chúng ta khơi nguồn sức sống từ dòng chảy tình yêu của Chúa. Chúa yêu
ta mà chẳng cần lý do, vì Ngài là tình yêu. Chúa yêu ta đến nỗi hiến trao chính
Thánh Thể Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Khi ta rước Mình Thánh
Chúa là ta được nuôi dưỡng bởi chính sức sống thần linh của Chúa, để từ nay
Chúa sống trong ta và ta được nên một với Ngài trong huyền nhiệm tình yêu.
10. Tình yêu mạnh hơn sự chết
Một bài báo đã đăng tin ngay
trên trang nhất về vụ cháy rừng vừa mới xảy ra. Một câu chuyện đã gây nhiều xúc
động cho người đọc: sau khi ngọn lửa đã được dập tắt, những người kiểm lâm rất
vất vả và khi đã đi vào rừng để ước lượng mức độ thiệt hại của vụ cháy rừng.
Một người kiểm lâm trẻ tuổi nhất
bất chợt phát hiện một con chim đã chết vẫn đứng im lìm như bức tượng gỗ trên một
cành cây cao đang cháy dở trước mặt anh. Một chút sợ hãi chen lẫn chút tò mò,
anh lấy một cành cây nhỏ, chọc vào xác con chim đã chết. Lúc anh đang chọc nhẹ
vào con chim đã chết cháy như vậy, bất thình lình, anh hốt hoảng khi thấy một chú chim con nhỏ bé từ dưới cánh con chim
chết cháy bay vụt ra… những người đi trong đoàn kiểm lâm ai nấy đều sửng sốt.
Người kiểm lâm cao tuổi nhất
trong nhóm, có mái tóc bạc phơ nói rằng, suốt mấy chục năm làm mghề gác rừng,
ông chưa từng thấy có chuyện lạ như vậy. Hóa ra, trong lúc ngọn lửa ma quái
thiêu đốt cánh rừng, vì yêu con, chim mẹ đã dang rộng đôi cánh để che chở cho
con mình. Lúc đám cháy chưa lan tới, chim mẹ đã có thể bay đi thật nhanh để tìm
một nơi an toàn cho riêng mình, nhưng chim mẹ đã không bay đi, vì biết con mình
còn rất yếu ớt, bé bỏng, không thể bay kịp theo mình. Chim mẹ không muốn bỏ mặc
con mình ở lại với mối nguy hiểm đang chờ đợi nó.
Khi ngọn lửa hung hãn đã bùng
lên dữ dội và khi sức nóng của ngọn lửa sắp thiêu cháy mình, chim mẹ vẫn không
hề nao núng, dao động. Chim mẹ sẵn sàng đón nhận cái chết để lấy đôi cánh chở
che cho con mình được sống. Có lẽ chim mẹ biết chắc một điều rằng, với tình yêu
và đôi cánh chở che của mình, con mình sẽ sống. Ôi! Tình yêu có một sức mạnh lớn
lao và kỳ diệu, nên một vĩ nhân nào đó đã nói: “tình yêu mạnh hơn sự chết.”
11. Từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em
Trên thế giới ngày nay đang xảy
ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: đó là cảnh một
số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù… Và bên cạnh đó, một thảm cảnh trái
ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì để ăn… Ngay hôm
nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu- đang thiếu ăn đến độ
không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí tiền của một cách phi
nhân… Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà chết, và người ta đã chết
vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã chết vì không có gì ăn!.
Trong hai thực trạng bi thảm đó,
có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà chết. Tại sao lai
chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất, người ta muốn biết sống
để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý, nên người ta ăn để mà chết,
ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu thứ hai, người ta muốn có cái
gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ
nhất: sống để làm gì?
Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa
Giêsu trả lời: người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa ban
cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu
chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.
12. Hãy Ra Khơi
Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một
kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời
gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa
quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối
những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ
lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con
tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi
lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại
bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi.” Tôi không
bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá
cho những người xung quanh.
Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của
lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải
thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn.” Một lần nữa lại xuất
hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày
xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào
thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của
Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người.
Những lời nhắn nhủ dạy bảo của
Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh
quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện
với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có
phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp
vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy
vấn đề ăn uống.
Chúa Giêsu đã làm ngược lại,
Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn.” Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị
các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới.
Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu
ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài.
13. Hãy noi gương Thánh Thể
Nói tới Thánh Thể, chúng ta thường
nghĩ tới việc phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những ơn cần thiết cho
mình. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học tuyệt vời và rất
quan trọng của Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha.
Không có gì tỏ ra quên mình và vị
tha cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay sẵn sàng để cho người khác “ăn”
mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì người ăn nó, chứ không hiện hữu một chút xíu
nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự, để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi
mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất của đồ ăn chính là chết đi để nhờ
đó người khác được sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người khác tồn tại.
Thông thường, chúng ta có khuynh
hướng bắt người khác phải vì mình, biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mình. Biến mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông
thường ấy: sẵn sàng hiện hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm phương tiện
hay công cụ vì hạnh phúc đời này hay đời sau của những người mình yêu thương.
Danh ngôn Pháp có câu: “Aimer, c’est permettre d’abuser” (yêu là cho phép người
mình yêu lợi dụng mình).
Cả cuộc đời Đức Giêsu là một thứ
đồ ăn: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và
vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được
tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng
lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên
thánh thiện, v.v… Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì
mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn”một cách cụ thể và
tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể.
Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta
đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em
hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy.” Tưởng nhớ ở đây không gì tốt
hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho
những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.
14. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy
Đức Hồng Y F.X. Nguyễn văn Thuận
có viết trong cuốn Năm chiếc bánh và hai con cá: "Thánh Thể là kinh nguyện
đẹp nhất, là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu"; tham dự Thánh lễ là tham dự
vào Bữa ăn của Chúa. Chúng ta thấy tấm hình Đức Hồng Y trong trại giam dâng lễ:
Ngài quì gối trên nền nhà tù, dang hai tay, trong lòng bàn tay có ba giọt rượu
và một giọt nước, với bánh lễ được xé nhỏ ở ngoài gởi vào bỏ trong cái lọ chống
ẩm, ngài dâng thánh lễ: đọc thuộc lòng Kinh nguyện Thánh Thể ... Nhờ vậy mà
Thánh Thể Chúa thêm sức cho ngài vượt qua được những khó khăn thời gian ngục
tù.
Chúng ta ghi nhớ lời Chúa Giêsu
dạy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.” Chính do lời này của Chúa
Giêsu mà các linh mục cử hành Bí tích
Thánh Thể: Giây phút nào trên thế giới cũng có linh mục dâng Thánh lễ để nói
lên Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho thế
giới mới.
15. Phép lạ Thánh Thể: Thánh Antôn và con la:
Có một ông lạc giáo Albigeois
thách thức thánh Antôn như sau: "nhà tôi có con la cái. Tôi sẽ nhốt vào
chuồng cho nó nhịn đói ba ngày. Ngày thứ ba tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi
người, đem cho nó một thùng kiều mạch. Còn ông, ông hãy đem cái mà ông gọi là
Mình thánh Chúa Kitô. Nếu con vật bị đói mà không thèm ăn nhưng lại chạy đến
quì lạy Mình Thánh Chúa thì tôi sẽ tin.”
Thánh Antôn chấp nhận cuộc thách
thức này. Đúng ngày hẹn dân thành Toulouse có mặt rất đông tại quảng trường.
Ông lạc giáo dắt con lừa tới mang theo thức ăn nó ưa thích còn thánh Antôn kiệu
Mình Thánh Chúa từ trong nhà thờ ra, Ngài dơ cao Mình Thánh và truyền cho con lừa:
"Nhân danh Thiên Chúa, ta truyền cho ngươi hãy mau lẹ quì gối thờ lạy Chúa.”
Cùng lúc ấy người ta đem thùng kiều mạch thơm ngon đến trước mặt con lừa. Lạ
lùng thay con lừa không đoái hoài tới thức ăn mà nó theo lệnh thánh Antôn: gập
hai cẳng trước rồi quì xuống cung kính thờ lạy Mình Thánh Chúa.
Trước cảnh tượng đó, các tín hữu
công giáo vui mừng khôn xiết. Còn nhóm lạc giáo Albigeois thì tỏ ra kính sợ.
Ông lạc giáo đưa ra cuộc thách thức đã giữ lời hứa xin trở lại với đức tin Công
giáo.
Chúng ta tin Chúa Giêsu ngự thật trong bí tích Thánh Thể, mỗi lần
tham dự thánh lễ, chúng ta liệu sao để có thể
Rước lễ được, đồng thời chúng ta cũng dự giờ chầu Thánh thể và khi giáo
xứ hay giáo hạt tổ chức Rước kiệu Mình Thánh Chúa, chúng ta hãy sốt sắng tham
gia để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể và để lãnh nhận được rất nhiều hồng
ân Chúa ban cho ta qua Bí tích cực trọng này. Amen.
16. Bữa ăn chung
Tối thứ bảy, 2-6-2012, 350 ngàn
người thuộc các gia đình năm châu đã tham dự lễ hội chứng từ do Đức Thánh Cha
Benedicto chủ tọa bắt đầu từ lúc 8 giờ rưỡi tại Công viên Bresso ở mạn bắc
Milano, Italia.
Trong lễ hội này, dưới bầu trời
dịu mát, đã có phần trình bày chứng từ, xen lẫn 5 câu hỏi được nêu lên với các
câu trả lời ứng khẩu của Đức Thánh Cha và các bài ca điệu vũ được trình diễn.
Mở đầu, bé gái Cát Tiên 7 tuổi,
trong chiếc áo dài màu đỏ, đầu đội khăn đóng, cầm bó hoa đến cắm trước ảnh
Thánh Gia, và em tiến đến trước Đức Thánh Cha để chào ngài và nói (bằng tiếng
Anh):
”Con chào Đức Giáo Hoàng, con là
Cát Tiên, con đến từ Việt Nam. Năm nay con 7 tuổi và con muốn giới thiệu với Đức
Giáo Hoàng gia đình con: đó là ba con tên là Đang, và mẹ con tên là Thảo, và đó
là em con tên là Bình. Con rất muốn biết về gia đình Đức Giáo Hoàng và hồi đức
thánh cha còn bé như con..
”Cám ơn con rất yêu quí, và cha
mẹ con.. Cha chân thành cám ơn. Con hỏi cha kỷ niệm về gia đình cha như thế
nào: có nhiều lắm. Cha chỉ muốn nói ít điều. Đối với gia đình cha, điều rất
quan trọng là Chúa nhật, và Chúa nhật thì bắt đầu ngay từ chiều thứ bẩy. Ba của
cha vẫn đọc cho con cái các bài đọc của ngày lễ Chúa nhật, rút từ cuốn sách rất
phổ biến bấy giờ ở Đức, trong đó cũng có những giải thích về các bài đọc. Và thế
là Chúa nhật bắt đầu: gia đình cha đã bước vào phụng vụ trong một bầu không khí
vui mừng. Ngày hôm sau, cả gia đình cha đi lễ.
“Và trong gia đình thì dĩ nhiên
điều quan trọng là dùng bữa chung với nhau. Trong gia đình cha vẫn thường ca
hát nhiều: anh của cha là một nhạc sĩ giỏi, sáng tác nhạc ngay từ nhỏ cho cả
gia đình, và cả nhà cha đều hát.
“Và dĩ nhiên là gia đình cha
cũng đi chung với nhau, đi bộ; nhà cha gần một khu rừng và vì thế đi bộ trong rừng
là điều rất tốt: có những cuộc phiêu lưu và các trò chơi nữa, cùng những thứ
khác.
“Thú thực là khi cha tìm cách tưởng
tượng xem thiên đàng như thế nào, cha luôn hình dung ra thời cha còn trẻ, thời
niên thiếu của cha. Trong khung cảnh tín thác, vui mừng và yêu thương như thế,
gia đình cha thật là hạnh phúc và cha nghĩ rằng thiên đàng cũng giống như trong
thời niên thiếu của cha. Theo nghĩa đó, cha hy vọng được ‘đi về nhà’, đi sang
phần bên kia của thế giới.”
17. Tôi muốn con tôi sống
"Tôi muốn con tôi sống"
đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực
ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp
của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp
của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng
khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.
Sau khi động đất, cũng giống như
hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm
ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống
nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt
và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: "Mẹ
ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước.”
Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng
kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng
tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt
máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng
thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu
ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của
mẹ một lúc rồi nói: "Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm.” Bà liền cắt
một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa...
Sau khi được cứu sống, người đàn
bà thuật lại rằng: "Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn
con tôi được sống.” (Vietnamese Missionaries in Asia, Tôi Muốn Con Tôi Sống)
18. Tình yêu phi thường
Tháng 3/2011 sau cơn động đất và
sóng thần kinh hoàng tại Fukushima, Miền Trung Nhật Bản, đội cứu hộ đi đào bới
tìm kiếm dưới những đống đổ nát may đâu còn có thể tìm thấy để cứu sống ai. Sau
khi tìm rất kỹ lưỡng, toàn đội đã quyết định ra đi, thế nhưng, như có một linh
tính hay ánh sáng gì đó lóe lên báo cho biết, người đội trưởng quyết định toàn
đội phải quay trở lại để tiếp tục đào bới; sau một hồi lâu họ tìm thấy dưới đống
đổ nát một người mẹ đã chết trong tư thế ngồi cúi đầu ôm cái gì đó.
Lạ lùng thay khi đưa xác người mẹ
ra được khỏi đống đổ nát, họ bàng hoàng thấy có đứa con thơ mấy tháng tuổi của
chị vẫn đang còn sống nằm chặt trong lòng và vòng tay của chị. Thật kỳ lạ làm
sao, ánh sáng le lói mà người đội trưởng cảm nhận được đó chính là ánh sáng từ
chính chiếc điện thoại của chị với tin nhắn như sau: “Nếu con được sống sót,
thì con hãy nhớ rằng, Mẹ rất thương con.”
Cũng có một câu chuyện khác rất
cảm động, nói lên tình mẫu tử sau cơn động đất mà tôi còn nhớ đó là: Có một người
mẹ dưới đống đổ nát, chị đã dùng vật nhọn để đâm những đầu ngón tay của mình lấy
máu cho đứa con thơ khỏi cơn khát, nhờ đó, hai ngày sau khi đội cứu hộ tới, đứa
con của chị vẫn còn sống nhưng người mẹ đã hy sinh. Thưa ACE, con người chúng
ta khi yêu thương hay muốn cứu sống ai, chúng ta cũng có thể làm những việc phi
thường như vậy.
Hôm nay chúng ta mừng Lễ Mình
Máu Thánh Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta đến
với những câu chuyện trao ban tình yêu thương và cung cách cứu sống tuyệt vời của
Thiên Chúa dành cho con người yếu đuối tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa vì yêu
thương đã hiến ban chính Người Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta, để
Chúa trở nên nguồn thần lương dưỡng nuôi con người.
19. Lịch sử Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa:
Vào năm 1263, có một linh mục
người Đức đang cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Chris-ti-a-na, tới lúc bẻ
bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy tấm bánh mới truyền phép
đã biến thành Thân Mình Chúa Giê-su chịu tử nạn. Trên thân xác Chúa, máu đang rịn
ra qua các vết thương bị đóng đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết lưỡi đòng đâm
thâu ở cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ
trên bàn thờ.
Vị linh mục vội gấp các tấm khăn
kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua
25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi, vị linh mục không thể tiếp tục
dâng hết Thánh lễ được. Sau đó, vị linh mục này đã đến xin vào yết kiến Đức
Giáo hoàng Ur-ba-nô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy.
Đức Giáo hoàng liền sai một phái
đoàn, đứng đầu là một vị Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định sự việc
đó thực là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa về Rôma và đặt tại
một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời giáo dân đến chầu Mình Thánh Chúa
liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Ur-ba-nô đã
ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Giê-su và truyền mừng lễ
này trong toàn thể Hội thánh.
20. Mình Thánh ở trong lòng tôi
Thời kỳ cách mạng Pháp, có
một cha xứ miền Bờ-ta-nhờ (Bretagne) đưa Mình Thánh Chúa đến cho một
gia đình. Theo giúp Cha là một cậu bé tên là Ben-gia-manh (Benjamin).
Bấy giờ cha xứ bị bọn lính phát hiện và đuổi theo rất gấp. Ngài
vội dúi vào tay cậu bé chiếc hộp nhỏ có đựng Mình Thánh Chúa
trước khi chạy trốn. Sau đó cha đã bị bắt và bị giết chết.
Bấy giờ cậu bé Ben-gia-manh
vừa chạy vừa mở hộp lấy Mình Thánh Chúa bỏ vào miệng mà nuốt đi.
Sau đó cậu bé cũng bị bắt và bị tra hỏi về nơi đã cất giấu Mình
Thánh Chúa. Cậu hiên ngang chỉ tay vào người mình và nói rằng: “Mình
Thánh Chúa đang ở trong người tôi đây này! Các ông hãy mổ ra mà lấy.”
Bọn lính điên tiết đã đâm chết cậu bé rồi chôn vùi xác chết của hai
cha con dưới một gốc cây sồi ở đầu làng. Một thời gian sau thì cuộc
cách mạng đã lụi tàn và cuối cùng bị thất bại.
Một hôm một cơn bão lốc
xóay rất mạnh đã đốn ngã đổ cây sồi cổ thụ kia, để lộ ra hai xác
chết của cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta đã phát hiện ra Mình
Thánh Chúa vẫn đang còn ngự trong người cậu khi thấy thân xác cậu vẫn
luôn ngời sáng ánh hào quang.
21. Phép lạ Mình Thánh Chúa do Thánh Antôn thực hiện
Một phép lạ khác xảy ra với
thánh An-tôn Pa-đô-va. Có một người Do thái, tên là Bôn-vi-lô, không tin và thường
nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh An-tôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế.
Một hôm, ngài nói với ông ta giống
như thách thức: “Nếu con lừa ông cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ngự trong
hình bánh thì ông có tin không?” Ông ta nghĩ đó chỉ là một câu nói chơi và đã
nhận lời thách thức. Hai ngày liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để
có đông người chứng kiến.
Giữa một bên là lúa mạch và bên
kia thánh An-tôn kiệu Mình Thánh Chúa đến gần. Con lừa quên đói, không ngó
ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh An-tôn quì gối xuống cúi đầu thờ lạy
Chúa cho đến khi thánh An-tôn kiệu Mình Thánh đi qua. Mọi người đều quì xuống
thờ lạy Chúa Thánh Thể và hoan hô thánh An-tôn.
22. Đức Giêsu hiện thân nơi người nghèo đang chờ được phục vụ
Đức Hồng Y Ca-ma-ra về ban phép
Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ
gối đấm ngực than khóc như vừa gặp đại hoạ. Thì ra đêm trước, trong khi mọi người
mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, thì kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm các bình
đựng Mình Thánh. Chúng đổ Mình Thánh ra ngoài vườn, lấy đi những bình mạ vàng
mà chúng tưởng được làm bằng vàng thật. Đây thật là tội phạm thánh nặng nề.
Thế nhưng trong bài giảng lễ hôm
ấy, Đức Hồng Y Ca-ma-ra đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao
hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giê-su vẫn bị nhục
mạ, hành hạ, chà đạp, bị giết chết nơi những người nghèo khổ, vô gia cư, trẻ mồ
côi … Sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những người nghèo
ấy chính là hiện thân của Chúa Giê-su, là Thân Mình Chúa giữa đời thường cần được
chúng ta chăm sóc.
Nói như thế, Đức Hồng Y không có
ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho các tín hữu về khía
cạnh thường bị quên lãng. Đó là chúng ta cần phải hiệp thông với nhau khi dự
thánh lễ tại nhà thờ mà còn phải hiệp thông với nhau trong cuộc sống xã hội nữa.
23. Hiệu quả của việc rước lễ
Đức Hồng Y Newman là một chức sắc
cao cấp và nổi tiếng của Giáo Hội Anh Giáo, mỗi năm được hưởng một khoản trợ cấp
của nhà nước là 100.000 quan thời đó. Ngài đã nghiên cứu lâu năm đạo Công Giáo
và cuối cùng Ngài xin trở lại Đạo Công Giáo. Vài ngày trước khi ngài trở lại, một
người bạn thân khuyên rằng: “Ngài hãy nghĩ lại việc ngài làm! Nếu ngài trở
thành người Công Giáo, ngài sẽ mất 100.000 quan mỗi năm đó!” Newman bất bình
nói lớn tiếng: “Một trăm ngàn quan là gì so với chỉ một lần rước lễ!”
Vì sao Đức Hồng Y Newman lại quyết
định một cách táo bạo và khẳng định một cách chắc chắn như vậy? Thưa, vì Ngài
đã hiểu được hiệu quả của việc rước lễ. Thật vậy, giáo lý về bí tích Thánh Thể
dạy rằng: Rước lễ thì được những ơn ích này: Một là được kết hợp mật thiết với
Chúa Kitô và Hội thánh; Hai là được tẩy xóa các tội nhẹ; Ba là được lớn lên
trong ân sủng; Bốn là được bảo đảm sự sống muôn đời.
Chính vì hiệu quả của việc rước
lễ như vậy nên Giáo Hội đã khôn ngoan ấn định rước lễ mỗi năm ít là một lần, buộc
nặng, ai không thi hành là mắc tội trọng. Giáo Hội còn kêu gọi con cái mình
năng rước lễ, và rước lễ mỗi ngày. Bởi vì, ngoài những ơn ích trên, năng rước lễ
sẽ có thêm sức mạnh và sự can đảm để giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.
Trong thời kỳ đầu của Hội Thánh,
dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người kitô hữu anh dũng chấp nhận cái chết vì Chúa.
Đâu là lý do của sự lạ lùng đó?
Chính Thánh Siprianô trả lời rằng:
“Chính nhờ Mình Thánh Chúa Giêsu gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một
cách anh dũng như vậy.”
24. Hoa trái của lòng mến Chúa Thánh Thể
Vào đầu thế kỷ 20, tại Luân đôn,
có gia đình ông bà Vaughan đông con và rất nghèo khó. Chồng suốt ngày ở trong
xí nghiệp còn vợ thì ở nhà làm nghề phụ, thêm vào với việc nội trợ. Đầu tắt mặt
tối nhưng trưa nào bà cũng dành một giờ chầu Chúa ở nhà thờ. Có người thắc mắc
tại sao bà vẫn xếp giờ đến chầu Chúa, mặc dù công việc lo cho 13 người con thật
không ít bề bộn. Bà Vaughan tươi cười trả lời:
“Một bầy con đông đúc, ăn bữa
nay chạy bữa mai, tôi lo lắm. Hơn thế, lúc đi học, chúng có thể theo bạn bè rủ
rê đây đó, gặp nhiều nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Vì thế, dù bận việc
tới đâu, mỗi ngày tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Ngài ban ơn
cho vợ chồng tôi nuôi các cháu hằng ngày dùng đủ, và dạy dỗ chúng nên người đạo
đức.”
Chúa đã nhận lời và ân thưởng
cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaugran: trong 13 người con, một người làm
Hồng Y Tổng Giám mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám mục, hai
người làm linh mục hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ; còn 5 người ở thế gian lập gia
đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (Những người lữ
hành trên đường hy vọng).
Thật là đúng với lời Chúa dạy
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa
trái” (Ga 15,5).
25. Đáp lại tình yêu Chúa
Một ngày kia, đang đến trường
thì Saviô gặp một linh mục kiệu Mình Thánh cho kẻ liệt. Nghe tiếng chuông,
Saviô quì gối mà không để ý gì đến đường xá dơ bẩn. Hai vết bùn in rõ trên đầu
gối quần cậu. Một người bạn lúc nãy đã cẩn thận quì xuống một nơi khô ráo sạch
sẽ mới nói với cậu: “Thiên Chúa đâu có đòi chúng ta phải hy sinh quá như vậy.”
Saviô trả lời: “… Tôi còn quăng
mình vào lửa nếu Chúa Giêsu muốn, để cảm tạ Ngài vì đã cháy lửa yêu chúng ta
trong phép Mình Thánh.”
Thánh Thể được gọi là “của ăn
đàng” cho kẻ liệt, nhưng không chỉ là của ăn đàng cho kẻ liệt mà Thánh Thể thực
sự là của ăn đàng dành cho hết những ai đang trên đường lữ hành, đang trong
“nơi hoang địa.”
“Lạy Chúa ẩn dật, Chúa tạo thành
thiên địa! Chúa xử với chúng con lạ lùng quá! Chúa đối với người Chúa chọn cách
hiền hậu và nhân từ quá! Vì Chúa ban chính mình làm của nuôi họ trong bí tích
Thánh Thể” (Imit IV, I, 39).
26. Bí tích tình yêu
Một phụ nữ người Anh được Thánh
Giáo hoàng Pi-ô X tiếp kiến riêng. Khi đến gặp ĐTC, bà ta dắt theo đứa con trai
mới bốn tuổi để xin ngài chúc lành. Trong khi bà nói chuyện thì đứa bé đứng xa
xa, một lát sau nó đến bên ĐTC, đặt hai tay trên đầu gối ngài và ngước mắt lên
nhìn ngài. ĐTC hỏi người mẹ:
- Cậu bé được mấy tuổi rồi?
- Thưa ĐTC, cháu được bốn tuổi rồi,
con mong là hai hay ba năm nữa nó sẽ được rước lễ lần đầu.
ĐTC nhìn thẳng vào cặp mắt trong
xanh của cậu bé và hỏi:
- Khi rước lễ là con rước ai thế?
- Dạ, con rước Chúa Giêsu ạ, cậu
bé trả lời.
- Chúa Giêsu là ai vậy con?, ĐTC
hỏi thêm.
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cậu
bé trả lời thật mau mắn.
ĐTC liền bảo bà mẹ:
- Ngày mai hãy đem cháu lại đây,
chính Cha sẽ cho nó rước Lễ.
Đức Giáo hoàng Piô X được gọi là
“vị Giáo hoàng của bí tích Thánh Thể.” Ngài đã có công rất lớn trong việc chống
lại bè rối Jansénisme, một bè rối nhấn mạnh quá đáng lòng tôn thờ phải có đối với
bí tích Thánh Thể, quá kính sợ mà quên mất rằng Thánh Thể là dấu chứng của tình
yêu Thiên Chúa.
LỄ THÁNH TÂM NĂM A - NGÀY THẾ GIỚI XIN ƠN
THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC – TÌNH YÊU
Lời
Chúa: Mt 11, 25-30
Khi
ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng
Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những
điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như
vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha.
Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho.
“Tất
cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức
cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của
Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng."
TRUYỆN KỂ
1. Martin Luther King
Trong
quyển nhật ký của ông, mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh mạng sống để
tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen, đã viết:
“Tôi
rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời ai đó kể lại rằng Martin Luther King là người
đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ có thể nói rằng
tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi
công lý, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, rằng
tôi đã luôn luôn cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói
tôi đã xả thân để thăm viếng những người tù tội và yêu thương phục vụ mọi người…
Còn tất cả những thứ khác, như giải Nobel hoà bình 1964 không có gì quan trọng…”
Lạy
Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Chúa. Chúa đã phú bẩm cho chúng
con một trái tim để yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc
và ý nghĩa cuộc sống trong yêu thương và phục vụ, nhất là yêu thương và phục vụ
những người nghèo khổ chung quanh chúng con
2. Lễ Kính Thánh Tâm Chúa.
Về
việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa, nhiều tài liệu cho biết Thánh Tâm Chúa Giêsu đã
được nói đến từ núi Canvê khi môn đệ hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, tỏ
cho thấy “vết giáo đâm vào cạnh sườn Người thấu đến trái tim” mà thánh Gioan kể
rõ: “Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34).
Nhưng
từ thế kỷ 11-12, lòng tôn sùng Thánh Tâm mới được phát triển nhờ các dòng Biển
Đức và Xitô. Và, vào thế kỷ 16-17, lòng tôn sùng ấy được thịnh hành nhờ các
dòng Phan Sinh, Đa Minh và nhất là Hội Liên minh Thánh Tâm Chúa Giêsu…
Một
cách đặc biệt, lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được thánh Gioan Euđê
(1680) cổ võ từ thế kỷ 17 và nhất là qua thị kiến mà thánh nữ Margarita Maria
Alacoque (1690) đã nhận được từ tu viện thăm viếng ở Paray-le-Monial vào năm
1673 và 1675. Trong các thị kiến đó, chị Margarita được Chúa Giêsu chỉ cho thấy
Trái tìm Ngài “đã yêu thương nhân loại thế nào mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc
bẽo vô ơn”! Thánh nữ còn được Chúa Giêsu ủy thác việc xin giáo quyền thiết lập
một ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa. Nhưng, lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa tuy được cổ
võ từ 2 thế kỷ trước – với lể kính Thánh Tâm được tổ chức lần đầu tiên vào
31/08/1670 tại thành phố Rennes, Pháp – sau khi thánh nữ qua đời, Đức Giáo
hoàng Piô IX (1846-1878) mới chính thức thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào tháng
06 năm 1856, ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Thánh Chúa.
3. Mẫu ảnh Thánh Tâm Chúa.
Năm
1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ mọi cơ sở
Công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và bị
khủng bố tồi tệ. Tại vùng Odawakura, người ta bắt được hai Linh mục cùng nhiều ảnh
tượng. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục:
người gì mà để trái tim ra bên ngoài! Tsukamoto là một nhà nho uyên thâm có óc
thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh Trái Tim Chúa Giêsu coi qua rồi vất
vào sọt rác. Nhưng đến tối ông nhớ lại và ngẫm nghĩ chắc hẳn mẫu ảnh này phải
có ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại để trên bàn và suy nghĩ.
Trời
đã về khuya mà quan ngồi bất động một mình với mẫu ảnh trước mặt. Mãi đến một
giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhõm, khoan khoái, tay câm bút lông ghi dưới
tấm ảnh mấy chữ: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả." Rồi ông đặt mẫu
ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu trên bàn làm việc cách kính cẩn.
Một
hôm, một người bạn đến chơi thấy vậy hỏi: “Thế nào, ông bạn lại thích ảnh tượng
của bọn tà đạo rồi sao”? Vị quan trả lời: “Đứng về mặt chính trị của triều đình
thì tôi không dám phản kháng, nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất
thích mẫu ảnh này. Phải chăng đây là bức ảnh nói lên chương trình và hành động
cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo? Ông bạn thử nghĩ coi: đối với thiên hạ,
tha nhân bên ngoài thì hữu tâm, còn đối với bản thân mình thì vô tâm. Cho nên họ
mới vẽ trái tim lộ ra bên ngoài. Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục
vụ xã hội, giúp ích cho đời. Còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ
lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra để giúp đời
giúp người. Nội dung bức ảnh này tôi thấy đầy đủ hơn cả bài học từ bi của Phật,
khoan dung hơn đức nhân của Khổng Tử, cao siêu hơn cái vô ngã của Lão, mạnh hơn
cái dũng của thần đạo Nhật bản. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương
mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm tới tư lợi, thì
quả là điều ngay chính của thiên hạ."
4. Đỉnh cao của tình yêu thương--Lm Trần Ngà
Một
người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải
phẩu thay tim ngay thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón
tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy
sinh mạng của bà.
Khi
người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc
đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần
sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vân
vân. Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh
nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!
Đứa
em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là con gái duy
nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp
mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai
quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất
quan trọng khác... Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng
chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ
hơn...
Đến
lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng
đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã
hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời
nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận... Thôi, Anh Hai hoặc Chị
Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.
Thế
là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng
trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.
Thế
nhưng có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban
Trái Tim mà còn toàn cả thân xác và mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Đó
là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta
và chết thay cho chúng ta.
5. Xin Cha tha cho họ
Ông
Chirwin, trong cuốn “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” có kể lại câu truyện
có thật sau đây:
Tokichi
Ishii, một tên tử tội đã từng giết người không gớm tay đang chờ ngày chịu hành
quyết. Có hai bà trong hội Legio Mariae của Nhật-Bản thường đi công tác Tông Đồ
trong các trại giam, đã nhiều lần cố gắng tìm cách vào thăm và khuyên nhủ Ishii
nhưng đành thất bại ra về. Các bà chỉ còn biết để lại một cuốn Thánh Kinh Tân Ước
với một lời đề nghị thật dịu dàng nhân ái: “Lúc nào thấy buồn quá, không biết
làm gì thì anh chịu khó mở cuốn sách nhỏ này ra đọc nhé!”
Trong
những ngày dài phải chờ đợi cuộc xử bắn, quả thật Ishii đâm ra buồn chán và khủng
hoảng, không biết làm gì cho khuây khỏa, anh ta trông thấy cuốn Tân Ước để trên
bàn đã phủ bụi lâu nay và tò mò mở ra đọc. Anh ta không ngờ tập sách nhỏ ấy lại
khiến anh say mê đọc ngấu nghiến từng câu.
Sau
đó một tuần, Ishii kể lại cho người cai ngục Công Giáo: “Khi tôi đọc đến câu Đức
Giêsu nói trên Thập Giá: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm...”
thì tôi dừng lại. Con tim tôi như bị một con dao dài đâm thâu. Tôi có thể gọi
đó là Tình Yêu của Đức Giêsu, hay tôi phải gọi đó là Lòng Thương Xót của Người?
Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết, đó là sự hung dữ tàn bạo nơi tôi
đã tan biến, và tôi đã tin vào Đức Giêsu...”
Ngày
bị đem đi hành quyết, mọi người hiện diện đều ngạc nhiên vì Ishii đã biến đổi
thành một con người khác hẳn!
6. Nguồn Mạch Của Tình Yêu
Một
câu chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền
hình Pháp năm 1996, câu chuyện có nội dung như sau:
Có
một chàng trai tên là Antôn người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất
Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn
gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu Valery, một cô gái người pháp thuộc
gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì màu da
chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến nói rõ với cha của Antôn rằng, họ
không bao giờ để cho con gái của họ sống chung với người da đen.
Đau
khổ và tuyệt vọng, hai người đành quyết định đi tìm khung trời riêng cho chính
họ. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh
sát bắt ngay trong chính đêm họ muốn trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn
dập, Valery bị nhồi máu cơ tim phải vào bệnh viện. Gia đình cô lợi dụng cơ hội
này để cắt đứt mối liên lạc giữa hai người, và để ngăn ngừa hậu hoạ, cha mẹ
Valery đã báo cho cảnh sát biết về tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha
con Antôn, nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì hôm ấy chàng trai thất
tình còn mãi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết
Valery phải được thay tim mới có hy vọng sống còn. Tình cờ biết được tin này,
Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng.
Trở
về căn nhà của anh, vắng bóng cha chàng trai đau khổ khóc suốt đêm cho đến khi
cảnh sát ập đến để bắt chàng, họ thấy chàng mê man bất tỉnh, thay vì đưa chàng
vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau Antôn tắt thở,
trong túi áo của chàng người ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn một tờ di chúc với dòng chữ:
“Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và Valery đã được
cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy (nguồn:
Internet).
Tình
yêu của Antôn dành cho Valery trong câu chuyện trên đây phần nào phản ánh tình
yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ
trọng thể Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch của
tình yêu.
7. Mặc Khải Thánh Tâm
Thế
kỷ XVII, khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque, một nữ
tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial, Chúa Giêsu đã cho thánh
nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh, và bị lưỡi gươm đâm
thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa
Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, Chúa Giêsu nói:
“Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được
biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…." Ngài yêu cầu Thánh nữ vận động thành
lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày
11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh
Tâm Chúa Giêsu.
Thánh
Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Tình Thương Tha Thiết, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với
hai dòng Máu và Nước. Dù chỉ là tội nhân, nhưng chúng ta được diễm phúc trở
thành con cái của Thiên Chúa, là “dân riêng” của Ngài: “Anh em là một dân thánh
hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn
anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người”
(Đnl 7:6).
8. Sống Lạc Quan
Nhà
văn Tolstoi đã kể một câu chuyện sau để khuyên người ta phải sống lạc
quan:
Một
hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang
nhởn nhơ gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe
hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên
sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng sóc bọn bay lúc nào
cũng vui vẻ nhảy nhót ăn uống như thế? Bộ chúng bay không thấy ông
nội của chúng bay đang rầu thúi ruột ra đây hay sao?” Bấy giờ chú sóc
nâu kia vội leo lên cành cao hơn để đề phòng bất trắc. Sau khi ngồi an
toàn trên cành, sóc nâu mới trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở
dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào
cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ
yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng tôi luôn cảm thấy vui tươi và
nhảy nhót suốt ngày, vì chúng tôi sống hiền lành, hòa thuận với
mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai."
Câu
trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức
Giê-su là một con người lạc quan. Dù vừa gặp phải thất bại ở các
thành ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người vẫn nhận ra thánh ý
Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu
nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha,
vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
9. Tình yêu
Vào
một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là
Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc
tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị
chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành
khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những
chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng
hát vang lên:
- Gần
bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với
chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu
chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống
gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm
vui mừng và hạnh phúc.
10. Kẻ Đâm Ngọn Giáo
Như
chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người
lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu
cùng nước chảy ra.
Tương
truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại
cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn
ghi những chữ như sau:
-
Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa
Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả
nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy
nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách
mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công
to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống
xanh tươi được vươn lên.
11. Chúa không dám giết
Một
người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút
xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo
nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:
-
Này ông, ông có đứa con nào không?
- Ồ,
sao bà lại hỏi thế?
- Nếu
một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?
-
Không, tôi thương chúng lắm.
-
Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
12. Con tim rộng mở
Năm
1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở
công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng
bố tàn tạ.
Tại
vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và
Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống
ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: người gì mà để trái tim ra ngoài!
Tsukamoto
là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim
coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ
kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời
đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần
một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông
ghi dưới bức ảnh mấy chữ: "đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả."
Từ
đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm
có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:
-
Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?
- Đứng
về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn
hóa và nhân đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói
lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn
coi: đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản
thân mình thì "Vô Tâm." Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài...
Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời;
còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt
cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy
đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng,
cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật
bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản
thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính
của Thiên hạ vậy. Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo công giáo lại
hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những
người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều
đình thả hai linh mục...
13. Chỉ cần mẹ
Tai
nạn xảy ra cho cô gái 16 tuổi buộc cô phải nằm nhiều tháng trong bịnh viện. Mẹ
cô lại là người đàn bà ham vui, chẳng nghĩ đến chuyện ở lại bên con. Trong khi
đang đi du lịch bên Italia, bà nhớ đến sinh nhật của con, liền gửi cho con gái
chiếc bình cắm hoa rất đẹp. Cô y tá đem chiếc bình đến, nói rằng mẹ em đã cẩn
thận gửi quà vào đúng ngày sinh nhật của con. Cô gái dửng dưng nhìn chiếc bình,
rồi hét: "Vứt đi! Dẹp đi! Tôi không cần. Mẹ ơi, mẹ đừng gửi gì cho con nữa,
đừng gửi sách vở, quà cáp, hình ảnh... Con chẳng cần những thứ đó. Con chỉ cần
mẹ!"
Đức
Giêsu cũng thế, Ngài chẳng cần gì vật chất. Ngài chỉ cần con tim rộng mở của bạn,
tình yêu chân thành của bạn, niềm tin phó thác của bạn. Và Ngài muốn nên một với
bạn.
14. Trái tim rộng mở
Một
nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lí một bà già 73 tuổi để được nhập đạo
- Đức
Kitô là ai?
-
Là người đã chết cho con.
-
Người chết thế nào?
-
Con không biết.
-
Ai là môn đệ đức Kitô?
-
Con không nhớ. Con không biết chữ.
-
Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không?
-
Thưa không. Với người mù chữ thì…
- Đức
Kitô sống ở nước nào?
Thinh
lặng.
Nhà
truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng. Người hướng dẫn cho bà nói:
"Bà này là người rất vững tin, luôn có mặt trong các buổi phụng vụ, dù ở
cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước đây tính khí
thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng. Mọi người
đều thấy thế."
Nhà
truyền giáo nhìn bà. 73 tuổi. Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó.
Và ngài quyết định tiếp tục.
-
Thiên Chúa là ai?
-
Thiên Chúa là Cha trên trời.
-
Thiên Chúa ở đâu?
-
Con ở đâu, Ngài ở đó.
-
Bà có hay thưa chuyện với Ngài?
- Rất
thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà, lúc vui cũng như lúc buồn,
con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con
nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy
rộng mở.
15. Hiền lành
Mặt
trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo
choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió:
–
Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió
đồng ý và ra tay trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy
chiếc áo. Cuối cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc
đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy
nóng bức. Và thế là người ấy phải cởi áo ra.
Tác
giả câu chuyện trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành
dễ thương hơn là nhờ bạo lực.
16. Liêm Pha và Lạn Tương Như
Vua
Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại
đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương
Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.
Một
hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh
xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.
Bọn
xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:
“Chúng
tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu
nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại
ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại
tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ,
vậy xin đi thôi, không ở nữa.”
Tương
Như nói: “Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?”
Bọn
xa nhân thưa: “Không."
Tương
Như nói: “Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy
một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu
hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh
Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không
cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh
Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy
thôi."
Bọn
xa nhân quỳ mọp tâu rằng: “Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của
tướng công."
Liêm
Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm”,
bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: “Tính tôi thô bạo, đội ân tương
quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”
Tương
Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.
17. Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thời
còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi
sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới
trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.
Ngày
kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám
mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi
bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn
yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm
hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như
vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta
và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật.
Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ,
thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn
thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người
khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một
thùng dấm chua.
18. Mang lấy ách
Có
một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một
em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên
lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho
em phải mang." Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một
gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu." Gánh nặng được trao ban trong tình
yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng!
Trong
chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài
súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con
chim! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng
Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào
phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và
luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên
Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng
vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng
mình? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ
phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng
cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất
cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con
người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời!
Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng
là cuộc đời! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi.
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người." Chúng ta không mang vác một
mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng
sẽ nên nhẹ nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi
cánh chim giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.
19. Những vết thương
Trong
tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả
dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng
thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết
được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết
thương." Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The
Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh
của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau
khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với
chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc
hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng
ta. Ngài biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.
Cái
ách ở thế kỷ thứ nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe
chung với nhau. Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta
cũng mang lấy ân sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh
cho chúng ta phải cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ
ở bên cạnh chúng ta để cùng mang vác với chúng ta.
LỄ THÁNH
TÂM NĂM B
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
LỄ THÁNH
TÂM NĂM C
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
LỄ KÍNH
TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ MARIA
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
LỄ KÍNH THÁNH TÔNG ĐỒ BARNABA
Lời Chúa: Mt 10, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những
bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch
và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền
nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang
giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay
làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra
đi.
“Khi vào nhà nào, các con hãy
chào rằng: “Bình an cho nhà này.” Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các
con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các
con sẽ trở về với các con.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Thánh Banaba tông đồ
Ba-na-ba “là một người tốt lành,
đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv11,23). Ngài được sách công vụ nhận là Tông Đồ
(14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai
Ngài là một người Do Thái thuộc
giáo tỉnh Cypern, gốc Lê-vi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết lúc nào
ngài gia nhập Kitô giáo. Như Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã
được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba -nghĩa là con của sự an ủi- một người
Lê-vi, người gốc Ky-prô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới
chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô mới
trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng
năm 42, đã tìm Saolô từ Tar-sô sang An-ti-ô-ki-a làm người cộng sự truyền giáo.
Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, cả hai đi Ky-prô và mạn nam Tiểu
Á. Cả hai đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc người ngoại,
một khi gia nhập Ki-tô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật. Sau đấy, có cuộc
tranh cãi giữa hai người, chỉ vì Phao-lô không muốn đem theo Mác-cô, bà con của
Ba-na-ba, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai. Ba-na-ba đã đem Mác-cô
đi với mình đến Ky-prô (Cv 15,39)
Theo truyền thuyết sau này,
Ba-na-ba bị ném đá chết tại Sa-la-mít.
2. Nhận
và cho
Một hôm có một vị bá tước đến
cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo
khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân
bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng
đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi.
Ngày hôm sau, vị bá tước đích
thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của
Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông
xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số
tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những
người nghèo.
3.
Nên một trong khác biệt
Phaolô và Banaba đều là những
tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng
rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau:
Lần thứ nhất là về vấn đề ăn
chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không
bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào
sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn
chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn
không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung
bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công
khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại
của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ
đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà
hôm nay người đến sau và người cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng
thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này
vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.
Lần đụng độ thứ hai là về việc của
Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập
đoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm.
Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là
để Marcô đoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba
thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả
là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một đoàn truyền giáo
riêng đi giảng một huớng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc
truyền giáo càng đuợc đẩy mạnh hon.
Còn thêm một kết quả nữa chứng
minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa đuợc Marcô,
Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra
mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính
riêng của mình.
4.
Thánh Phanxicô truyền giáo
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng
cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đuờng phố Assisi, cách nghiêm
trang, suy tuởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: Thưa cha, giảng ở
đâu ạ?
Cha thánh trả lời: Giảng là đem
Chúa đến bằng guong sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn .
5.
Chuyện thánh Barnaba truyền giáo
Một truyền thống sau này nói tới
chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan,
Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hon cho biết Ngài chết vì
ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thu
Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh
Barnana. Nhung những tài liệu này không cho biết nhiều hon những điều đã biết
đuợc từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là tho thánh Barnaba mà nhiều giáo
phụ chép vào tho mục Thánh Kinh, nay nguời ta biết đuợc là tác phẩm của một nguời
Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Nguời ta nói rằng mộ Ngài đuợc tìm thấy nãm
448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh
Ngài đã chép tay.
6.
Chuyện thánh Barnaba
Một số chuyên gia đã so sánh
Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong
công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thu mang tên của
Ngài, nhung nó đuợc coi là mạo danh, và cũng đuợc xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy
Thu. Bức thu này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về
Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài nhu là sự tuong ứng và hài hòa với
Cựu Uớc; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thu này đôi khi đuợc coi nhu thành phần
của quy điển Tân Uớc. Thực tế thì bức thu đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng
vào nãm 130, và với cách giải thích Cựu Uớc có tính bài Do-thái của mình, nên bức
thu này không đuợc công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng
mạo danh Thánh Nhân, nhung tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác
cũng mạo danh Thánh Nhân, nhung mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới đuợc biên soạn.
Theo một truyền thống truớc đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô,
Thánh Bác-na-ba đuợc coi là tác giả của Thu gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống đã liệt
Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
7.
Phần mộ của thánh Barnaba
Theo tuong truyền, vào nãm 477,
trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios
của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài.
Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã đuợc tìm thấy.
Khai quật ngôn mộ của Ngài, nguời
ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, nguời bạn đuờng của Ngài là
Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh
Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh
Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình
hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục
của Giáo hội Sýp đã thuyết phục đuợc nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp đuợc
thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hon Giáo hội
Antiochia, và vì thế đuợc coi là ngang hàng với Giáo hội đó.
Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay
bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này đuợc cho là có khả nãng chữa
lành cũng nhu có khả nãng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và
những bệnh ngoài da. Vào nãm 1953, một nhà nguyện mới đã đuợc kiến thiết ngay
trên phần mộ đuợc cho là của Thánh Bác-na-ba.
LỄ
SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Khi
đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết
Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ
tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó
mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan.”
Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó’’. Và họ làm hiệu hỏi cha
con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan.” Và mọi
người đều bỡ ngỡ.
Bỗng
chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh
hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy
những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì
quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó.” Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở
trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
TRUYỆN KỂ
1. Dọn dường cho Đấng Cứu Thế
Chu
Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy
xót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại
bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ
mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám
nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua
bản Thất trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang
sơn đất nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.
Cụ
Chu Văn An xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc,
đó là khí tiết dũng cảm của người quân tử.
Nhìn
dưới góc độ văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người
quân tử xuyên suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả
ngôn sứ” (Mt 11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu
Thế đến với nhân loại. Người sống “tu thân” trong hoang địa và rao giảng sự sám
hối. Thẳng thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen
tối.
2. Chúa phải lớn lên
còn tôi phải nhỏ đi
Lúc
còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu
mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp
nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một
đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó
quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...
nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền
bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi
năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư
tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên
nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ
tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã
đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải
rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu
tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi.”
Vâng
cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những
cánh tay nối dài của Ngài.
Ước
gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống
đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu
Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong
cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người
tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của
Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo
cho mọi người.
3. Sứ điệp cứu nguy
Thánh
Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng
xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần
thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới
đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một
là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những
gì là căn bản nhất.
Với
chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại
nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh
Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi
vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức
Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những
gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
4. Sinh nhật vào Hạ chí
Nhưng
tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người
ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa
ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan
vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó
để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo
về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản
sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà
đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối
với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày
sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn
tôi phải suy đi.” Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức
Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến
lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt
trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông
chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu
tháng.
Những
điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả
trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình
người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc
tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời
của Đức Giêsu.
Ba
bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống
của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc
đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm
theo sứ mạng.
5. Khiêm tốn
Tác
giả La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về
con ếch và con bò để dạy chúng ta bài học là đừng quá tự cao như sau:
Ngày
kia có một con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao
cho mình cũng được trở nên vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động,
con ếch liền xuống ao để uống nước cho bụng phình to ra sao cho bằng con bò
kia. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con
bò. Nó lại cố uống thêm… cho đến khi một tiếng “Bốp” nổ vang lên và con ếch đã
bị chết banh xác.
Câu
chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu trong cõi lòng, hầu như ai cũng muốn
được người khác nể phục ca tụng. Ai cũng muốn tự nâng mình lên chứ không thích
hạ mình xuống. Nhưng chúng ta ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện
nhân đức ấy, để việc tông đồ chúng ta làm được đẹp lòng Chúa và đạt được nhiều
thành quả tốt đẹp.
6. Nép mình dưới bóng thập giá
Có
một anh khờ nọ muốn được giải thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn
chạy bao nhiêu thì cái bóng đó lại càng đeo đuổi phía sau không dứt ra được.
Anh lăn lộn trên đất, nhảy xuống sông… nhung dù đi đâu, làm gì, thì cái bóng của
anh vẫn luôn ở phía sau.
Một
cụ già khôn ngoan nghe biết chuyện đã cố vấn cho anh khờ như sau: "Để
thoát khỏi cái bóng của mình, anh chỉ cần đến núp dưới bóng của một cây lớn là
được.” Anh khờ nghe lời đến núp dưới một cây lớn và từ ngày đó đã không còn bị
cái bóng theo đuổi phía sau nữa.
Chỉ
khi biết khiêm tốn nép mình dưới bóng cây Thập giá Chúa Giê-su, chúng ta mới có
thể thoát được cái bóng của các thói hư, chạy theo hư danh, khoái lạc, lợi lộc…
trong cuộc sống.
Hôm
nay Hội Thánh mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng đến nép
mình dưới cây Thập giá Chúa Giê-su. Con người ấy chính là Gio-an Tẩy Giả, vị tiền
hô của Đấng Cứu Thế. Ông đã luôn khiêm hạ nép mình dưới bóng Chúa Giê-su và hiến
cả cuộc đời phụng sự Người như ông đã nói với các môn đệ: “Chính anh em làm chứng
cho thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi
trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng
đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm
vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy
phải lu mờ đi: (Ga 3,28-30).
7. Gioan và Hêrôđê
Tôi
thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai
khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là
người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại
thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà
vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết
ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng
ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai
trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên
ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị
dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa
của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một
lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của
cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con
gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành
phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua
Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc
dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao
lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong
những sự thấp hèn.
Đối
diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống
nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến
đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của
những đỉnh cao.
8. Noi gương Gioan Tẩy Giả
Theo
cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn
phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo
dân cho Chúa và các linh hồn.
Nhưng
rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng.
Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước
những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ.
Đêm
hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh
dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian
phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông
Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những
lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì
vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động,
để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người
ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa,
do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ.
Vừa
mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh
cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết
chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Thưa
anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt
chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước
thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
9. Đứa trẻ này rồi sẽ nên thế nào?
Một
người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu
ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc
đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế
rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh
quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới
hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội
cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn
không sót một con!
Niềm
vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay
dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia
đình.
Một
niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời.
Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong
tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật
dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng
vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa
phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế
rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng.
Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan
sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào
trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực
hiện ý Người.
10. Người mở đường cho Chúa
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi.
Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh
phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và
giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ
tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh
như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không?
Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử
chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất
cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và
sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và
là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi
không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ
cũng là con cái của Chúa.
11. Vào hoang địa
Lm
Nguyễn Hồng Giáo kể truyện: Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một
anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000
giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng
6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế
mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng
như trong việc đạo.
Đặc
biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông
đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy
người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để
tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã
quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980.
Bây
giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi
và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích
của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo
"ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta
khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn
noi gương vị Tiền Hô.
12. Làm chứng cho ánh sáng
Trong
ngày lễ mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn
lại và khám khá về con người sứ giả của Tin mừng. Ngài đã sống và làm chứng cho
sự thật. Như lời thánh sử Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến,
người đó tên là Gioan Tẩy giả, ông đến để làm chứng cho Ánh Sáng” (Ga1, 6). Thật
vậy, ngày nay nhân loại đang cần những chứng nhân sống động hơn là thầy dạy.
Tôi lại chợt nhớ đến một chứng từ có tựa đề là “Con Nay Trở Về” của Phan Như Ngọc,
nguyên trưởng phòng vật lý hạt nhân viện khoa học Việt Nam. Vì là một nhà khoa
học, và cũng là một người vô thần, ông ta cho rằng, ai tin vào Thiên Chúa là
người mê tín, dị đoan. Trong suốt mười ba năm dạy học, ông ta nhồi nhét cho các
sinh viên những tư tưởng duy vật và chống lại đường lối của Thiên Chúa.
Đến
năm 1989, trong một chuyến đi công tác tại Đức, ông ta gặp được một nhà truyền
giáo Hà Lan, tên là Henk Wolthaus đến phát Thánh Kinh và những quyển sách nhỏ
cho mọi người. Vì có tính tò mò, ông muốn biết cuốn sách này nói gì. Khi mở những
trang đầu cuốn Thánh Kinh, ông cảm thấy khó chịu, không thể hiểu được tại sao
vũ trụ này lại được tạo dựng trong sáu ngày? Thật là vô lý. Khi đọc tới cuốn
Tân ước, ông cũng không thể tin việc Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được
sáng mắt, người cùi được sạch, kẻ què đi được, người chết sống lại… Tất cả như
những câu truyện thần thoại dành cho trẻ con.
Những
phép lạ trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen lý luận theo kiểu vô thần của ông
ta không sao hiểu nổi. Từ cái khó hiểu và vô lý đó đã nẩy ra trong đầu ông ta một
câu hỏi, đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có
hầu hết các nhà khoa học vĩ đại tin vào Kinh Thánh? Họ là những người cuồng
tín, hay là chính mình là người ngu dốt? Và từ những cuốn sách mỏng của người
truyền đạo Hà Lan, ông ta đã đọc được những câu bất hủ sau đây:
Isaac
Newton (Anh, 1642-1727) đã kết luận: "Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện
chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor
Hugo (Pháp 1802-1885) viết: "Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và
Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Albert
Einstein (Đức, 1879-1955), nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã
phát biểu: "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, Tôn giáo mà thiếu khoa học
là què quặt.”
Theo
như lời tự thuật của Phan Như Ngọc, lúc bấy giờ ông chưa được hiểu biết nhiều về
Thiên Chúa, nhưng Chúa đã mở cõi lòng chai cứng và làm thay đổi não trạng và
thành kiến của ông. Ông ta xác tín rằng, "Chúa dùng Thánh Kinh và những lời
của các nhà khoa học để mở con mắt đức tin cho tôi. Mười ba năm dạy học là mười
ba năm tôi bước đi trên con đường lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, tôi cảm thấy
xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất là chính tôi
phải gánh chịu một phần trách nhiệm, vì tôi đã gây nên tội."
Thật
là một điều kỳ diệu. Là một nhà khoa học, một người vô thần, ông ta lại dám nói
những lời xác tín như thế để làm chứng cho Tin mừng trong thế kỷ 21 này, ông ta
đã nói lên sự thật về tình yêu Thiên Chúa. Như lời thánh GioanTẩy giả đã công bố:
“Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng sẽ có một Người đến sau tôi, và tôi
không xứng đáng cởi giây giầy Ngài” (Lc 3,16). Sứ vụ rao giảng của Gioan là dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến, ngài kêu goi người ta ăn năn sám hối và tin vào Tin
mừng. Ngài bảo vệ cho chân lý và sự thật. Khi đã tố cáo vua Hêrôđê phạm tội loạn
luân với bà Hêrôđia, vì ông này đã chiếm vợ của anh mình, thì sứ vụ rao giảng của
Gioan Tẩy giả được chấm dứt khi ngài bị tống vào ngục và bị chặt đầu, cái chết
của ngài là làm chứng cho sự thật.
LỄ
HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và
hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo
là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên
tri nào đó." Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy
là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có
phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho
con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc;
và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở."
TRUYỆN KỂ
1. Hai đá tảng và trụ cột của
Giáo hội
Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng
đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình.
Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch
để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá
tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô." Hai vị được
nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần
gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng
tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là
người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người
Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân."
Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã
có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở
trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
(x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn
đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố
quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa... Trong những lúc khó khăn nguy
khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho
đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài
tử đạo khoảng năm 64-67.
Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa
làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa.
Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành
lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng
đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma.
Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình
với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi
người và sống chứng nhân Tin Mừng.
2. Hình ảnh Chúa Kitô
Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các
nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế." Các nghệ
sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ
sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng
người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc
đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung
điện. Khi thời gian đã hết, hoàng đế cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông
hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc
nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất
một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt
của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi
đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi Kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức
Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục
đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và
phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc
sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con.
3. Tác phẩm của tình yêu
Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó
trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu,
bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em
bé rằng:
- Ai đó?
Em bé tức khắc trả lời:
- Một vĩ nhân.
Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong
hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé
khác vào phòng vẽ và hỏi:
- Em biết bức tượng này là ai không?
Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn
ra đôi mi, em khẽ nói:
- Hỡi những con trẻ đau khổ hãy đến cùng ta!
Nhà điêu khắc thoả mãn, thành công về tác phẩm của mình.
Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:
- Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể
hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.
Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu
khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bày trong viện bảo tàng
Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng
Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt
của Ngài rồi, thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này
được nữa, bởi vì làm như thế là tục hoá nghệ thuật của mình mất rồi."
4. “Ngục thất nơi giam hai thánh Phêrô và Phaolô: Từ tăm tối trở
thành ánh sáng."
Sau một năm trời khai quật, Nhà ngục Mamertine, nơi Thánh
Phêrô và Phaolô phải giam giữ trước khi bị hành hình, đã được tân trang và mở cửa
lại.
Địa điểm nhà ngục nằm cạnh Quần thể Cổ Roma (Ancient Roman
Forum), tạc sâu vào vách đá của đồi Capitol (Capitoline Hill) và nhìn xuống
ngôi nhà dùng làm Nghị viện thời đó. Người ta vẫn tin là nhà ngục này – còn có
tên gọi là Carcer Tullianum – được hoàng đế Roma Servius Tullius xây vào thế kỷ
thứ 6 trước Công nguyên, gồm có hai phòng giam chồng lên nhau. Phòng giam dưới
là một khoảng chật hẹp ẩm thấp, chỉ xuống được qua một lỗ hổng trên sàn phòng
giam trên, được sử dụng suốt thời kỳ Cộng hoà và Đế quốc Roma để làm tù ngục
giam giữ và hành quyết.
Chính tại phòng giam này viên tướng chỉ huy quân đội người
Gaule là Vercingetorix bị xiết cổ chết sau trận chiến thắng của Julius Caesar,
và cũng tại nơi đây, trong tù ngục âm u, Jugurtha, vua người Numidians đã bị để
cho chết đói. Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Sallust một văn sĩ Roma đã
mô tả nhà ngục này “sâu 12 feet, chung quang là tường và trên là mái vòm bằng
đá. Khung cảnh thật ghê tởm và đáng sợ vì bị bỏ bê, tối tăm và hôi thối.”
Một thế kỷ sau lời mô tả như trên của Sallust, Thánh Phêrô
và Phaolô đã phải đến cư ngụ trong phòng giam dưới cực kỳ ghê tởm này, trong những
ngày cuối đời trước khi tử vì đạo, bị cầm tù theo lệnh của hoàng đế Nero. Sự hiện
diện của hai vị tông đồ đã chuyển biến địa điểm thất vọng này thành nơi chỗ hy
vọng, khi các ngài rao giảng đức tin cho lính canh ngục là Processus và
Martinianus. Hai người lính Roma xin được rửa tội, nhưng không có nước trong
phòng giam để cử hành bí tích này, vì thế Thánh Phêrô dùng gậy đập trên nền
phòng và nước phun ra từ tảng đá. Địa điểm nơi dòng nước của phép lạ này chảy
ra nay còn được ghi nhớ nơi phòng giam dưới.
Những người giam giữ Phêrô giúp ông vượt ra khỏi nhà ngục tồi
tệ này, nhưng sau khi gặp được Chúa Kitô trên con đường Appian, Thánh Phêrô
quay trở lại và tự ý nhận lấy cái chết là bị đóng đinh vào thập giá tại đấu trường
của Nero trên đồi Vatican.
Tuần qua, văn phòng của vị giám sát khảo cổ tại Roma loan
báo rằng công việc khai quật đã khám phá ra những phần còn lại của các bích họa
cho biết việc chuyển đổi nơi này thành một không gian tôn kính của người Kitô
giáo đã xảy ra ngay tận đầu thế kỷ thứ 7, cùng thời gian với việc Curia (Nghị viện)
được biến đổi thành một thánh đường cũng như nhiều cấu trúc khác trong khu vực
Quần thể. Cuộc khai quật dõi tìm được dấu vết nhiều giai đoạn khác nhau của khu
vực này, từ lúc còn là khu mỏ đá cổ cho đến khi trở thành nhà ngục cho đến lúc
“biến đổi rất nhanh”thành một trung tâm tôn kính Thánh Phêrô.
Ngày nay, ngục giam này nằm dưới ngôi Thánh đường San
Giuseppe dei Falegnami xây vào thế kỷ 17, nhưng địa điểm là do Tòa giám quản
giáo phận Roma sở hữu và sẽ được Opera Romana Pellegrinaggi mở cửa cho công chúng
vào thăm viếng có thể là từ đầu tháng 7 này. Ở đó khách hành hương có cơ hội tỏ
lòng tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô. Hai thánh nhân đã từng nhìn ra ngoài
Quần thể nơi có nhiều đền đài thờ phượng những con người phàm đã biến thành thần
nhân, và các ngài đã có dũng cảm tuyên xưng Tin Mừng của Thần Chúa đã sinh hạ
làm người phàm. (x.VietCatholic News, 03-7-2010).
5. Phêrô và Phaolô, tượng
đài hiệp nhất.
Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội
cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng
chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một
sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma.
Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai
Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người
khác biệt ấy laị có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm
tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn
nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước
kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất
khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.
Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất
trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt
thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc
dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền
giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo.
Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên
ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một
ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất
trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của
con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp
nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc
cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội (x. Làm nụ hoa trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).
6. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.
Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo
theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất.
Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được
các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp
hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa.
Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức
Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến." Và ngài
tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được
Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở
chỗ nào."
Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào
tình thương của Chúa. luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo
Chúa. Amen.
7. Đứng dậy nhờ ơn Chúa
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White
Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật
nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị
khuyết tật thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn
vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu
tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn,
khiến bạn không thể tiến lên."
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông
xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập
gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con
trai.
Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị
khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn.
Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn
đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số
phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.
Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển
hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình.
Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết
dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa.
8. "ST" nghĩa là sự thánh thiện
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh
em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc."
Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt.
Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự
"ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một
vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ
quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST"
đáng nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần
phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi." Thế là
anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một
sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người
khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh
dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương
với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự
"ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý
nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về
ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết
rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta,
tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)."
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành
thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực
thi trong hiện tại và suốt cuộc đời.
9. Ngài Là Cha Tôi--‘Lẽ Sống’--R. Veritas
Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải
hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng
dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.
Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một
khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và
quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ
đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và
chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.
Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường
đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần
chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm
nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là
cha tôi."
"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng
ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ
mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.
"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép
chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài,
yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.
10. Con có yêu mến Thầy không?
Nơi bệnh viện mà nữ tu Antoinette đang phục vụ có một ông
lính già cực kỳ khó tính. Gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ. Có chuyện gì trái
ý, ông la lối rùm beng lên.
Ngày kia, đang mải mê phục vụ, nữ tu Antoinette nghe tiếng
"lính già khó tính" hét lớn: Đem cho tôi một quả trứng luộc."
Antoinette vui vẻ đem quả trứng đến cho ông.
- Trứng chưa chín đủ mà cũng đem tới à? Lính già khó tính
nhăn nhó. Antoinette tươi cười đem trứng đi luộc lại.
- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Vô ý vô tứ quá!
Antoinette chẳng biết làm sao. Chị bèn đi lấy một cái bếp
lò đến kê bên giường và trao cho ông lính già khó tính một cái trứng để luộc
cho vừa ý ông. Ông lính già thấy thế nổi máu nóng lên, đạp đổ bếp lò, quẳng quả
trứng xuống nền gạch, miệng quát lớn: "Cô không biết tôi là bệnh nhân sao?
Bệnh nhân mà đi luộc trứng à?"
Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, thinh lặng cúi xuống
thu nhặt, quét dọn ... Lát sau, chi đem đến cho ông lính già khó tính một cái
trứng khác: "Ông cố gắng dùng thử cái trứng này, tôi luộc vừa chín
thôi?" Bất giác, ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng:
"Tôi ăn quả trứng này cũng là ăn lòng tốt của cô nữa."
Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn bất cứ một biến đổi
ngoạn mục nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng người nữa.Ước gì chúng
ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giêsu luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp
nơi con người và luôn hy vọng vào những người đang lầm lạc trong cuộc đời này để
dùng tình yêu mà cảm hoá họ.
Xin cho chúng ta luôn biết nhẫn nại và quảng đại với những
sai lỗi của con người và luôn coi họ hành động sai lầm vì họ không biết và ngây
ngô mà thôi. Chắc chắn rằng khi chúng ta biết hành động yêu thương như Chúa,
như nữ tu Antoinette, chúng ta sẽ trở thành những tông đồ "trụ cột"
như hai thánh Phêrô và Phaolô mà chúng ta mùng kính hôm nay.
11. Ách êm ái và gánh nhẹ nhàng
Ngày kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:
- Các chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày nào
không?
Vừa hỏi xong, chị thánh đã mau mắn trả lời ngay:
- Đó là ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là ngày Chúa
để cho em chịu nhiều đau khổ nhất.
Một hôm kia, bà bề trên hỏi chị:
- Sáng nay, sao em vui thế?
Chị thành thật thưa lại:
- Dạ, con vừa làm được hai việc hy sinh.
Chị thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một thói quen
rất anh hùng, đó là luôn mỉm cười. Chị nói:
- Tôi đã tập được thói quen mỉm cười trong mọi lúc, trong mọi
nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh.
Tình yêu chân thật được đo lường bằng sự quên mình vì người
khác. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)
Được thúc đẩy bởi tình yêu, sau khi bị đánh đòn vì Chúa
Giêsu, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng
đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.” (Cv 5,41); riêng thánh Phaolô: “Năm lần
tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị
ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn
hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông,
nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm
ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là
anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn
ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.” (2Cr 11,24-27)
Tình yêu là lý do của việc sẵn lòng chịu đau khổ của ngài:
“Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo
cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối?
Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2Cr 11,28-29)
Niềm vui và bình an là hoa trái của một tình yêu chân thật.
Sức mạnh của tình yêu là ở đó; hạnh phúc do tình yêu mang lại là ở đó; thiên đường
cũng ở đó!
12. Các con bảo Thầy là ai
Trước khi trở lại đạo, Genesius, vị thánh quan thầy của giới
tài tử sân khấu, là một kịch sĩ nổi tiếng có nhiều ác cảm với đạo. Một phần
ghét đạo, một phần lại sống trong thời của vị hoàng đế bắt đạo Diocletianus,
nên anh định viết một vở hài kịch chế diễu các nghi lễ Kitô giáo. Để viết kịch,
anh phải giả làm dự tòng đến một giáo đoàn ở Rôma để xin học đạo, định bụng là
sau khi biết đủ những gì cần biết, anh sẽ viết một vở kịch chế diễu phép rửa tội.
Nhưng khi nói với các diễn viên về phép rửa trong lúc tập kịch,
tự nhiên Genesius lại thấy mình muốn tin và ước ao chịu phép rửa. Lòng ao ước
đó cứ lớn dần lên trong anh, cho đến hôm lần đầu diễn vở kịch cho hoàng đế và
quần thần xem, thì Thánh Thần tác động lên anh, anh không đóng kịch nữa mà kêu
lên từ đáy lòng: “Hỡi các bạn hề của tôi, tôi ao ước được trở nên một Kitô hữu.”
Các bạn diễn hỏi tại sao thì anh nói: “Suốt đời tôi chỉ là
phù du, nay tôi đã tìm thấy Thiên Chúa.” Mọi người, kể cả hoàng đế rũ ra mà cười,
nghĩ rằng Genesius nhập vai rất hay. Hai kịch sĩ bước vào, một đóng vai linh mục,
một phù thủy. Khi họ hỏi anh muốn gì, anh lập lại ước muốn được rửa tội. Hai kịch
sĩ đó rửa tội cho anh đúng như anh chỉ cho họ.
Rồi Genesius nói với hoàng đế, binh lính và dân chúng: “Tôi
viết và đóng kịch để chế diễu (…) nhưng nay tôi đã tin và khi tôi nói những lời
này, tôi thấy thiên thần của Chúa ở quanh tôi. Các thiên thần cho tôi biết nước
rửa tội đã rửa tôi sạch hết mọi tội lỗi cũng như các sự dữ tôi đã làm. (…)
“Hỡi hoàng đế, hãy tin vào những mầu nhiệm này! Tôi sẽ dạy
cho ngài và ngài sẽ biết Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật.”
Lời Genesius làm đám đông nhốn nháo cả lên, hoàng đế cho
trói anh lại mà đánh đòn và xẻo thịt anh. Dù phải đau đớn, anh vẫn tuyên xưng
Giêsu là Thiên Chúa. Khi hoàng đế ra lệnh chém đầu, anh kêu to: “Đức Giêsu Kitô
là Thiên Chúa và chúng ta sẽ có sự sống nhờ danh Ngài.”
Chúa hỏi các tông đồ: “Các con bảo Thầy là ai?” vì nhận biết
Chúa là điều cốt yếu trong niềm tin Kitô, để được sự sống đời đời.
13. Vì Chúa và hội Thánh
Có người hỏi Đức ông Polgallo:
- Là người thân cận của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vậy điều
gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông nhất?
- Dĩ nhiên ngài là vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh
thiện. Nhưng với cá nhân tôi, điều ngài làm tôi cảm kích hơn cả là lòng yêu mến
Hội Thánh. Trong các chuyến tông du, ngài hòa mình vào đám đông và để mọi người
lôi kéo như quên mọi hiểm nguy có thể xảy đến. Những lúc thân mật chúng tôi
thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha đã vất vả với
công việc lại còn tự đặt mình vào nhiều hoàn cảnh có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Xin Đức Thánh Cha đừng để đám đông lôi kéo như thế vì rất nguy hiểm.”
Mỗi lần nghe chúng tôi góp ý như vậy, ngài chỉ cười và dịu
dàng nói:
- Tất cả vì Hội Thánh! Tất cả vì Hội Thánh!
Thánh Phêrô và Phaolô là mẫu gương “vì Chúa và vì Hội
Thánh” cho các Kitô hữu thuộc mọi thời đại. Kinh tiền tụng thánh lễ hôm nay
Giáo Hội đã ca tụng: “Các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia
đình duy nhất cho Đức Kitô, nên các ngài đáng được thế giới ngưỡng mộ và được
lãnh nhận cùng một triều thiên vinh quang.”
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch