Lời Chúa tuần 3&4 mùa vọng _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 3&4 MÙA VỌNG
CÂU TRUYỆN MINH HỌA 

CNMV 3A -

CNMV 3B - DỌN ĐƯỜNG CHỜ CHÚA

CNMV 3C - TÔI PHẢI LÀM GÌ

Lễ kính -

Lễ kính -

THỨ HAI - QUYỀN PHÉP NÀO?

THỨ BA -

THỨ TƯ -

THỨ NĂM -

THỨ SÁU -

CNMV 4A -

CNMV 4B - TRINH NỮ HẠ SINH CON TRAI

CNMV 4C -

Ngày 17/12 - GIA PHẢ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

NGÀY 18/12 - THIÊN-CHÚA-Ở-CÙNG-CHÚNG-TA

NGÀY 19/12 - TRUYỀN TIN CHO ÔNG GIACARIA

NGÀY 20/12 - TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA

NGÀY 21/12 - THĂM VIẾNG

NGÀY 22/12

NGÀY 23/12 - GIOAN TẨY GIẢ SINH RA

Ngày 24/12

 

CNMV 3A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNMV 3B - DỌN ĐƯỜNG CHỜ CHÚA

Lời Chúa: Ga 1, 6-8. 19-28

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô.” Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia.” - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải.”

Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo.”

Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người.” Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Ánh sáng Tin Mừng – ViKiNi

Cách nay hơn 25 thế kỷ, hiền triết Platon, nước Hy lạp, thấy một thứ ánh sáng lạ lóe chiếu vào hầm tối. Mọi người trong hầm bừng tỉnh, niềm vui chan chứa. Họ đã thấy những tia sáng hy vọng tuyệt vời từ nơi cao thăm thẳm tới với họ. Họ tin chắc ánh sáng đó có ngày sẽ giải thoát họ khỏi hầm tối, cho họ tới nơi rực rỡ huy hoàng.

Gần đồng thời với Platon, sứ ngôn Isaia, nước Do thái, thấy một thứ ánh sáng kỳ diệu hơn nhiều: Ánh sáng thần trí Chúa phóng thích những tù nhân, ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Chúa. Họ vui mừng hớn hở được hưởng thời đại đầy ánh sáng cứu độ. Họ như được mặc áo choàng công chính trang điểm lộng lẫy như cô dâu chú rể. Họ được sống trong vườn hoa tươi mát đang đâm chồi nẩy lộc vinh quang, được sống trong thời đại tình thương Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, chí tôn. Linh hồn họ hớn hở reo mừng ngợi khen Thiên Chúa đến muôn đời

2. Ông đến để làm chứng

Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan”: Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.

Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán ghép được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.

Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là: Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”

Khi tiếp vị đại sứ, ĐGH Gioan (người được Chúa sai đến) nói: Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. ĐGH Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ và tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.

Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.

Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.

3. Làm chứng bằng tình yêu thủy chung

Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):

Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Ðại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng thì không. Ðã nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có cái gì hay.

Thế rồi trong một đợt thanh lý công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đã đành chìu theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và tình yêu của mình, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.

Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều tình huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng vì chồng trở về nhưng không dám đón chồng vì đã trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này thì niềm vui rất trọn vẹn.

Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đã thấy được giá trị của đức tin và tình yêu hiện thân nơi vợ mình. Ðó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.

4. Người là ai?

Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:

Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần bẩn thỉu rác rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.

Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.

Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn bà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.

“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26).

Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô đến để chiếu ánh ssng cho trần gian. Toàn bộ Tin Mừng chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiaret, Người là ai?"

5. Giang hồ nên thánh

Angiêla là con gái của một gia đình quí phái ở thị trấn Phôlinhô nước Ý, lại sống giữa bầu không khí xa hoa và ảnh hưởng xấu xa nơi bạn bè, Angiêla (1248-1309) đã sớm trở nên một thiếu nữ trụy lạc. Sau khi lập gia đình, Angiêla vốn có tâm hòn nhạy cảm, ham khoái lạc, nên vẫn thích cuộc đời giang hồ nay đây mai đó.

Vào một ngày trong năm 1285, đang trên con đường gió bụi, Angiêla gặp cơn giông tố, chị hoảng sợ chạy vào một nhà thờ gần đó để kêu cầu Chúa ngự trong Thánh Thể giúp đỡ. Angiêla xin cha xứ ở đây giải tội cho chị, nhưng chị đã không xưng hết tội nặng, lại liều mình chịu Mình Thánh Chúa.

Hành động này đã làm tâm hồn chị xao xuyến, lương tâm cắn rứt đêm ngày không yên. Nhưng chị không ngã lòng nản chí, chị tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho mình được gặp một linh mục giải tội khôn ngoan, thánh thiện để hoàn toàn tuân theo lời chỉ dẫn của ngài.

Sống trong tâm trạng lo âu, băn khoăn xao xuyến, nhưng chị vẫn tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ giúp chị vượt qua con đường gian nan này.

Rồi một đêm kia dưới ánh trăng dịu dàng, Angiêla nâng hồn lên khẩn cầu thánh Phanxicô Assisi giúp đỡ. Thánh nhân đã hiện ra với chị và nói:

– Nếu con xin cha sớm, thì cha đã cứu con, nhưng cha sẽ nài xin Chúa nhận lời con.

Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong giấc ngủ, Angiêla đã thức dậy thật sớm để đi lễ ở nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, và xin Chúa cho chị được gặp linh mục để xưng tội. Khi trở về, chị ghé vào nhà thờ thánh Fêlixianô để viếng Thánh Thể. Ở đây, Angiêla đã gặp một cha dòng Phanxicô và chị đã xưng hết các tội đã phạm. Sau bao ngày ưu tư lo lắng, lương tâm ray rứt, giờ đây chị đã tìm lại được sự bình an đích thực trong tâm hồn.

Sau khi xưng tội rước lễ, Angiêla quyết xâv dựng cuộc đời mới, cuộc đời suy niệm sự đau khổ của Chúa Giêsu, khấn giữ mình trong sạch và khó nghèo.

Chị đem quần áo tốt đẹp phân phát cho người nghèo. Và để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, chị còn muốn bán hết gia tài làm phúc cho người nghèo rồi đi ăn xin. Nhưng vâng lời cha linh hướng, chị không bán nhà cửa, mà chỉ sống đời trần thế, suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, và làm phúc cho người nghèo khó.

Năm 1291, Angiêla vào dòng ba Phan Sinh, chị sung sướng tuân giữ luật dòng, chị thường xuyên đi thăm viếng các bệnh nhân, phân phát những của đã xin được cho người nghèo, rửa tay chân cho họ, và đặc biệt lau chùi tay chân những người mắc bệnh phong cùi. Chị đã làm như thế suốt cuộc đời của chị.

Năm 1693, Đức Giáo Hoàng Innôxentê phong chị Angiêla lên bậc Chân Phước. Từ một người tội lỗi, Chân Phước Angiêla đã biết lấy tình yêu nồng nhiệt để bù lại những lỗi lầm quá khứ. Hành động đó là bài học muôn đời cho những con người tội lỗi biết ăn năn sám hối.[1] Amen.

6. Hãy thắp lên ánh sáng

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi." Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:

– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?

– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.

– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?

– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:

– Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.

Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.

7. Chuyện tử tế

Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …."

“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau." Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:

Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!"

Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:

– Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?

– Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.

Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy …

Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?

– Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.

8. Chúa ẩn mình

Khi mới thành lập tu viện, các tu sỹ được mọi người hết lòng kính trọng, yêu mến vì sự thánh thiện của các thầy. Phần các tu sỹ cầu nguyện và chữa mọi bệnh tật cho dân. Tu viện được Chúa chúc lành nên phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhiều năm sau, tinh thần các thầy sa sút, chểnh mảng những bổn phận của tu viện. Hậu quả, người ta không còn đến hành hương để xin các thầy cầu nguyện và chữa bệnh nữa, vì các thầy khấn không được, chữa bệnh không khỏi.

Năm đó một cha được bầu làm tu viện trưởng, ngài quyết tâm phục hồi tinh thần của đấng sáng lập tu viện. Ngài tìm đến một đạo sỹ để hỏi nguyên nhân tại sao tu viện sa sút như vậy. Vị đạo sỹ không giải thích mà nhắc: trong tu viện của cha có một người là Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy. Cha về tìm xem ai để hỏi, Ngài sẽ dạy cho cách phục hưng tu viện.

Trên đường về, vị tu viện trưởng nghĩ: chắc không phải là mình vì xét bản thân thấy yếu đuối nhiều hơn nhân đức. Ngài quyết định loan báo tin đó cho các thầy. Ai cũng tự thấy mình không phải là Chúa Giêsu, mà nghĩ người anh em bên cạnh mình mới là Chúa. Vì không biết chắc là ai, nên tốt hơn hết cứ kính trọng, yêu mến, phục vụ… để khỏi bất kính với Chúa Giêsu. Cứ như thế một thời gian tu viện lại nổi tiếng về sự thánh thiện. Các thầy lại cầu nguyện và chữa bệnh có hiệu lực như trước. Lúc bấy giờ họ mới vỡ lẽ: nhìn nhận Thiên Chúa nơi tha nhân là cách tốt nhất để thánh hóa bản thân và môi trường nơi mình sinh sống.

9. Chứng nhân

Chị Rơ Châm H’Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.”

Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ.

Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003).

Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô.

10. Sống cho tình yêu

Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự.

Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy!

Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa." Bà hưởng thọ 40 tuổi.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.

11. Nghề của tôi

Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:

– Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.

Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau:

– Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.

Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.

12. Chúa nhật hồng

“Anh chị em hãy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần!…."

Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc?

Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua. Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!" Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lý do để đau khổ, buồn sầu,… một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ.

Sau cùng thì họ cũng tìm một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mỉm cười ở giữa chợ và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo hạnh phúc của mình không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không?

Không nín được cười, người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: ” Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng Nhà Vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!" Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!

13. Người làm chứng

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.

Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.

Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: “Tôi không phải là Đức Kitô” – “Không phải” – “Không." Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.

Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.

14. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng

Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.

Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: “Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa."

Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: “Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước.”

15. Đơn giản là chứng nhân

Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:

– Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.

Người câu cá hèn hạ nói:

– Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.

Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:

– Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.

Nhà vua khen:

– Chú nói hay quá.

Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:

– Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.

Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.

Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.

16. Sứ giả tin mừng

Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.

Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.

Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.

Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.

Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.

17. Tìm Sai Chỗ

Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi." Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!”

Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.

Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm."

18. Hạnh phúc ở cái đuôi

Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh phúc!”

Mèo già trả lời: “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu!” (Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”)

19. Chết trong cô độc

Trong Thần thoại Hy Lạp có một chàng trai tên là Narcisse, con của thần sông và tiên nữ Liriopé. Chàng đẹp đến nỗi có quá nhiều nữ thần say mê van xin tình yêu nhưng chàng vẫn một mực lạnh lùng từ chối.

Trong số những kẻ thất tình có Echo. Đau khổ vì bị Narcisse từ chối, Echo cầu xin các vị thần và các nữ thần cùng yêu chàng tập hợp lại để trừng phạt chàng. Từ đó, Narcisse sẽ chỉ được phép yêu chính bản thân chàng.

Một lần, Narcisse nghỉ ngơi bên bờ suối, chợt nhìn thấy bóng mình dưới nước, chàng ngẩn ra ngắm mình và chợt hiểu vì sao biết bao con tim của các cô gái lại tan vỡ vì mình. Càng ngắm, chàng càng ngưỡng mộ và say đắm cái bóng của mình. Nhưng cứ đụng tay vào nước suối, cái bóng lại tan vỡ. Cuối cùng, chàng chết trong mòn mỏi, với một khối tương tư cái bóng của chính mình.

Yêu mình và đánh bóng chính mình là chúng ta đang tự cắt đứt liên hệ với tha nhân. Điều đó dẫn con người đến chết trong cô độc. Nhưng tiếc thay, con người qua mọi thời đại lại thích đáng bóng chính mình. Họ tự phô diễn mình, đề cao mình và điều đó khiến họ trở nên cô đơn giữa anh em, và đôi khi chết trong cô độc.

20. Tình nghĩa vợ chồng.

Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn còn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ. Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười nơi trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu đó như sau:

“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn. Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nhìn qua vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống, nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống."

Người vợ đã làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không còn thất vọng, không bi quan, không chán đời và còn muốn sống vì đã được tình thương của người vợ ấp ủ. Chính tình yêu của người vợ đối với chồng đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.

Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhà Thần học, linh mục Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động:”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô."

21. Kịch sĩ hài lại buồn

Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng vì tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha trò thì thế nào cũng phải bật cười.

Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lý nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lý.

Được nhà tâm lý hỏi nguyên do, ông trả lời:

– Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không?

Nhà tâm lý hỏi:

– Ông có quá túng thiếu về tiền bạc không?

Ông đáp:

– Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.

Nhà tâm lý hỏi tiếp:

– Thế vợ con ông ra sao?

Ông ta gật đầu nói:

– Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ thương.

Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lý đề nghị:

– Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và tìm lại được niềm vui.

– Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng… Tôi lại chính là kịch sĩ đó!

Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính mình lại là nạn nhân của sự buồn rầu. Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu vì kịch sĩ đó ngay trong tâm hồn không có nguồn vui thì làm sao mình cảm thấy vui được? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.

Chúa là nguồn vui, gần nguồn vui thì không thể buồn? Ta hãy bắt chước thánh nữ Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi:

Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót. (Têrêsa Hài đồng)

22. Đi Giảng Đạo

Ngày nọ, Thánh Phanxicô Assisi nói với thầy trong dòng:

– Nào chúng ta cùng đi giảng đạo.

Thế là hai cha con ra đi, đi hết đường này, sang đường kia, rồi quẹo, sang ngã khác về nhà. Khi về đến nhà, thầy dòng thắc mắc hỏi:

– Thưa Cha, con nghe Cha nói mình đi phố giảng đạo cơ mà?!….

– Chúng ta đã giảng đạo rồi đó. Khi chúng ta đi đường, mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghe về đời sống của ta, rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống của linh hồn họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi đó sao?

Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào kết quả cho bằng chính đời sống chứng tá của mình.

23. Tại vì anh hút thuốc

Greg Louganis là nhà vô địch thế vận hội về môn bơi lội. Anh đang chuẩn bị rời hồ bơi. Bỗng anh nghe thấy một chú bé ngậm điếu thuốc chạy về phía anh. Anh gọi nó và bảo:

– Em không nên hút thuốc. Tại sao em hút thuốc?

Đứa bé trả lời một cách hết sức tự nhiên:

– Tại vì anh hút thuốc, nên em bắt chước anh!…

Greg mới nhớ sực lại mình đang ngậm điếu thuốc trên môi.

Sự kiện đó tác động mạnh đến việc anh bỏ hút thuốc. Anh nói:

– Tôi có bổn phận phải làm gương tốt cho các em nhỏ.

Muốn làm sứ giả dọn đường cho Chúa đến cứu độ tôi và mọi người, tôi có bổn phận làm gương tốt như anh Greg trên đây không? Tôi có cần chửa bỏ tội lỗi và thói xấu để kẻ khác bắt chước không? Tôi có cần thực hiện điều lành việc tốt để làm gương không?

24. Ánh sáng muôn dân

Trong truyện cổ Phi Châu có câu chuyện sau đây:

Cụ già kia có 3 con trai. Nhờ cần cù làm việc, ông có được gia tài khá nhiều. nay ông thấy gần đất xa trời rồi, muốn để gia tài cho đứa con nào khôn ngoan, để nó gìn giữ và phát triển được.

Hôm nọ, ông gọi 3 người con đến tro cho mỗi người 5 đồng, bảo đi mua cái gì có thể làm đầy phòng khách nhà ông. Mọi người lãnh tiền ra đi.

– Ngày hôm sau, ba an hem đến bên giường cha già, đem theo vật đã mua. Người anh cả đem bó rơm trải lên chỉ đầy sàn nhà.Người anh kế mở túi lông gà chỉ đủ rải qua loa. Người cha nhìn hai đứa con lớn tỏ vẻ buồn, rồi ông quay sang hỏi đứa con út:

– Còn con, con mua gì đâu?

Cậu rút ra cây nến và bao diêm. Cậu bật diêm lên, đốt cây nến và ánh sáng tỏa khắp phòng. Người cha thấy thế hài lòng sung sướng, chia phần gia tài nhiều nhứt cho cậu.

Chúa Giêsu đã đem ánh sáng đến cho muôn dân, và ở giữa mọi người, mà con người không nhìn thấy Ánh Sáng cứu rỗi của Người. Người là Ánh Sáng chân lý, Ánh Sáng hy vọng, Ánh Sáng ban sự sống…. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đón nhận Ánh Sáng của người, và thắp lên tia sáng tình thương cho những người sống xung quanh chúng ta.

25. Thiên Chúa thích ẩn mình

Ngày kia, người cha thấy đứa con gái nhỏ khóc nức nở về nhà. Ôm con vào lòng, người cha hỏi:

- Sao con khóc, có ai bắt nạt con không?

Cô bé nấc trong vòng tay cha hồi lâu, dịu lòng đôi chút, nó nói giữa tiếng nấc nghẹn:

- Tụi nó bỏ con!

- Ai bỏ con, sao tụi nó lại bỏ con?” Người cha hỏi.

- Các bạn rủ con chơi trốn tìm rồi các bạn bỏ con đi đâu mất tiêu!

Thì ra cô bé trốn kỹ quá các bạn không thể tìm thấy. Cuộc chơi đã kết thúc từ lâu mà cô bé không biết. Khi ra khỏi chỗ trốn thì chẳng còn bạn nào, bé tủi buồn khóc nức nở.

Lời của thánh Gioan: “… có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” (Ga 1, 26b) cho chúng ta nghĩ về một Thiên Chúa ẩn mình. Con người không nhận ra Thiên Chúa có thể vì Thiên Chúa ẩn mình quá kỹ hoặc có thể vì nhiều vật cản che khuất tầm nhìn giới hạn của con người.

Ngài ẩn mặt vì Ngài tôn trọng tự do của con người.

26. Thiên Chúa trong một con người

Thánh Gioan Maria Vianney được sai đi làm cha sở xứ Ars, một nơi nổi tiếng hai điều: một là nhà nhà khô khan việc đạo, hai là người người đều biết khiêu vũ! Ngày cha sở về chẳng ai thèm đón. Phương tiện về nhận xứ là một chiếc xe bò chở vài chiếc vali áo lễ, đồ lễ, sách vở và ít vật dụng cá nhân. Tới một ngã ba, phân vân không biết đi đường nào, cha Gioan gọi một em bé lại và hỏi: “Con làm ơn cho cha hỏi: Nhà thờ xứ Ars đi lối nào?” Em bé ngạc nhiên trố mắt nhìn. Cha nói tiếp: “Con chỉ cho cha đường đến nhà thờ rồi cha sẽ chỉ cho con đường lên thiên đàng!” Quả thế, cha Gioan Maria Vianney đã tận tụy 40 năm tại xứ Ars để chỉ cho biết bao người biết con đường về với Chúa bằng đời sống khổ hạnh, cầu nguyện, giải tội, khuyên bảo không ngơi nghỉ. Ngài đã trở nên bảng chỉ đường cho mọi người đến được với Đức Kitô.

Mọi kitô hữu cũng phải trở nên bảng chỉ đường về Đức Kitô bằng đời sống cầu nguyện và bác ái mẫu mực. Ước mong người ta thấy được Chúa nơi người kitô hữu như cụ già nhân chứng nơi tòa án phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney đã nói: “Tôi đã thấy Thiên Chúa nơi một con người.”

Thiên Chúa ẩn mình đang đợi chúng ta phát hiện và chỉ cho anh em, đó là sứ mạng của mỗi kitô hữu.

27. Điều chi đang điều khiển đời tôi

Chuyện cũ mà chẳng bao giờ cũ: Một bài viết trên tuoitreonline ngày 05/12/2011 tường thuật với một chút than phiền về chất lượng Bộ sách giáo khoa của chúng ta – “bộ sách chuẩn duy nhất được sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thế nhưng, bộ sách lại khiến giáo viên bức xúc vì còn quá nhiều lỗi, trong đó có những lỗi do cẩu thả, thậm chí... ngớ ngẩn.”

Đành rằng nhân bất thập toàn, nhưng có những cái sai không thể châm chước được khi để lại hậu quả nghiêm trọng. Có lần hãng Toyota Việt Nam phát hành thông báo thu hồi xe trên trang web của công ty vì lỗi liên quan đến tay lái trợ lực, để kiểm tra thay thế puly trục khuỷu cho xe Toyota Camry 3.0.

Có một điểm chung giữa sai lỗi của tay lái xe và sai lỗi trong sách giáo khoa, là chúng đưa người ta đến chỗ chẳng ai muốn đến, là sai một ly đi một dặm.

Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để mỗi người chúng ta xem lại tay lái xe của mình, xem lại điều gì đang điều khiển cuộc sống mình.

28. Tôi đang có Đức Giêsu Kitô

Năm 1980, vào một ngày Chúa Nhật nóng bức, người ta thấy Cordell Brown, một người bị bệnh tê liệt não bộ, bước vào Philadelphia Phillies - câu lạc bộ quán quân thế giới. Anh đến để nói chuyện với những nhà quán quân; nói chuyện về hạnh phúc.

Không biết anh ta có chuyện gì để nói về hạnh phúc với những người đang thành công, với những ngôi sao màn bạc được nhiều người mơ ước. Thế nhưng câu chuyện của anh đã thu hút được sự chú ý của nhiều người thành đạt.

Một câu nói của anh được mọi người chú ý: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Đức Giêsu Kitô."

29. Chúa đã đến

Tác giả David Paul Eich trong cuốn sách “Hành Trình Đến Cùng Thiên Chúa Của Người Bạn Trẻ” đã kể câu chuyện sau:

Một doanh nhân trẻ đang lái chiếc xe hơi hiệu Jaguar bóng loáng trên đường, thì bỗng đâu một cục đá bay thẳng vào cánh cửa xe. Giật mình, anh ta dừng xe để xem kẻ nào cả gan ném cục đá vào chiếc xe đắt tiền của anh ta. Xuống xe, anh ta ngạc nhiên nhìn thấy một thằng bé đang đứng khóc. Nó mếu máo nói: “Cháu xin lỗi, cháu không còn cách nào khác, cháu phải ném đá vì không có ai chịu dừng lại để giúp anh cháu.” Nói rồi, nó chỉ tay xuống một cái mương rất sâu bên đường. Nhà doanh nhân nhìn thấy một thanh niên tàn tật bị rơi xuống mương bên cạnh chiếc xe lăn lật úp. Thì ra, người anh tật nguyền của đứa bé bị té xuống mương, vì không đỡ lên nổi, gọi xe thì không ai dừng lại, nó đành phải ném vào xe thì xe mới dừng lại.

Nhà doanh nhân cảm động, giúp mang người thanh niên tàn tật lên khỏi mương, băng bó vết thương và đặt vào chiếc xe lăn cho đứa trẻ đẩy về.

Anh ta không bao giờ sửa lại chỗ móp trên cánh cửa xe. Anh ta muốn giữ lại dấu vết ấy để từ nay, anh không còn sống quá vội vã đến nỗi để người khác phải ném một cục đá, anh mới dừng lại để giúp đỡ.

Chúa đã đến, Ngài mang khuôn mặt và dáng vóc của những người anh chị em khốn cùng. Đôi khi vì cuộc sống quá vội vàng, chúng ta đã không dừng lại để gặp gỡ và đón tiếp Ngài.

30. Tôi chờ đợi điều gì?

Victo Frankl là một bác sĩ tâm thần người Do thái đã bị Đức Quốc Xã bắt và đưa đến trại tập trung. Trong cuốn sách “Tìm kiếm ý nghĩa của đời người”, ông mô tả những đau khổ người Do thái phải chịu trong trại tập trung. Trong những đau khổ đó, có nỗi đau khổ vì chờ đợi: chờ để biết số phận của người thân yêu và của chính mình, chờ để được giải thoát. Nỗi đau khổ vì chờ đợi cũng quấy rầy những người Do thái vào thời Chúa Giêsu: chờ được giải thoát khỏi người La mã, chờ Đấng Mêsia tới. Nỗi đau này tác động đến người Do thái theo những cách khác nhau: một số người thất vọng, một số mất đức tin, còn những người khác chỉ quan sát và cầu nguyện.

Tôi đang chờ đợi điều gì trong đời? Nó tác động đến tôi ra sao?

“Can đảm lên, đừng sợ.” Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em. (Is 35,4)

31. Ông có phải là Chúa Giêsu không?

một nhóm thương gia dự một buổi họp. Vì cuộc họp kéo dài bất thường, nên vừa tan họp, mọi người hối hả chạy ra xe buýt để về nhà. Một người vì vội vã đã đụng phải quầy bán táo của một cậu bé. Những trái táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu bé. Mọi người đều lên được xe buýt và thở phào nhẹ nhõm.

Ít phút sau, một người trong nhóm cảm thấy áy náy trong lòng, liền xuống xe trở lại chỗ cậu bé bán táo. Ông thấy cậu đang vất vả lần mò tìm từng trái táo để lượm lại. Nhìn kỹ, ông mới giật mình: thì ra cậu bé bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu bé lượm lại từng trái táo. Một số trái táo bị giập, ông dúi vào tay cậu bé một món tiền rồi bỏ đi. Cậu bé hỏi với theo: “Ông ơi, ông có phải là Chúa Giêsu không?” Nhưng người đàn ông đã lẩn vào đám đông trên hè phố.

Trong đôi mắt mù lòa của cậu bé, người đàn ông tốt bụng với những việc làm tử tế kia mang hình ảnh của Chúa Giêsu.

Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng nêu lên một câu hỏi tương tự như thế. Khi thánh Gioan Tẩy Giả đang bị giam trong tù, nghe nói về những việc làm tốt đẹp của Chúa Giêsu, liền sai các môn đệ đến hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”

“Đấng phải đến” là Đấng hoàn toàn khác.

Lẽ tất nhiên, thánh Gioan Tẩy Giả đã biết rõ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế, Đấng phải đến rồi. Tuy nhiên, có lẽ thánh Gioan muốn Chúa Giêsu xác nhận mình là Đấng Cứu Thế và mọi người phải tự mình khám phá điều đó.

CNMV 3C - TÔI PHẢI LÀM GÌ?

Lời Chúa: Lc 3, 10-18

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy.”

Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.”

Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình.”

Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?"

Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!"

Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.

Đó là Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. Cho Chúa một cơ hội

Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Ðức Kitô.

– Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào?

– Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói.

– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?

– Tôi không biết!

– Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Ðức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi.

Thế mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở.

Những điều này không ai khác hơn, chính là đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả những gì tôi biết về Người.

2. Cuộc chạy đường trường

Cuốn nhật ký Pole to Pole – One Man, 20 Million Steps (Từ cực Bắc tới cực Nam – Một người, 20 triệu bước chân), của tác giả Pat Farmer chỉ vừa xuất bản vài tháng, đã in tới lần thứ 10, vì sự chân thật và sức hấp dẫn của nó.

Ông Pat Farmer đã từ bỏ con đường chính trị đang thênh thang, bán ngôi nhà cùng chiếc xe duy nhất để lấy vốn làm lộ phí. Bởi lúc đó, chẳng ai tin ông có thể chạy bộ từ Bắc cực đến Nam cực, với 21 ngàn cây số, trong vòng 10 tháng, 13 ngày, cùng vô số gian lao do thời tiết, con người và dã thú.

Ông đã chạy một cự ly bình quân không thể tin nổi: 65 km mỗi ngày, có một số ngày chạy tới 100 km hoặc hơn.

“Vì sao tôi chạy? Tôi chạy vì tôi cần cống hiến cho nhân loại.Tôi chạy từ cực này tới cực kia của tôi không phải vì mục đích trở thành một kẻ tử vì đạo hay một anh hùng. Cha mẹ tôi và người vợ quá cố của tôi là một tấm gương sáng cho tôi; họ luôn giúp đỡ người khác. Có lẽ tôi làm điều này xuất phát từ cảm giác tội lỗi, vì đang sống một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi, trong một đất nước nhiều đặc quyền đặc lợi, hay vì những tội lỗi mà tôi đã phạm” Pat Farmer viết.

Rất nhiều lần trong hành trình, Pat Farmer đã muốn ngã quỵ, muốn dừng lại, nhưng rồi ông đã tự chiến thắng bản thân để vượt qua mọi hoàn cảnh. Ông đã giúp các Hội Chữ Thập Đỏ Úc quyên góp là rất đáng kể. Sau cuộc chạy, đã có vô số cư dân nghèo, đặc biệt trẻ em được cứu sống hoặc giúp thoát khỏi bệnh dịch nhờ hệ thống nước sạch.

Từ ngày 9-12/2012 đến 20/1/2013, với cùng mục đích cao quý như trên, ông Pat Farmer và chàng thanh niên Việt Nam 25 tuổi, Mai Nguyễn Đình Huy, cùng đồng hành, thực hiện hành trình siêu ma-ra-tông từ Móng Cái đến mũi Cà Mau, hơn 3 200 Km trong 40 ngày liên tục, mỗi ngày chạy khoảng 80 km. (theo Hiền Hòa, Tiền Phong)

Như thế, ông Pat Farmer và Mai Nguyễn Đình Huy đang chạy để phục vụ tha nhân, dường như cũng đang hưởng ứng lời kêu gọi trong hoang địa.

3. Bí quyết hạnh phúc

Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn. Nhưng làm thế nào để có thể vui luôn? Câu chuyện sau đây có thể cho ta câu trả lời.

Một người chăn cừu sai đứa con trai của mình đến hỏi một nhà hiền triết về bí quyết của hạnh phúc. Nhà hiền triết đưa cho chàng trai một chiếc muỗng đựng đầy dầu và bảo: “Hãy cầm chiếc muỗng đi vòng quanh tòa lâu đài này và cố làm sao đừng cho một giọt dầu nào bị đổ.”

Chàng trai nghe lời, đi vòng quanh tòa lâu đài, đôi mắt chẳng dám nhìn bất cứ thứ gì khác mà chỉ dán chặt vào chiếc muỗng. Khi chàng trở lại, nhà hiền triết hỏi “Có thấy gì không?” Chàng trai đáp “Dạ chẳng thấy gì cả.” Nhà hiền triết lại bảo “Bây giờ hãy đi một vòng nữa và hãy mở mắt quan sát tòa lâu đài.” Chàng trai lại cầm chiếc muỗng đi một vòng. Lần này chàng chăm chú ngắm nhìn từng chi tiết của tòa lâu đài: những gian phòng rất đẹp, những món trang trí rất mỹ thuật, khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, những vòi nước rất ngoạn mục… Khi trở lại, chàng kể hết cho nhà hiền triết nghe. Ông hỏi: “Thế những giọt dầu ta giao cho ngươi thì sao?” Chàng nhìn xuống chiếc muỗng. Ôi thôi, dầu đã đổ hết chẳng còn giọt nào.

Bấy giờ nhà hiền triết nói: “Ta chỉ có một lời khuyên nhỏ cho ngươi: bí quyết của hạnh phúc là khả năng vừa ngắm được mọi vẻ đẹp của tòa lâu đài, vừa không làm đổ mất một giọt dầu nào trong muỗng.” Chàng trai trẻ chợt hiểu: người chăn cừu có thể du ngoạn để ngắm nhìn những vẻ đẹp khắp nơi, nhưng không bao giờ được quên đàn cừu của mình. Bí quyết hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ được giao cho mình, vừa vui hưởng cuộc sống.

4. Sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả

Ngày xưa có một người thắp đèn thường được người ta gọi là Ông T. Ông làm nhiệm vụ thắp đèn hết sức chu đáo và đúng giờ. Mỗi tối khi màn đêm vừa buông xuống thì lập tức ngọn đèn của ông cũng sáng lên. Không ai biết ông làm thế nào để canh đúng giờ mà thắp đèn, bởi vì ông không có đồng hồ. Cuộc sống của ông cũng chẳng khá giả gì, nhưng ông yêu nghề của mình. Mọi người đều thương mến ông, nhất là trẻ con: khi trời tối khiến chúng không chơi đùa được nữa, thì ông đến, mang lại ánh sáng và chúng có thể tiếp tục chơi.

Công việc của Ông T. thật có ý nghĩa. Nhưng điều khiến ông vĩ đại là ông bị mù! Ông mang ánh sáng cho mọi người trong khi bản thân ông thì không nhìn thấy ánh sáng!

Cuối cùng thì điện đã đến với thị trấn này. Dân chúng trước đây quý mến ông thì bây giờ không còn nhớ gì đến ông nữa. Ánh điện sáng hơn ánh đèn nên chẳng ai màng tiếc nuối quá khứ làm chi nữa.

Ông T. nhắc chúng ta nhớ tới thánh Gioan Tẩy giả. Cũng như Ông T. thánh Gioan đã cần mẫn mang ánh sáng đến cho mọi người. Trong một thời gian, Ngài là sự ngưỡng mộ và quý mến của mọi người. Nhưng Ngài luôn ý thức mình chỉ là kẻ dọn đường, một ánh sáng lớn hơn sẽ đến, và Ngài sẽ không được đi trong ánh sáng tuyệt vời ấy. Và khi ánh sáng tuyệt với ấy là Chúa Giêsu đến, Ngài lùi lại phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là vĩ đại.

5. Đạo thực hành

Có một câu chuyện về một người thợ giày tên là Martin. Ông sống và làm việc ở tầng hầm. Tầng hầm này chỉ có mỗi một cửa sổ, cho nên ông chỉ nhìn thấy những bàn chân của những người qua lại. Chỉ cần thấy đôi giầy của người đi qua là ông biết người ấy là ai.

Ðời ông rất vất vả. Vợ ông đã chết, để lại một đứa con trai. Tuy nhiên khi thằng con vừa đủ lớn để có thể giúp ông thì nó cũng lâm bệnh và chết. Ông Martin rơi vào tuyệt vọng. Chôn cất thằng con xong, ông bỏ đạo và rơi vào thói rượu chè.

Một ngày kia, một người bạn già đến thăm ông. Ông trút hết bầu tâm sự. Người bạn khuyên ông nên đọc Tin Mừng, mỗi ngày một đoạn. Và bảo đảm rằng nhờ đó ông sẽ tìm lại được ánh sáng và niềm vui cho cuộc sống.

Ông Martin làm theo lời bạn. Mỗi ngày làm việc xong tới chiều là ông cầm sách Tin Mừng đọc một đoạn. Ban đầu ông chỉ đọc những đoạn Tin Mừng Chúa nhật. Nhưng sau đó thấy hấp dẫn nên ông đọc luôn những ngày trong tuần. Dần dà đời ông thay đổi, niềm vui đã trở lại với đời ông.

Một đêm, khi ông đang đọc Tin Mừng thì ông nghe có tiếng nói với mình “Martin, ngày mai hãy nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ đến thăm ông.” Vì khi đó chẳng có ai cả nên ông Martin tin rằng đó là tiếng Chúa nói với ông. Bởi đó sáng hôm sau, lòng ông rất phấn khởi. Ông vừa làm vừa nhìn qua cửa sổ. Ông chăm chú để ý mọi đôi giày đi qua đi lại để chờ xem Chúa có đến thăm ông không. Nhưng chẳng có một đôi giày nào lạ cả.

Ðến xế chiều thì ông thấy một đôi giày rất quen, đó là giày của một người lính già tên là Stephen. Mở cửa ra, Ông Martin thấy Stephen đang đứng chắn ngay cửa, hai tay khoanh chặt trước ngực vì trời đang rất lạnh. Ông Martin rất muốn hắn ta đi chỗ khác cho rồi kẻo cứ chắn cửa sổ khiến ông không thấy được Chúa nếu Ngài đi ngang qua. Tuy nhiên Stephen cứ đứng đấy mà run. Cuối cùng Ông Martin nghĩ rằng chắc là hắn đói nên mời hắn vào ngồi cạnh lò sưởi, đưa cho hắn một ly trà và một mẫu bánh mì. Một lát sau Stephan cáo từ. Ông Martin còn đưa thêm cho hắn một chiếc áo khoác để đỡ lạnh. Suốt khoảng thời gian tiếp Stephen, Ông Martin không quên để ý nhìn về cửa sổ. Mỗi lần có một bóng người đi qua là ông chăm chú nhìn. Nhưng chẳng có gì đặc biệt.

Ðêm xuống. Ông Martin thu dọn đồ nghề và miễn cưỡng đóng cánh cửa sổ. Ăn buổi tối xong, ông cầm quyển Tin Mừng và tình cở mở ngay đoạn này: “Bấy giờ dân chúng đến hỏi Gioan ‘Chúng tôi phải làm gì?’ Gioan đáp ‘Ai có hai áo hãy chia cho người không có. Ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy.” Ông Martin bỏ sách xuống và suy nghĩ, rồi ông chợt hiểu rằng quả thực hôm nay Chúa đã đến thăm ông qua anh chàng Stephen ấy. May mà ông đã đón tiếp tử tế. Thế là Ông Martin cảm thấy lòng tràn ngập vui mừng, một niềm vui mà từ trước tới nay ông chưa từng cảm nghiệm.

Ông Martin đã đón rước Chúa vào đời mình bằng việc đọc Tin Mừng. Và bước thứ hai đến một cách tự nhiên: ông đã đón rước Chúa qua việc đón rước người anh em đói khổ.

6. Ông nhà giàu và người thợ giày

Có một người thợ giày suốt ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng xúm quanh nghe ông hát.

Ðối diện nhà anh là một ông nhà giàu suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới đi ngủ nhưng cũng không ngủ được vì tiếng hát của anh thợ giày. Một hôm ông nghĩ ra một cách buộc người thợ giày im tiếng hát.

Ông mời người thợ giày sang nhà ông và tặng anh một túi đầy những đồng tiền vàng. Anh thợ giày trở về nhà ngồi đếm tiền cả ngày. Ðám trẻ con nhìn anh, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi và đóng cửa lại. Ban đêm anh cứ nhớ tới túi tiền nên không ngủ được, anh ngồi dậy đem túi tiền giấu ở một nơi kín đáo. Sau đó anh nghĩ rằng nơi đó cũng chưa đủ an toàn nên lại ngồi dậy đem giấu nơi khác. Ban ngày lòng anh cũng canh cánh lo sợ. Thế là anh không còn hát ca gì nữa, cũng không đóng được đôi giày nào nữa. Tệ hại nhất là trẻ con không còn tới chơi với anh. Một thời gian sau anh chịu không nỗi nửa, đem túi vàng trả lại ông nhà giàu. Thế là từ đó trở đi anh lại vui vẻ, hát ca và trẻ con trở lại chơi với anh. (Willi Hoffsemmer).

7. Tiếng cười – tặng phẩm

Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thỏa chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói:

– Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.

Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.

Ðâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui? Vì một đàng là biểu hiện của sức khỏe tâm linh, một đàng là của sức khỏe thể xác.

8. Anh là người có tội.

Cách đây ít lâu, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề “Whatever became of sins” (điều gì đang xẩy đến cho tội lỗi). Ôâng bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Vào một ngày chúa nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảùng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng cánh tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên: ”Anh là kẻ có tội”! Đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác rồi la lên: ”Anh là kẻ có tội”!

Bác sĩ Menninger nói: ”Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ.” Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp (M. Link).

9. Chọn lựa cho đời mình

Trong cuốn sách tựa đề Something More (Một cái gì hơn thế nữa) của bà Catherine Marshall, người ta tìm thấy một minh hoạ sống động về những khuyến dụ của Gioan Tẩy giả.

Một hôm, cô Linda, con gái bà chuẩn bị đi tắm. Ngay khi vừa đặt một chân xuống bồn ngay dưới vòi tắm, còn chân kia vẫn còn trên chiếc thảm ngoài bồn tắm, cô bỗng liên tưởng đến hình ảnh cuộc đời mình. Cô thường muốn hiến dâng đời mình cho Chúa, nhưng chẳng bao giờ hoàn tất được ước nguyện đó, vì cô luôn sống tình trạng chân trong chân ngoài như thế này. Giờ đây có lẽ đã đến lúc cô phải quyết định dứt khoát hoặc theo Chúa hoặc không theo Ngài, cô nghĩ đến cái giá phải trả khi chọn con đường theo Chúa. Giá ấy chẳng phải rẻ, nhưng cô đã quá mệt mỏi vì tình trạng lập lờ hai phía, để rồi chả phía nào đem lại cho bình an thoải mái.

Thế rồi cô đứng im suy nghĩ một hồi lâu, đoạn hít một hơi sâu vào lồng ngực, và nói to lên: “Lạy Chúa, con xin chọn Ngài.” Nói xong, cô bước hẳn hai chân vào bồn tắm. Hành vi này đối với cô giống như một phép rửa đích thực. Đây chính là sự biến đổi tâm hồn mà Gioan tẩy giả đề nghị dân Do Thái thực hiện.

Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời cầu nguyện được một Kitô hữu tên là Origen viết ra cách đây 1600 năm; “Lạy Chúa Giêsu, đôi chân con dơ bẩn…. xin hãy đổ nước vào thau và rửa cho con, con biết rằng con quá bạo gan khi cầu xin Chúa điều này, nhưng vì con sợ bị Chúa quở trách: Nếu Ta không rửa chân con thì con chẳng phải là bằng hữu cuả Ta. Vậy xin Chúa hãy rửa chân con vì con ao ước được làm bằng hữu của Ngài.”

10. Vẫn luôn hy vọng chờ đợi

Victor Frankl là một bác sĩ tâm thần người Do thái. Ông đã bị Đức Quốc Xã bắt nhốt trong trại tập trụng. Ông có viết cuốn “Tìm ý nghĩa đời người.” Trong đó ông mô tả những đau khổ đồng bào ông phải chịu trong trại tập trụng. Trong những đau khổ đó, nỗi đau khổ chờ đợi là chua xót nhất: chờ để biết số phận của người thân và của chính mình, chờ để được giải thoát!…

Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng đau khổ chờ đợi Đấng Mesia đến giải thoát khỏi nô lệ đế quốc Lamã. Nỗi đau khổ chờ đợi này tác động mạnh trên tâm hồn họ theo nhiều cách khác nhau: một số thất vọng buồn rầu chán nản, số khác mất niềm tin, còn lại nhóm người vẫn hy vọng chờ đợi với lời cầu khẩn, van xin, thỉnh nguyên…

Thực sự Chúa đã đến ở giữa họ, mà họ không nhìn nhận, không tiếp rước, vì Người không làm theo ý ho. Họ chỉ nghĩ đến lợi vật chât. Chúa đến đem niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn Chúa đến đem tình thuơng cứu rỗi đến cho loài người, dạy con người sống bác ái, công bình với nhau để được “thu vào kho lẫm” là được sống hạnh phúc muôn đời. (Theo “Vision 2000”)

11. Được áp dụng vào cuộc sống

Trong sách của Do thái giáo có kể câu chuyện của một nhà chế biến xà bông với một giáo sĩ. Một hôm nhà chế biến xà bông đến gặp giáo sĩ và nói: “Tôi đã hiểu đạo Do thái Ngài đã nói với chúng tôi: mục đích của tôn giáo là đem lại hòa bình, công bằng, bác ái cho thế giới. Nhưng tôi thấy những người theo tôn giáo có thực hiện điều nào đâu!…

Vị giáo sĩ bình thản mời anh đi dạo trong công viên Họ đi ngang một đám trẻ đang chơi lấm lem. Giáo sĩ nói: Quan sát các trẻ này, anh kết luận xà bông không có hiệu quả gì. Anh phản đối: xà bông bao giờ cũng hiệu quả khi nó được sử dụng. Vị giáo sĩ đáp lại: Tôn giáo cũng thế Nó cũng chỉ có giá trị khi những lời giáo huấn và những điều luật được áp dụng vào cuộc sống. (Theo “Minh họa Lời Chúa).

12. Nhìn thấy Chúa…

Ở quần đảo nọ, có hai nông phu luôn kình địch cải vã nhau, cương quyết không đội trời chung. Đời sống hai người ngày càng bất hạnh, kéo theo cả hai gia đình thù hằn xô xát nhau, làm cho bầu khí trong vùng ngày càng thêm nặng nề khó sống…

Các trưởng lão trong vùng thấy vậy, cố sức giải hòa hai người. Các ông đề nghị một anh nên đi gặp Chúa. Anh sẵn sàng, nhưng hỏi lại:

– Gặp Chúa ở đâu?

Các trưởng lão dẫn anh đến nhà người anh thù ghét, giải thích cho anh hiểu kẻ mà anh thù hận là Chúa đó, vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa, là anh em với nhau vì là con một Cha trên trời.

Nghe các trưởng lão giải bày chí tình chí lý, hai người ôm nhau hòa lên khóc nức nở, vì nhớ lại từ trước đến giờ mưu mô hại nhau và thù ghét đến Chúa nữa!…

13. Sống bác ái công bình

Dưới thời vua Cảnh Công nước Tề, có lần bão tuyết 3 ngày liên tiếp. Vua Cảnh Công ngồi trong cung điện, mặc áo lông áo kép. Án Tử vào hầu, Cảnh Công bảo:

– Lạ thay, mưa tuyết 3 ngày rồi mà trời không rét nhỉ.

Ảnh Tử hỏi lại:

– Ngài không rét ư?

Cảnh Công cười. Án Tử nói tiếp:

– Án Tử này vẫn thuờng nghe nói các bậc vua hiền:

Lúc no biết người khác đói.

Lúc ấm biết người khác rét.

Lúc nhàn hạ biết người khác vất vả.

Nay vua lại không biết thế.

Cảnh Công đáp:

– Án Tử nói có lý. Cảnh Công này có lỗi. Xin nghe lời.

Nghe lời cảnh cáo, vua Cảnh Công biết sửa mình, từ bỏ thói ích kỷ bất công, trở lại sống công bình bác ái. Rồi vua cho điều tra ai đói rét để phân phát cơm gạo quần áo.  

Mùa Vọng, Thánh Gioan Tiền hô cũng mời gọi mọi người sống bác ái công bình để đón nhận Chúa Cứu Thế.

14. Hãy canh tân cuộc sống của mình.

Linh mục Antony de Mello Dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi còn trẻ, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này.”

Nhưng rồi khi tôi sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi.”

Nhưng giờ đây đến lúc già, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi chỉ còn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con.” Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình.”

15. Bác ái và bổn phận

Tác giả Ôn Như Nguyễn Ngọc có kể câu chuyện như sau: Gia đình buôn bán nọ chế ra một cái cân để lừa đảo khách. Cái cân vừa nhẹ vừa nặng và bao giờ phần lợi cũng về phía ông ta. Vì buôn bán vậy nên chẳng bao lâu ông đã trở nên giàu có. Lại sinh được hai người con trai hiền lành, học giỏi khôi ngô tuấn tú, ai cũng khen là nhà có đại hồng phúc.

Một hôm, hai vợ chồng bàn nhau: bây giờ hai vợ chồng ta đã dư giả, giàu có không còn thiếu thứ gì ta hãy phá bỏ cái cân kia đi để dành cái đức lại cho con. Sau khi đem cái cân ra đập. Khi bể ra thì thấy có đọng một cục máu đỏ hỏn. Sau đó ít lâu thì hai đứa con bất tử lăn đùng ra chết, làm cho hai vợ chồng khóc lóc thảm thiết. Được Bụt hiện ra dạy “Hãy tu tĩnh làm ăn không tham lam gian lận.” Từ đó hai vợ chống cố gắng làm ăn không gian lận, làm phúc bố thí. Quả nhiên sau một thời gian sinh được hai đứa con trai khác hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, và sau lớn lên cha mẹ được vẻ vang hạnh phúc.

16. Hãy vui lên.

Alqua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay.

Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng ông đã nói về Chúa Giêsu như sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lý tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Ngài là người Do Thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do Thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được.

“Đó là món quà của “tình yêu thương”; tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng.”

17. Đau khổ.

Giáng sinh năm ấy, cha Lini đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng để cử hành thánh lễ trong một bầu khí trang trọng, thì bỗng mọi người trong nhà thờ đều xôn xao. Ngẩng đầu lên, cha nhìn thấy một người phong cùi, mặt mũi xần xùi. Hai cánh tay bị cụt. Vết thương ở chân tuôn máu làm thành một vệt dài trên nền gạch bông. Toàn thân bốc ra mùi hôi thối.

Tất cả đều kinh hoàng. Còn cha thì bối rối. Một đàng không thể bắt đầu thánh lễ khi người phong cùi còn đứng đó. Đàng khác, cha cũng không thể đuổi anh ta, bởi lẽ nhà thờ là nhà của Chúa, cha chung của mọi người, không trừ một ai. Càng là bất hạnh thì lại càng đáng được ở lại để đón mừng Chúa giáng sinh.

Người phong cùi dừng lại trước bàn thờ với thái độ van xin. Thế rồi cha nói với anh:

– Bạn hãy ở lại với chúng tôi và chúng ta sẽ làm thành một gia đình duy nhất. Các vết lở loét nơi tâm hồn còn thối tha hơn những vết lở lóet nơi thân xác gấp bội. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và dưới một góc cạnh nào đó, tất cả chúng ta đều là những người phong cùi về đời sống thiêng liêng trước mặt Chúa.

Sự việc này đã đánh động cha để rồi sau lễ giáng sinh năm ấy, cha đã dồn mọi nỗ lực để chăm sóc cho những người đáng thương này.

18. Thiên đàng là thế đó

Người Nhật thường kể cho nhau nghe câu chuyện về một hiệp sĩ Samurai hung bạo, cộc cằn không ai bằng. Một hôm chàng ta đến gặp một vị thiền sư và nói:

– Xin hãy chỉ cho tôi biết thiên đàng là gì và hoả ngục là gì?

Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ đầu đến chân rồi thất vọng trả lời:

– Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng và thế nào là hoả ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Vì ngươi là một kẻ hung bạo, thô lỗ. Ngươi là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta. Ta không chịu được ngươi nữa.

Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ nổi nóng, liền rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị này giơ tay ngăn lại và nói:

– Hỏa ngục là thế đó!

Chợt nhận ra đây là bài học thực tiễn của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ vội dừng tay. Sự hối hận bỗng đâu dâng tràn tâm hồn, chàng ta hiểu rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống để dạy cho mình bài học về hoả ngục. Thế rồi chàng từ từ hạ gươm xuống, cho vào bao, đoạn đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả sự thành tâm sám hối. Vừa nâng chàng dậy, vị thiền sư vừa nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói:

– Thiên đàng là thế đó!

19. Tiền dùng trong Nước Trời

Một người giầu có luôn luôn nghĩ về cách làm thế nào giữ của cải của mình kể cả khi sắp chết. Ông muốn khi chết cũng phải mang tiền đi theo để có thể mua sắm những thứ cần dùng cho đời sống. Lúc nằm trên giường bệnh và biết ngày giờ sống của mình sắp hết hạn, ông cố gượng lần mò chiếc chìa khóa hòm đựng tiền buộc dính liền với sợi dây chuyền nơi cổ. Ông gọi người đầy tớ tín cẩn đến bảo mở hòm tiền ra và lấy vòng vàng chôn cùng với ông trong quan tài.

Sau khi qua đời, ông được gọi lên trời. Đi qua tầng trời ông nhìn thấy một bàn dài có bày bán nhiều thứ hàng. Ông hỏi ngay: Thứ bánh này giá bao nhiêu? Người bán trả lời: Một đồng thôi! Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu? Dạ giá cũng như vậy! Còn hộp sữa giá bao nhiêu? Dạ cũng một đồng thôi!

Như vậy quá rẻ. Được, tôi mua hết cả mâm đựng những thứ này! Ông ta lần túi tiền mang theo, móc ra những đồng tiền vàng tính trả cho người bán.

Người bán hàng lắc đầu nói ngay: Này Ông, như thế không đủ đâu. Ông đã được sống hơn năm mươi nhăm năm trên đời, nhưng ông đã không học biết đủ!!!

Ông ta liền sừng sộ đối lại: Như thế nghĩa là gì? Bộ những thỏi vàng này không đủ để trả cho bằng ngần ấy thứ sao?

Người bán hàng bình tĩnh cắt nghĩa tiếp: Chúng tôi chỉ nhận những loại tiền đã trao tặng giúp đỡ người khác thôi. Đó là lòng bác ái thương người!”

20. Dâng Chúa sự yếu đuối

Khi Chúa giáng sinh, muôn loài đều tới mừng Chúa. Mỗi loài đều dâng cho Chúa chút quà. Chị bò cái dâng sữa, cậu khỉ biếu Chúa mấy trái cây nhỏ, chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa hài đồng vui vẻ nhận tất cả.

Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa, thì chàng cáo xuất hiện. Các con vật đều ghét cáo, vì hắn gian manh quỉ quyệt. Chúng chận không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi không biết cáo định âm mưu gì. Cáo nói rằng, cáo đến dâng lễ vật cho Chúa, nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa hài đồng chàng cáo thì thầm:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của con!

Mọi con vật bỡ ngỡ:

– Dâng gì kỳ cục vậy?

Nhưng cáo vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành.

21. Bí quyết của hạnh phúc

Lần kia, có một người chăn chiên gửi con trai của ông đến với một người khôn ngoan, để học hỏi bí quyết của hạnh phúc. Khi tới tòa lâu đài đẹp đẽ, nơi sinh sống của con người khôn ngoan đó, người con trai đó nói với ông ta rằng anh mong muốn được biết về bí quyết của hạnh phúc. Tuy nhiên, thay vì giải nghĩa cho anh về bí quyết này, con người khôn ngoan đó lại đưa cho anh một cái muỗng chứa đầy dầu, nói rằng: “Con hãy nhìn khắp chung quanh tòa lâu đài. Trong đi vòng quanh, con hãy mang theo cái muỗng này, mà không được làm chảy dầu ra.”

Anh thanh niên bắt đầu đi vòng quanh tòa lâu đài. Trong khi đi, anh liên tục nhìn vào cái muỗng. Sau hai giờ, anh trở lại căn phòng, nơi có nhân vật khôn ngoan đó.

Người khôn ngoan hỏi “Tốt, thế con nhìn thấy cái gì?”

Anh thanh niên tỏ ra bối rối, và thú nhận rằng anh không hề nhìn thấy gì cả. Mối quan tâm duy nhất của anh là không làm chảy dầu ra, theo như người khôn ngoan đã tin tưởng vào anh. Người khôn ngoan nói: “Vậy thì con hãy đi trở lại, và quan sát những quang cảnh tuyệt vời trong thế giới của ta. Con không thể tin tưởng vào một người nào, nếu con không biết gì về ngôi nhà của người đó.”

Trong tâm trạng khuây khỏa, anh thanh niên cầm lấy cái muỗng, và trở lại với công việc đi khám phá tòa lâu đài, lần này, anh quan sát tất cả những đồ đạc đẹp đẽ và những tác phẩm nghệ thuật trang trí các căn phòng của tòa lâu đài. Sau đó, anh thăm viếng khu vườn, với vòi nước nguy nga, những bông hoa và những bụi cây xinh đẹp, thưởng thức thị hiếu thẩm mỹ mà tất cả mọi đồ vật được bố trí theo đó. Khi trở về với nhân vật khôn ngoan, anh tường thuật lại từng chi tiết mọi thứ anh đã nhìn thấy.

Người khôn ngoan hỏi: “Nhưng những giọt dầu mà ta đã tin tưởng giao phó cho con đâu rồi?” Anh thanh niên nhìn xuống cái muỗng, và nhận thấy không còn chút dầu nào cả.

Người khôn ngoan nói “À, ta chỉ có thể cho con một lời khuyên mà thôi: Bí quyết của hạnh phúc hệ tại ở khả năng nhìn thấy tất cả những điều tuyệt vời của thế giới, không bao giờ quên lãng những giọt dầu trong cái muỗng.”

22. Vui lên anh em.

Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết ông già Noel là ai? Và có thật không?

Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?

Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?….”

Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi ngài là Cha Noel, vì ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến ngài như một ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…

Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc.

23. Vui buồn ở tại lòng người.

Buổi sáng ở trạm xăng ngoại ô San Francisco. Một người ngồi xe hơi đến:

- Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát tại Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood Highway, ông chủ có ý kiến gì không?

Ôâng chủ cây xăng hớn hở trả lời:

- Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, một người khác cũng muốn biết về nơi nghỉ mát này. Chàng nhăn nhó nói:

- Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét.

Ôâng chủ rầu rầu đáp:

- Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.

Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:

- Tại sao thay đổi ý kiến chóng như vậy?

Ôâng nói:

- Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ông thứ nhất yêu những người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu, ông ta bất mãn nơi đó.

24. Gặp được niềm vui

Gioan cũng như Sophonia, các ngài chỉ là những ngôn sứ. Các ngài là những người chỉ đóng vai trò loan báo và dọn đường. Chúa Cứu thế mới là Đấng phải đến và đã đến như lời của các ông loan báo. Ngài đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho cả loài người. Người là Tình yêu. Ai gặp được Ngài là gặp được niềm vui.

Cha John Diamond kể lại một câu truyện như sau:

Một hôm kia có một người chẳng ưa gì đạo hỏi một cô bé có đạo:

- Em có thể cho tôi biết Thiên Chúa của em ở đâu không ?

+ Xin ông vui lòng chĩ cho cháu biết chỗ nào không có Thiên Chúa!

- Thế Thiên Chúa của em có to lớn không?

+ Dạ có.

- Thế Thiên Chúa của em có nhỏ không?

+ Dạ có

- Làm sao mà lại vừa lớn vừa nhỏ như thế được?

- Vâng Ngài lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa nổi. Nhưng lại nhỏ, nhỏ đến mức có thể ngự vào tâm hồn nhỏ bé của em.

25. Thiên Chúa vui mừng

Văn sĩ Marie Noel qua đời năm 1967 có tưởng tượng câu chuyện như sau:

Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài “Kinh Tạ Ơn.” Nhà thờ không còn tháp chuông, vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.

Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình, bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù, kia là ông Thêôdôre mà người vợ và hai con bị chôn sống, đây là cô Magarita trong lúc chốn chạy đã lạc mất đứa con thơ, kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.

Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.

Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:

“Thật Ta bảo thật các ngươi là một tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia, mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh.”

Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được.

26. Chia sẻ và niềm vui

Tại một văn phòng tư vấn tâm lý, một thiếu phụ trẻ đẹp và giàu sang bước vào giãi bày tâm sự với vị chuyên gia tâm lý: Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho tất cả. Tôi có đủ mọi thứ, nhưng lòng của tôi lúc nào cũng thấy trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên.

Nhà tư vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể lại chuyện đời cô cho người phư nữ này nghe. Cô thư ký kể: Chồng tôi đã chết cách đây ba tháng. Con tôi cũng chết vì đụng xe. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Rồi một hôm, tôi đi làm về hơi khuya. Một chú mèo con cứ lẽo đẽo đi theo tôi. Trời lạnh. Tôi thấy tội nghiệp nó quá, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên từ sau những thảm kịch bi đát của gia đình… tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là ngay ngày hôm sau, tôi nướng vài ổ bánh đem sang cho bà cụ hàng xóm đang nằm bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp để họ được vui vẻ. Và quả thực, tôi đã tìm thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không có hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình. Ngược lại, ta sẽ hạnh phúc thật, khi ta làm cho người khác hạnh phúc.

Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có tất cả những thứ mà đồng tiền có thể mua được, nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ.

27. Còn chúng tôi phải làm gì?

Cha Anthony de Mello dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi 20 tuổi, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này’.

Nhưng rồi khi 40 tuổi, sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình cũng như bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi’.

Nhưng giờ đây khi 60 tuổi, đến lúc tóc bạc da mồi, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi khiêm tốn hơn và chỉ cầu nguyện như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con.” Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình’.

28. Hãy vui lên

Có câu truyện kể rằng: một vị vua luôn buồn bã, âu sầu, bèn đi ra ngoài thành tìm người có niềm vui. Vua nhìn thấy một người nông dân rất nghèo đang ca hát bèn hỏi: “ngươi có vui không?” Bác nông dân đáp: “đương nhiên là vui rồi.” Nhà vua có chút khó hiểu: “ngươi nghèo như thế mà cũng có niềm vui sao?” Bác nông dân nói tiếp: “tôi cũng từng vì không có giày mang mà buồn khổ, nhưng sau khi gặp được một người không có chân, tôi mới nhận ra mình còn may mắn, hạnh phúc hơn người ấy nhiều.”

Câu chuyện ngắn gọn nhưng đã cho chúng ta một bài học vô cùng quan trọng, đó chính là: cuộc sống vui hay buồn là do cách cảm nhận của mỗi người. Niềm vui không thần bí, niềm vui không xa xôi, nó ở ngay bên cạnh chúng ta.

Đó là niềm vui trong đời thường, còn niềm vui của người Kitô hữu thì thế nào?

Chúng ta chỉ có được một niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng cho Chúa ngự đến. Vậy chúng ta phải làm gì? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

- Đối với quần chúng: hãy biết chia sẻ cho người khác.

- Đối với người thu thuế: hãy thực thi đức công bằng.

- Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân chúng.

29. Hạnh phúc có Chúa ở cùng

Trong bức thư viết từ nhà giam tại Hà Nội đề ngày 24.04.1843 gửi cho các bạn ở chủng viện Vĩnh Trị, thầy viết: “’Tôi, Phaolô Lê Bảo Tịnh, đang mang gông xiềng vì Đức Kitô, từ ngục thất tôi gửi về các bạn những lời chào thân ái, và chắc chắn là những lời chào sau cùng…

Tù ngục này quả là hình ảnh sống động của hoả ngục muôn đời. Không kể gông cùm xiềng xích, tôi còn phải nghe, phải chứng kiến, phải chịu đựng những oán ghét, thù hằn, những lời phỉ báng Thiên Chúa, những lời nói dâm ô, những cuộc xô xát, những hành vi bỉ ổi, những lời thề nguyền gian dối.

Ngoài ra, tôi còn phải chịu phiền cực, chịu muỗi đốt, rệp cắn. Đã hết đâu, người ta còn luôn tuôn ra những lời căm hờn chửi rủa vua quan, bạn hữu, cha mẹ… Ngoài những đau khổ nói trên, mùa hè tôi phải chịu cái nóng nung người, mùa đông chịu rét buốt. Qua nhiều năm không bao giờ nhìn thấy mặt trăng hay ánh sao. Suốt đêm tôi không ngủ được, hoặc chỉ chợp mắt một vài trống canh là cùng…

Nhưng nhờ ơn Chúa, ở giữa những cực hình thường làm cho các tù nhân khác phải sầu khổ, tôi lại được tràn ngập hoan lạc, vì tôi không cô đơn, nhưng Chúa Kitô ở với tôi. Chính Người, Thầy của chúng ta, chịu đựng sức nặng của cây thập giá, phần tôi, tôi chỉ vác cách nhẹ thôi. Vì Người không phải chỉ đứng xem chiến đấu nhưng chính Người chiến đấu và đắc thắng. Chính Người sẽ kết thúc cuộc chiến đấu….”

30. Sống trong niềm vui

Lúc còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được thế giới biết đến nhờ vào lòng bao dung qua tình thương của Mẹ dành cho người nghèo! Tuy nhiên, điều mà thế giới ít biết đến, đó là món quà thiêng liêng mà mẹ dành tặng cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là: nụ cười.

Đã có nhiều cá nhân, đoàn thể, với những đối tượng khác nhau, họ đã xin Mẹ lời khuyên để sống bình an, hạnh phúc và tốt đẹp hơn! Khi được đề nghị như vậy, Mẹ đã nói: "Quí vị hãy về và ban tặng cho nhau những nụ cười... Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai! Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương.”

Còn đối với người Việt Nam, chúng ta cũng thấy mẫu gương này của Đấng Đáng Kính - Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: ngài đã cười với mọi người, kể cả kẻ thù; ngài cười lúc bình an; khi chịu đau khổ; hiểu lầm, thử thách; ngài cười lúc tự do; nhưng cũng không thiếu những nụ cười ngay khi bị tù đầy khốn cùng nơi nhà lao... lý giải cho điều này, ngài đã chia sẻ trong sách Đường Hy Vọng như sau: “Vui với người thương con.Vui với người ghét con.Vui lúc con hớn hở.Vui lúc lòng con đau khổ tê tái. Vui lúc mọi người theo con.Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi. Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình” (ĐHV. số 539), bởi lẽ: một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn.

Và ngài khuyên: “Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận” (ĐHV. số 540).

31. Mầu nhiệm nhập thể - Chia sẻ thân phận đau khổ

Giáng sinh năm ấy, cha Lini đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng để cử hành thánh lễ trong một bầu khí trang trọng, thì bỗng mọi người trong nhà thờ đều xôn xao. Ngẩng đầu lên, cha nhìn thấy một người phong cùi, mặt mũi xần xùi. Hai cánh tay bị cụt. Vết thương ở chân tuôn máu làm thành một vệt dài trên nền gạch bông. Toàn thân bốc ra mùi hôi thối.

Tất cả đều kinh hoàng. Còn cha thì bối rối. Một đàng không thể bắt đầu thánh lễ khi người phong cùi còn đứng đó. Đàng khác, cha cũng không thể đuổi anh ta, bởi lẽ nhà thờ là nhà của Chúa, cha chung của mọi người, không trừ một ai. Càng là bất hạnh thì lại càng đáng được ở lại để đón mừng Chúa giáng sinh.

Người phong cùi dừng lại trước bàn thờ với thái độ van xin. Thế rồi cha nói với anh:

- Bạn hãy ở lại với chúng tôi và chúng ta sẽ làm thành một gia đình duy nhất. Các vết lở loét nơi tâm hồn còn thối tha hơn những vết lở lóet nơi thân xác gấp bội. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và dưới một góc cạnh nào đó, tất cả chúng ta đều là những người phong cùi về đời sống thiêng liêng trước mặt Chúa.

Sự việc này đã đánh động cha để rồi sau lễ giáng sinh năm ấy, cha đã dồn mọi nỗ lực để chăm sóc cho những người đáng thương này.

32. Dọn đường cho Chúa đến

Một hôm Mẹ Têrêsa Calcutta đem 5 chiếc bánh cho một gia đình nghèo đói. Sau khi cám ơn và chia cho bốn đứa con, bà mẹ đó cầm 2 chiếc bánh vội vã chạy sang nhà hàng xóm. Khi bà trở lại Mẹ Têrêsa hỏi: Chị cầm bánh đi đâu vậy?

Người mẹ đó vui vẻ trả lời: Con mang bánh chia cho gia đình chị Ba. Họ cũng đang đói như gia đình con.

Thật cảm động và yêu thương: Dù nghèo dù thiếu thốn họ vẫn quan tâm và chia sẻ cho nhau. Một nghĩa cử cao đẹp thay.

Đây là cách chuần bị rất tốt để "dọn đường" cho Chúa đến trong tâm hồn mình.

33. Chúng tôi phải làm gì?

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết Tề Thanh Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy sợ hãi, răm rắp vâng lời. Riêng có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử: “Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức.”

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm, những sự đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng: “Lấy lợi dứ người ta mà bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm.”

Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử.

Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

Các sĩ phu kia đều làm theo nỗi sợ, còn dân chúng lũ lượt đến xin ông Gioan làm phép rửa với câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” cũng là câu hỏi từ một điều lo sợ, một sự bất an trước định mệnh đời đời.

Chúng tôi phải làm gì?

34. Loan báo Tin Mừng tình yêu

Abbé Pierre, linh mục sáng lập nhóm Emmaus chuyên lo cho người vô gia cư tại Pháp, chủ trương loan báo Tin Mừng bằng nụ cười của tình yêu:

“Giá của một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện, thế nhưng nụ cười lại toả sáng nhiều hơn hàng trăm bóng đèn điện.

Không ai nghèo đến nỗi không thể mỉm một nụ cười, mà cũng không ai đủ giàu để sống mà không cần đến nụ cười của kẻ khác.

Một nụ cười vốn liếng tuy nhỏ bé, nhưng lại sinh hoa lợi nhiều lắm. Nó làm giàu cho kẻ đón nhận nó mà không hề làm cho người trao tặng nó phải nghèo đi. Ngược lại, có khi người ta sẽ còn mãi mãi ghi nhớ…

Nụ cười tạo được hạnh phúc trong gia đình. Nụ cười là dấu hiệu của thân ái. Nụ cười làm cho kẻ nhọc nhằn tìm được sự thoải mái dễ chịu. Nụ cười đem lại can đảm cho người đang nản chí hoang mang …

 Nếu có một lúc nào đó trong đời, bạn gặp một ai đó không trao cho bạn được một nụ cười như bạn đáng được, thì bạn hãy quảng đại mà nở một nụ cười với con người đáng thương ấy. Bởi vì không ai lại cần đến nụ cười cho bằng người không bao giờ biết mỉm cười…”

Chúng tôi phải làm gì? Mỉm cười với mọi người là là công thức loan báo Tin Mừng của cha Pierre. Còn tôi?

Có một ai mà tôi không thể mỉm cười với họ không? Hãy mỉm cười với họ, và niềm vui đời đời cũng sẽ mỉm cười với tôi!

35. Niềm vui giả tạo

Ngày nọ, một người đàn ông đứng tuổi với khuôn mặt rầu rĩ đến xin gặp vị bác sĩ tâm lý.

Khi được vị Bác sĩ hỏi về tình trạng tâm hồn, ông ta đã trả lời:

- Thưa bác sĩ, tôi là một con người không có hạnh phúc. Lúc nào tôi cũng cảm thấy buồn khổ và chán chường! bác sỹ có cách nào giúp tôi tìm được niềm vui trong cuộc sống không?

Bác sỹ hỏi:

- Ông có túng thiếu về tiền bạc không?

Ông ta đáp:

- Tôi là người khá giả.

Bác sỹ hỏi tiếp:

- Thế vợ con ông ra sao?

Ông ta gật đầu nói:

- Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ thương.

Sau khi hỏi thăm một vài điều khác, vị Bác sỹ đề nghị:

- Vậy tôi khuyên ông nên đến dự buổi diễn kịch của nhà diễn kịch nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Có lẽ ông sẽ tìm được niềm vui chăng?

Người đàn ông kia chán nản đứng dậy chào vị Bác sỹ tâm lý, và trước khi ra về, ông ta nói:

- Tôi xin cám ơn lời khuyên của Bác sỹ. Nhưng… tôi chính là nhà diễn kịch nổi tiếng đó!

36. Chúng tôi phải làm gì?

Khi quan sát một chị nữ tu săn sóc vết thương cho một người bệnh, một người nhà giàu lên tiếng:

- Có cho tôi một triệu đôla để làm việc đó, tôi cũng chịu thua.

Đáp lại, Mẹ Têrêsa nói:

- Có cho chúng tôi mười triệu đôla để làm việc đó, chúng tôi cũng không làm, tôi chỉ làm vì tình mến Chúa.

Mục đích giải thích tất cả. Thánh Phaolô dùng một hình ảnh đơn sơ để nói lên chân lý rất quan trọng này: “Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1Cr 9,24-27)

Vâng, ai cũng phải có một mục đích cho đời mình. Người sống không mục đích thì dù có được thỏa mãn mọi điều mong ước đi nữa cũng đánh mất điều quan trọng nhất, đánh mất chính mình. Trần thế hứa hẹn cho con người biết bao điều hạnh phúc, nhưng chẳng bao giờ hứa sự sống đời đời: “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn; thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.” (Tv 49,13)

37. Hy vọng vào Chúa

Victo Frankl là một bác sĩ tâm thần người Do thái đã bị Đức Quốc Xã bắt và đưa đến trại tập trung. Trong cuốn sách “Tìm kiếm ý nghĩa của đời người”, ông mô tả những đau khổ người Do thái phải chịu trong trại tập trung. Trong những đau khổ đó, có nỗi đau khổ vì chờ đợi: chờ để biết số phận của người thân yêu và của chính mình, chờ để được giải thoát. Nỗi đau khổ vì chờ đợi cũng quấy rầy những người Do thái vào thời Chúa Giêsu: chờ được giải thoát khỏi người La mã, chờ Đấng Mêsia tới. Nỗi đau này tác động đến người Do thái theo những cách khác nhau: một số người thất vọng, một số mất đức tin, còn những người khác chỉ quan sát và cầu nguyện.

Tôi đang chờ đợi điều gì trong đời? Nó tác động đến tôi ra sao?

“Can đảm lên, đừng sợ.” Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em. (Is 35,4)Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lễ kính -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lễ kính -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - QUYỀN PHÉP NÀO?

Lời Chúa: Mt 21, 23-27

Khi ấy Chúa Giêsu vào Đền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?"

Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri.” Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết.” Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó.”

TRUYỆN KỂ

1. Sự thật giải thoát

Nghe tin Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở báo với quân thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không?” Cận thần xin thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người giải đến trước mặt vua, để giả làm người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm.”

Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điều một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế? Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm.” Vua đưa mắt nhì Án Tử và nói: “ Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ? Án Tử đứng dậy thưa: “Chúng tôi có nghe, cây quất mọc ở đất Hoài nam thì là thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Thưa là tại thuỷ thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thuỷ thổ nên sinh ra đổi khác chăng.

Sở Vương muốn làm nhục Án Tử, nhưng rồi trước bằng chứng về sự thật mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương lại đành nuốt nhục. Chính bằng chứng về sự thật mà Án Tử nêu ra, đã đột ngột làm xoay chuyển dự mưu của những kẻ muốn bày trò làm nhục người khác.

2. Muốn nhận biết Chúa, phải gạt bỏ mọi thành kiến.

Một vị giảng thuyết được mời đến một nhà thờ nọ. Ông được báo trước rằng một số giáo dân thường bỏ về trước khi bài giảng kết thúc.

Bắt đầu giảng, ông loan báo: “Sáng nay, tôi sẽ nói với hai hạng người trước tiên nói với người tội lỗi, và sau đó với những người thánh thiện.”

Ông diễn thuyết cho “những người tội lỗi” được một lát, rồi ông nói họ: “Bây giờ các bạn có thể ra về.” Thế nhưng hôm đó, mọi người ở lại cho đến kết thúc bài giảng.

Thính giả như người biệt phái và luật sĩ… không nhận bằng chứng của Gioan, cũng không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa là vì họ có thành kiến, kiêu ngạo, họ cho rằng họ biết hết, kỳ thực họ chẳng biết gì. Họ chỉ nhìn Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu theo định kiến thiển cận thấp hèn của họ.

3. Chết vì mê mình

Narcisse là một thanh niên khôi ngô tuấn tú, nên có rất nhiều “bướm” muốn bay đến đậu, nhưng cô nào cũng bị chàng xua đuổi! Trong số đó, có cô Echo là tội nghiệp nhất!

Một ngày nọ, chàng Narcisse đi săn, vì đang mải rượt con mồi, chàng đã tiến sâu vào cánh rừng rậm mà không biết lối ra, chàng sợ quá kêu lên:

- Có ai ở đây không?

Không ngờ có tiếng vọng lại:

- Lại đây, lại đây.

Nghe thấy thế, chàng mừng rỡ và đi về phía giọng nói vừa phát ra. Té ra là nàng Echo vẫn luôn bám sát chàng mà chàng không hay biết. Vừa thấy Echo, Narcisse ngoảnh mặt đi và chạy nhanh về lối khác! Echo quá đau khổ nên gục chết giữa rừng trong tủi hờn!

Các cô gái nghe biết chuyện này rất phẫn nộ trước sự kiêu căng của Narcisse. Các cô bèn rủ nhau tìm đến đền nữ thần Aphrodite để xin thần cho hắn một bài học.

Vào một ngày đẹp trời, Narcisse tiến vào rừng để săn bắn như mọi lần. Khi đã tiến sâu vào trong rừng, đang lúc khát nước, chàng nhìn thấy một dòng suối trong, nên vội chạy lại úp mặt xuống húp một hơi, chợt chàng phát hiện có bóng một người rất xinh đẹp ở dưới nước, chàng mừng quá vội ôm lấy, nhưng bóng người kia tan biến đâu mất! Lát sau, chàng cúi xuống suối, lại thấy bóng người ấy xuất hiện, chàng vội ôm lấy, nhưng hình ấy lại biến mất! Cứ mãi như vậy cho đến khi mệt lử và chàng đã gục chết dưới dòng suối đang chảy xiết! Sau xác chàng biến thành người cá!

4. Sự thật: Ai tìm sẽ gặp

Douglas Hyde là một ký giả người Anh không thích Gíao hội Công giáo. Một hôm ông mua một cuốn sách chống đạo nhằm tấn công Gíao hội. Cuốn sách đã có một tác dụng ngược lại: là đưa Hyde gia nhập Gíao hội. Đó cũng là điều xảy đến cho Balaam trong bài đọc hôm nay: ông lên đường để chúc dữ cho dân Chúa, nhưng rốt cuộc ông lại chúc phúc cho họ. Những người kitô hữu tiên khởi đã thấy lời tiên tri về ngôi sao của Balaam có liên quan đến ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ Phương Đông tìm đến Chúa Giêsu.

Tôi thay đổi não trạng ra sao khi nhận thấy mình sai lầm?

Bạn được thông suốt khi trải qua thay đổi (Bruce Barton)

4. Sức mạnh vô biên của sự thật

Tháng 5/1915 người Đức đánh chìm chiếc tàu chở hành khách Lusitalia của Mỹ, vì cho rằng chiếc tàu chuyên chở vũ khí. Các quan chức Mỹ phủ nhận điều này và dùng sự kiện ấy đưa Mỹ vào thế chiến thứ hai. Sau đó, người ta chứng minh rằng các quan chức Mỹ biết rõ chiếc tàu đang chuyên chở vũ khí nhưng giả vờ không biết.

Một phụ nữ nói: “Hầu như mọi người không phải là kẻ nói dối, họ tránh xa sự thật ở một khoảng cách an toàn.” Người phụ nữ này có ý nói gì? Nó có thể áp dụng vào cuộc sống tôi ra sao?

Nếu bạn nói sự thật, bạn sẽ có sức mạnh vô biên ủng hộ bạn. Nhưng nếu không, bạn sẽ có một sức mạnh vô biên chống lại bạn (Charles Gordon)

5. Làm người cần trung thực

Những vị lãnh đạo cố gắng gài bẫy Chúa Giêsu, nhưng rốt cuộc chính họ lại bị mắc bẫy. Bởi vì, nếu họ nói quyền của Gioan đến từ con người, họ sẽ xúc phạm đến những kẻ đón nhận Gioan như sứ giả của Thiên Chúa. Trái lại, nếu họ nói quyền ấy đến từ Thiên Chúa, họ sẽ tự kết án mình, bởi vì họ phủ nhận phép rửa của Gioan. Chính vì vậy họ giả vờ không biết.

Tôi đã trung thực và thẳng thắn đối với người khác và đối với chính mình như thế nào?

Trên tất cả hãy chân thật với chính mình và sẽ đến điều phải đến như ngày và đêm tiếp nối nhau. Bạn sẽ không thể giả dối đối với bất cứ ai. (William Shakespeare) 

6. Ngọc Bích họ Hòa

Vào thời Sở Lệ vương, có người là Biện Hòa tìm được một viên ngọc ở trong núi đem dâng vua. Lệ Vương sai thợ ngọc xem, người thợ này cho là đá không phải là ngọc. Lệ Vương liền cho người họ Hòa này là nói dối, rồi sai người chặt chân trái anh ta.

Đến khi Vũ vương nối ngôi, người họ Hòa này lại đem ngọc đến dâng. Vũ Vương lại sai thợ ngọc xem. Người thợ ngọc này cũng cho thứ đó là đá không phải là ngọc. Vũ Vương lại cho người họ Hòa này là nói dối, rồi sai người chặt nốt chân phải anh ta. Vì thế người ta đều cười và thương hại anh chàng họ Hòa này.

Đến khi Văn vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy cả máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hòa thưa: "Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối.” Vua liền cho người xem lại thật kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là Ngọc bích họ Hòa và từ đó viên ngọc này được coi là quốc bảo của nước Sở.

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ BA -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ TƯ -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ NĂM -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ SÁU -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNMV 4A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNMV 4B - TRINH NỮ HẠ SINH CON TRAI

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ.”

Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.”

TRUYỆN KỂ

1.

CNMV 4C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Ngày 17/12 - GIA PHẢ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

Lời Chúa: Mt 1, 1-17

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

TRUYỆN KỂ

1. Con Thiên Chúa làm người

Làm người là có một gia phả. Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.

Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham, và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn. Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô. Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.

Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ. Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a), thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11), và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).

Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh. Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này. Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c. 16-17).

Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ. Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít. Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường. Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.

Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại. Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường. Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:

“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít. Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.

Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình. Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã. Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.

2. Ai có thể đứng vững?

Có một thành viên trong Hội đồng giáo xứ đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong giáo xứ. Cha xứ liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu thương và thương xót, ngài trình bầy lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này:

- Nếu như chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì?

Người thứ nhất tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói:

- Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhượng bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó.

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đồi đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha xứ có vẻ chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội đồng giáo xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong giáo xứ. Trong cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha xứ hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa:

- Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha xứ gật gù bảo:

- Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.

3. Nhập thể, không sinh ra

Riêng trong gia phả của thánh Mathêu hôm nay chúng ta thấy:

1. Những chữ “sinh ra” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đến chỗ Giuse là chữ “sinh ra” biến mất. Giuse là người cha theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu được đặt vào lịch sử nhân loại theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu có giòng họ Đavít (“sinh ra” còn có nghĩa kế vị, kế tiếp).

2. Người ta tự hỏi bản gia phả của Mathêu có thực không? Có tính cách lịch sử không? Hai lớp trước từ Abraham đến Đavít rồi từ Salômôn đến Giêkôn thì đã có sẵn trong Cựu Ước, cứ việc theo đó mà chép vào. Còn lớp thứ ba từ Salath đến Chúa Giêsu thì không biết lấy gốc ở đâu. Chúng ta chỉ biết có một điều này là khi viết Phúc Âm, Máthêu được Chúa Thánh Thần linh ứng và dùng những tài liệu gia phả khác nữa, Máthêu không thể phịa ra được. Nên biết người Do Thái giữ gìn gia phả rất cẩn thận.

3. Bản gia phả muốn nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu là một người thực sự Nhập Thể, nhập khẩu giữa loài người, có tổ có tông, Chúa Giêsu là một con người nhân loại, “đầu đội trời chân đạp đất” như trăm nghìn chúng sinh. Trong số tổ tiên của Chúa có rất nhiều bậc anh hùng như Abraham, Maisen ... Nhưng số những vị vua tội lỗi như Đavít, Salômôn, có vua thờ ngẫu tượng; trong số phụ nữ có Rahab, Ruth, Uria, Besabeth tiếng tăm không tốt gì. Nhưng Thiên Chúa đã nhập thế giữa họ bất chấp khuyết điểm lầm lỗi của nhân loại. Ngài là bông sen. Không gì chống lại được ý định Thiên Chúa. Mọi sự được thay đổi, tội lỗi được tẩy sạch, những gì trần thế được thần linh hết.

4. Nhập thể vì tình yêu

Một ông vua có vị thủ tướng rất tài giỏi học cao biết rộng. Một ngày kia vị thủ tướng trở thành tín đồ Kitô giáo và công khai hoá đức tin mình trước mặt dân chúng. Vị ấy thường làm chứng rằng, mình tin Đấng Cứu Thế đã đến thế gian để cứu những kẻ có tội. Nhà vua của vị thủ tướng này không hiểu được sự việc đó cho nên đã nói: ”Trẫm là vua, nếu trẫm muốn thi hành điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho các thần dân là đủ. Lẽ nào Đức Kitô là Vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống thế gian này? Điều đó thật vô lý!”

Nhà vua muốn cho vị thủ tướng ấy về vườn, vì tội đã dám tin theo Đức Kitô, nhưng nhà vua có lòng yêu mến ông lắm nên hứa rằng, nếu ông có thể giải nghĩa xuôi vấn đề này thì sẽ tha tội cho, không cách chức. Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Vị này bèn sai tìm một người thợ mộc rất khéo léo làm một tượng gỗ giống y hình hoàng thái tử mới 2 tuổi và cũng mặc một thứ quần áo giống như của hoàng thái tử. Ngày hôm sau, vua cỡi thuyền rồng dạo chơi sông với thủ tướng. Thủ tướng đã dặn người thợ mộc hãy đứng trên bờ sông bên kia, hễ xa xa thấy một dấu hiệu của thủ tướng thì ném cái tượng gỗ ấy xuống nước. Vua ngồi trên thuyền thấy tượng gỗ ấy rơi tưởng là con mình ngã xuống sông, không kịp hỏi ai, liền nhảy ùm xuống nước, bơi ra cứu con.

Vị thủ tướng bèn hỏi lại vua sao không sai một đầy tớ nhảy xuống nước để vớt hoàng thái tử, mà chính vua lại nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết long bào. Vua trả lời:

- Đó là do lòng thương.

Vị thủ tướng liền tâu rằng:

- Cũng một lẽ ấy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần, nên đức vua và muôn vật, cũng không đành lòng sai ai xuống thế này để đem sứ mạng cứu rỗi cho loài người; nhưng vì lòng yêu thương của Ngài vô hạn, nên Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời xuống trần gian mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy.

5. Chúng ta được làm con Thiên Chúa

Qua Lời Tổng Nguyện của Ngày 17 Tháng 12 hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng tạo thành và cứu chuộc nhân loại, Chúa đã muốn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Giờ đây, xin Chúa nhậm lời chúng ta cầu khẩn: ước gì Con Một Chúa đã làm người như chúng ta, thì xin Chúa cũng cho chúng ta được làm con Chúa như Người.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, đây là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa, một mầu nhiệm khôn dò khôn thấu, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy: Ítraen được cứu thoát nhờ vua Kyrô. Trong kế hoạch khôn thấu của Thiên Chúa, Người đã chuẩn bị sẵn cho những người Dothái đang bị chèn ép trong chốn lưu đày một người giải phóng. Ở đây mới chỉ là Kyrô, vua Batư. Ông sắp triệt hạ Babylon và cho dân được Thiên Chúa chọn trở về quê hương. Trời cao hỡi, xin cho Vì Công Chính mau giáng trần, tựa sương mát nhỏ sa, tự ngàn mây, xin Người đến như mưa nhuần tuôn đổ. Đất hãy mở ra, cho xuất hiện Đấng cứu đời. Lạy Chúa, xin sai Con Chiên đến lãnh đạo Nước Chúa, Con Chiên sẽ trị vì trên núi của thiếu nữ Xion.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ Thiên Chúa đã làm người như chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói: Nhờ Thánh Thần, Đức Kitô đã thành hình trong lòng mẹ và sinh ra; cũng nhờ chính Thánh Thần mà chúng ta lại được sinh ra từ một nguồn gốc thiêng liêng… Như mầm non từ cội rễ Giesê, này đây Đức Kitô sẽ ngự xuống đem ơn cứu độ cho trần gian. Các dân tộc sẽ cầu khẩn Người. Danh Người sẽ vinh quang hiển hách. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa, vì ta là bạn hữu, là thần dân của Vua Kitô, và được đồng thừa kế với Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế cho thấy: Vương trượng sẽ không rời khỏi Giuđa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 71, vịnh gia đã cho thấy: Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời. Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

NGÀY 18/12 - THIÊN-CHÚA-Ở-CÙNG-CHÚNG-TA

Lời Chúa : Mt 1, 18-24

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội." Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

TRUYỆN KỂ

1. Dòng Tộc Của Chúa Kitô

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con."

2. Đấng Emmanuel

Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất.

3. Thiên Chúa nói bằng tiếng nào?

Ngày xưa có chú bé Phi châu tên là Emmanuel. Chú luôn thắc mắc: “Thiên Chúa nói bằng tiếng nào”? Chú hỏi thầy giáo thì thầy cũng không biết. Sau đó chú Emmanuel lại đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận, nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.

Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin có người biết được điều ấy.

Một đêm nọ, Emmanuel đến ngôi làng Belem. Chú cố tìm chỗ để nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả đều không còn chỗ. Vì thế, chú quyết định tìm cái hang ngoài trời để trú đêm. Quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, người mẹ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con."

Chú bé quá sửng sốt, và người mẹ trẻ nói tiếp: “Đã từ lâu, con đi tìm để hỏi xem Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con đã có câu trả lời. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài."

4. Công chính là thành tìn và yêu thương

Hồi còn nhỏ khi ở trường về, vì sợ mẹ quở mắng cho nên ông đã nói dối mẹ một việc nhỏ thôi. Bà mẹ biết chuyện nên ngày hôm đó bà nhất định bỏ không ăn cơm. Gandhi hết lời van xin mẹ nhưng bà cũng nhất định không chịu. Ông van xin mãi thì được bà giải thích:

- Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì con nói dối là con tỏ ra con có một tâm hồn khiếp nhược. Có đứa con như thế là nỗi nhục cho mẹ, Mẹ không muốn sống nữa.

Thấy lòng mẹ cương quyết như thế, cậu bé Gandhi đứng lên đi thẳng xuống bếp, lấy một cục than hồng đặt vào lòng bàn tay của mình rồi trước mặt mẹ cậu hứa với mẹ như sau:

- Con thề với mẹ, suốt đời con sẽ không bao giờ nói dối nữa.

Mừng quá bà mẹ ôm chặt con vào lòng, vừa khóc vừa nói:

- Có thế mới là con của mẹ và mẹ mới có đủ can đảm mà sống với con.

Kể từ đó cho dến chết. Gandhi đã giữ lời...không bao giờ ông nói dối. Ông thường kể lại:

“Vết sẹo trên tay tôi là hình ảnh của mẹ tôi. Người không bao giờ rời khỏi tôi. Đó là vị thần phù hộ và nâng đỡ tôi để tôi luôn biết sống ngay thẳng và trọng danh dự."

5. Sự vâng phục của đức tin

Emmanuel không chỉ ứng nghiệm nơi Thánh Gia Thất, mà còn ứng nghiệm nơi tâm hồn mọi người. Ơn này đã được tiên báo qua hình ảnh tấm lông chiên của ông Ghêđêôn:

Ông Ghêđêôn khi làm thủ lãnh dân Do Thái, đang bị áp lực của quân Mêđian. Ông lo lắng không biết có nên xuất chinh đánh Mêđian hay xin hàng? Ông đã cầu nguyện xin Chúa cho ông một dấu: Nếu tấm lông chiên đặt ngoài sân,qua một đêm mà tấm lông chiên đẫm sương, còn chung quanh đất khô ráo, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân. Qủa nhiên, sáng hôm sau, ông vắt được cả tô nước từ tấm lông chiên, đất xung quanh vẫn khô ráo! Đó là dấu chỉ lần thứ nhất Thiên Chúa chiếm đoạt Maria – trong cuộc Truyền Tin – để Maria trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn dân.

Hôm sau, ông lại đặt tấm lông chiên ngoài sân, và cầu xin: Nếu Chúa ủng hộ ông xuất binh, thì cho tấm lông chiên khô ráo, còn đất chung quanh thì ướt đẫm. Qủa đúng như lời ông xin. Thế là ông hạ lệnh xuất quân chinh phạt Mêđian trong chiến thắng lẫy lừng! (x Tp 6,36-40) Đó là dấu chỉ lần thứ hai,Thiên Chúa chiếm đoạt ông Giuse – trong cuộc Truyền Tin cho ông – để ông Giuse làm cho mọi người nhận biết Lời Đức Giêsu cứu độ muôn dân. Thực vậy, từ khi Đức Giêsu bắt đầu giảng ở đền thờ Giêrusalem (Hội Thánh) lúc lên 12 tuổi, thì sau đó không còn ai biết đến ông Giuse nữa, vì ông đã hoàn tất nhiệm vụ của mình! (x Lc 2,41t).

Mùa Vọng nào trong các Giáo đường cũng vang lên tiếng ca: “Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính” (x Is 45,8) trong niềm xác tín:

- Sương trời là Ngôi Hai.

- Tấm lông chiên là Đức Maria (thấm sương trời).

- Đất là thánh Giuse và mọi người trong Hội Thánh (cũng thấm sương trời).

Vậy Đấng Emmanuel đã ở cùng Đức Maria, ở cùng thánh Giuse (sương đẫm lông chiên) chưa đủ bảo đảm chắc chắn ơn cứu độ cho ta, mà Đấng Emmanuel còn phải ở với tâm hồn mọi người (đất đẫm sương trời), đặc biệt nhất là lúc ta rước Lễ, mới đảm bảo ơn cứu độ cho người được Chúa thương!

6. Emmanuen mang mùi chiên

Vì yêu thương, Đức Cha Gioan Cassaigne đã sống 18 năm trời với những người cùi ở Di Linh, để rồi mang lấy bệnh cùi như họ, chết đi giữa họ… Vì yêu thương, Mẹ Tê-rê-sa đã tìm đến những khu ổ chuột ở Can-cút-ta để sống với những người nghèo, người bất hạnh, để cảm thông, chia sẻ, an ủi họ, đem lại cho họ niềm vui và hy vọng.

Những cuộc dấn thân như thế của các môn đệ Đức Giêsu phản ảnh chính tình yêu nhập thể của Thầy mình, Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”! Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa không chỉ đến ở bên ta, mà thực sự trở thành một người giữa chúng ta! Người đảm nhận 100% thân phận của ta, chỉ trừ tội lỗi. Người đã sinh ra, đã lớn lên ở Nadarét. Người đã ngược xuôi giữa những người nghèo trên khắp ngả đường Pa-lét-tin, và cuối cùng đã chết như một tội nhân trên Núi Sọ.

Yêu người là hiện diện với người, kết hợp với người, chia sẻ trọn vẹn định mệnh của người! Bạn chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh như thế nào?

7. Chúa nhập thể để nâng con người lên đời sống thần linh

Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Ben Hur được bắt đầu với cuộc gặp gỡ tình cờ trong sa mac của ba đạo sĩ từ Ai Cập, Hy Lạp và Ấn Độ. Dù có nhiều khác biệt trong quan điểm nhưng cả ba đều muốn đi tìm Đấng Cứu Thế, tìm một lẽ sống vượt trên mọi quan điểm sống của nhân loại.

Vì nếu cuộc sống con người được bắt đầu và cũng chấm dứt trên mặt đất này thì chẳng tìm đâu được chỗ đứng cho những gì người ta gọi là một lý tưởng sống cao thượng, vô giá, vì “họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.” (Tv 146,4)

Ai cũng mong muốn điều vĩnh hằng. Đó là dấu tích của Chúa để lại nơi mọi tâm hồn. Dấu tích đó thúc đẩy người ta tìm kiếm điều đã có nhưng cần được nuôi dưỡng và tăng triển đến mức hoàn hảo trong Chúa và nhờ Chúa, để trở nên một với Chúa, trở nên tình yêu.

Tình yêu là chuyện rất con người nhưng trở nên tình yêu dường như lại là điều linh thánh, vượt sức con người? Chính vì thế mà Chúa đã cúi xuống nhân loại với danh hiệu Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Vấn đề muôn thuở còn lại cho chúng ta là, đón nhận hay từ chối?

8. Thiên Chúa ở gần con người

Ba thiếu niên nọ leo lên ngọn núi Hood. Khi một cơn bão tuyết ập tới, họ làm một hang tuyết để chờ cơn bão đi qua. Suốt hai tuần lễ, họ nằm rạp trong hang. Niềm an ủi duy nhất của họ là quyển Kinh Thánh nhỏ mà họ thay phiên nhau để đọc. Cuối cùng, vào ngày thứ 16, khi họ gần cạn lương thực và hy vọng, thì thời tiết quang đãng trở lại. Họ ra khỏi hang và hầu như không đứng nổi. Nhìn xuống dưới núi, họ vui mừng trông thấy một đội cứu hộ.

Tình trạng của các thiếu niên khi chờ đợi và hy vọng cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tình trạng của những người Do thái trước khi Chúa Giêsu giáng sinh: họ cũng gần mất niềm tin và hy vọng.

Cái gì ngăn cản tôi tiếp tục dấn bước khi tôi dần mất đức tin, hy vọng và bị lôi kéo và bỏ cuộc?

Lời cầu nguyên đem lại sức mạnh cho kẻ yếu và can đảm cho người nhát sợ.

9. Đức tin của Giuse

Một vị ẩn sĩ nói với một số người cha rằng “Thánh Giuse là mẫu mực hoàn hảo cho các ông." Một người chồng không đồng ý và nói: “Hoàn cảnh của thánh Giuse hoàn toàn khác với hoàn cảnh của tôi. Ngài là một vị thánh, vợ của ngài thánh thiện và con của ngài là con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ tôi cũng không thánh, và con tôi chẳng phải là Con Thiên Chúa." Vị ẩn sĩ trả lời: “Vợ ông có thai trước khi kết hôn với ông và ông không biết do ai không? Con trai ông có bỏ nhà đi trong ba ngày ông không biết nó ở đâu không?"

Tư tưởng của vị ẩn sĩ khiến tôi tự hỏi: Trong cuộc đời tôi, lúc này đây, hoàn cảnh nào mời gọi tôi tin tưởng hơn nữa?

Cha mẹ có con cái dễ hơn con cái có cha mẹ. (Đức Gioan XXIII)

10. Tin là phó thác

“Biết Chúa mà thôi chưa đủ. Tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế cũng chưa đủ. Khẳng định niềm tin vào Ngài như chúng ta đã làm trong Kinh Tin Kính cũng chưa đủ. Bạn chỉ thực sự tin tưởng vào Chúa Kitô một cách sống động khi bạn phó thác cuộc đời cho Ngài và nhận Ngài là Vị Cứu Tinh của bạn” (Billy Graham).

Một cách cụ thể, nhận Chúa Giêsu là vị Cứu Tinh có nghĩa là gì?

Cứu rỗi không phải là điều được làm cho bạn, mà là điều xảy ra trong bạn. Đó không phải là chuyện dẹp đi dư luận xung quanh, nhưng là thay đổi lối sống (Albert W.Palmer).

11. Tên gọi và cuộc sống

Trong văn học Việt Nam, người ta ít biết chuyện chàng thanh niên tên Nguyễn Văn Thắng sau khi thi hương trượt, đã âm thầm đổi tên là Nguyễn Khuyến. Không biết có phải nhờ đổi tên hay không mà sau đó chàng đã đỗ đầu cả ba kỳ thi, được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông đã hoàn toàn đổi đời. Cái tên có ý nghĩa rất lớn trong đời người, đôi khi quyết định cả cuộc đời. Giuse được sứ thần Chúa báo tin phải đặt tên cho Con Chúa làm người là “Giêsu”, Thiên Chúa Cứu Chuộc. Ngài còn có một tên khác là “Emmanuen” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Hai cái tên đặc biệt nói lên sứ mạng của Con Thiên Chúa: ở với chúng ta để cứu chuộc chúng ta. Claude Tessin nói: “Đây là tên gọi khởi đầu và hoàn tất Tin Mừng”, bởi vì trước khi về trời Đức Giêsu cũng nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."

Hãy tích cực cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa dù nó trái với dự định riêng của mình.

12. Chúa ở với các con

John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”

Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.

Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”

- Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?, Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.

Nhưng anh ta trả lời:

- Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.

Vị linh mục ngạc nhiên:

- Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?

- Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”

Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:

- Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?

Anh thanh niên chậm rãi giải thích:

- Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.

13. Chúa ở cùng chúng ta

Một người cha nhận được tin con trai, một cậu bé thông minh xuất sắc, đã chết trong một tai nạn đường sắt. Ông quay sang vị linh mục, chất vấn trong đau đớn: “Chúa ở đâu khi con tôi chết?”

Vị linh mục nhẹ nhàng trả lời: “Chúa ở đâu khi Con Một Chúa chết trên cây thánh giá, Ngài cũng ở đấy khi con ông chết.”

Một câu trả lời giản dị nhưng lại nói lên tình yêu bao la của Chúa khi sai Ngôi Hai xuống thế làm người. Một tình yêu hoàn hảo và tinh tuyền xoá tan mọi ngăn cách giữa Đấng Cực Thánh và con người, và… Thiên Chúa ở cùng chúng ta!

14. Ngươi đi đâu Ta cũng ở với ngươi

Một thanh niên xem cụ già hàng xóm 80 tuổi đang trồng một cây đào nhỏ. Anh hỏi: “Ở tuổi cụ, trồng đào thì bao giờ mới được ăn?”

 Cụ chống xẻng, trả lời: “Ở tuổi tôi trồng cây nào nghĩ đến ăn, nhưng cả đời tôi thưởng thức không biết bao nhiêu trái đào do người khác trồng tỉa. Làm sao tôi có đào ăn nếu không có ai làm công việc tôi đang làm đây, tôi chỉ muốn tiếp tục việc của những người đã trồng đào cho tôi ăn."

Chúa không màng chi đến việc được Đa-vít phụng sự: “Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?” vì Chúa đã chăm sóc cho ông như một người con từ lâu trước khi ông nghĩ đến làm một điều gì cho Chúa: “Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi” (2Sm 7,8-9).

15. Tình yêu tìm kiếm

Trong bài giảng Giáng sinh năm 1998, ĐHY Joseph Ratzinger, sau là ĐGH Benedicto XVI, đã kể câu chuyện về cậu bé Jeschiel chạy tất tưởi tới phòng ông của mình, một thầy Rabbi nổi tiếng, sướt mướt kêu gào:

- Ông ơi, bạn của con đã bỏ rơi con hoàn toàn rồi. Nó thật chẳng tốt chút nào và chơi xấu với con quá!

- Ông hiểu, con có thể kể thêm một chút nữa không?

- Dạ, chúng con chơi trốn tìm năm mười với nhau. Con trốn thật là kỹ, đến nỗi bạn con không tìm được con. Tự nhiên bạn con nghỉ chơi, không tìm con nữa, và nó đi mất tăm luôn. Chơi thật là xấu, phải không ông?

Thầy Rabbi đã an ủi Jeschiel: “Thực là chẳng đẹp chút nào. Nhưng con ơi, mình với Thiên Chúa cũng vậy đó. Chúa đã chơi với chúng ta trò chơi trốn năm mười, Ngài đã trốn, còn chúng ta thì lại chẳng chịu đi tìm Ngài gì cả. Con cứ thử nghĩ xem, Thiên Chúa ẩn mình, còn chúng ta thì chẳng một lần chịu đi kiếm Ngài.”

Kể chuyện xong, ĐTC tiếp lời: “Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta thấy hào quang sáng chói của Ngài. Ngài muốn rằng giữa Ngài với chúng ta một tình yêu cần được nảy sinh, và tình yêu này luôn đòi hỏi sự tự do... Và Ngài ước ao chúng ta có được... kinh nghiệm của sự tự do, của tìm kiếm, của khám phá và của lời Xin Vâng với tình yêu."

16. Ta ở cùng Chúa

Một hôm, ban giáo sư ở một trường dòng muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ngoài sân nên mới ra cho họ một câu hỏi:

- Em sẽ làm gì nếu được cho biết là sẽ chết trong một giờ nữa?

Có nhiều câu trả lời khác nhau. Có em thì vào nhà thờ cầu nguyện, có em đi xưng tội, em khác lại muốn gặp cha mẹ và thân nhân lần cuối. Nhưng câu trả lời của Aloysiô Gonzaga làm mọi người phải ngạc nhiên:

- Nếu biết em sắp chết, em vẫn tiếp tục chơi.

- Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng đó mà em dám tiếp tục chơi?

- Vì Chúa dạy phải luôn sẵn sàng, nên em đã sẵn sàng luôn, mà bổn phận hiện nay của em là chơi nên em cứ tiếp tục chơi.

Biết là thế, nhưng cũng không dễ mà cộng tác với ơn cứu độ, mà thưa ‘Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?’ như ĐHY. Nguyễn văn Thuận chia sẻ cái thói thường người ta dùng để đáp lại tình yêu Chúa: “Con dâng cho Chúa một quả tim, trong đó có đủ mọi thụ tạo chen nhau chiếm chỗ, rồi con bảo Chúa nhận và giữ lấy quả tim ấy sao?”

17. Có Chúa ở cùng

Trong Thánh Kinh, có 20 lần Thiên Chúa bảo đảm ở cùng những người được Ngài ưu ái hay được Ngài sai đi thực thi sứ mạng, như với Abraham, Môsê, Giêrêmia… và với dân Israel. Nhưng đó là “ở cùng” bằng quyền năng, bằng sự trợ giúp. Còn đích thân hiện diện cách trọn vẹn thì chỉ có nơi Chúa Giêsu, là Em-ma-nuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Được Thiên Chúa ở cùng là một cảm nghiệm hết sức trọng đại đã thôi thúc các nhân vật lớn trong Thánh Kinh loan báo sự kiện đó như một sứ mạng (1Cr 1,5; Gl 2,20; Ep 2,11-22; Cl 1,12-22; 1Ga 3,24; 4,12.15-16). Vì vậy, Đức Giêsu, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, trở thành nội dung của mọi công cuộc loan báo và là tiêu chuẩn đánh giá đâu là cuộc loan báo đích thực: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1Ga 4,2).

Chúng ta đã thực hiện nhiều hoạt động bác ái, từ thiện, liên đới, nhưng có thể trong đó đang thiếu lời giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác. Phải chăng đó là nguyên nhân khiến nhiều người chưa nhận biết Chúa Giêsu, Thiên Chúa đang ở giữa họ?

NGÀY 19/12 - TRUYỀN TIN CHO ÔNG GIACARIA

Lời Chúa: Lc 1, 5-25

Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.

Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.

Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng."

Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.

TRUYỆN KỂ

1. Samson và Gioan

Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.

Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.

Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh." Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.

Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.

Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.

2. Một chứng tích hùng hồn.

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí phái, Sophie Beranski phải thất nghiệp.

Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đã đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy hương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!

Dưới sự săn sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua, tai họa dồn dập xẩy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng lại càng nặng thêm. Tuy nhiên Sophie vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi ba đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay là ngày giỗ của Sophie Beranski. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: ”Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn."

Ông hết sức cảm phục. Cả gia đình ông cũng thế. Sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.

3. Mỗi người một sứ mệnh

Việt Nam ta có một truyện cổ nói lên niềm tin dân gian vào sứ mệnh, vào số mệnh của từng con người trên đời. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết.

Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.

Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.

4. Luôn là tình yêu

Cô Isabelle 19 tuổi, nữ sinh viên người Pháp, đã cảm thấy “Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa,” vì sau những đau khổ, mất mát xảy đến với cô, Thiên Chúa đã “ngoảnh mặt làm ngơ. ” Cô không còn thiết sống nữa. Nhưng chính trong bước đường cùng ấy, theo lời khuyên của một người bạn, cô đã “đến và ở lại với Chúa,” và cô đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Người, đến nỗi có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. ”

Cuộc sống đã hơn một lần khiến tôi cảm thấy không biết phải dựa vào đâu để tin vào Thiên Chúa và chấp nhận những gì xảy đến cho tôi. Cũng như ông Dacaria và cô Isabelle, trước những thách đố của cuộc sống, tôi cũng cảm thấy bối rối, lo âu, không biết nương nhờ ai để có thể đứng vững.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến và ở lại với Chúa, tìm và gặp nơi Ngài chỗ nương thân.

5. Đừng sợ

Lời cầu xin của ông Dacaria được Chúa nhậm lời. Thế nhưng khi Ngài hứa ban cho ông một người con trai theo lòng ước nguyện thì ông lại hoang mang, sợ hãi và đòi Chúa cho một dấu lạ. “Dựa vào đâu mà tôi biết được các điều ấy vì tôi đã già....” Hoá ra, khoảng cách giữa lời cầu nguyện và niềm tin là một nhịp cầu xa vời vợi, con người có thể cầu nguyện nhưng chưa hẳn đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa hoạch định chương trình của Ngài.

Điệp khúc “Đừng sợ” xuất hiện 365 lần trong Kinh Thánh và hầu hết cho những người công chính, một lần nữa như gởi đến cho mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng này.

Giữa biển đời trần gian, giữa những phong ba bão tố của thất bại, mất mát, bệnh tật, thù oán và ghen tương... lắm phen làm cho bạn hoảng sợ, bạn có tìm đến Chúa để cầu nguyện và nội tâm của bạn đã thật sự được giải toả để ký thác hoàn toàn vào tình yêu Chúa chưa? Hay những lý luận và phân tích tự nhiên đã cản trở niềm tin của bạn?

Cha Teilhard de Chardin ví đức tin như một cú nhảy: Tin là nhảy tới lao vào khoảng không mà biết rằng đó không phải là khỏang không hun hút bất tận, nhưng chắc chắn trong khoảng không ấy sẽ có bàn tay Thiên Chúa đón đỡ lấy mình!

6. Đức tin không đòi lý do

Nhiều nhà phê bình đã chế diễu nhà văn Nga Feodor Dostoievski vì đã xác quyết lại niềm tin vào Chúa Giêsu sau một thời gian khủng hoảng và nghi ngờ đức tin. Dostoievski đã trả lời họ rằng “Tôi tin vào Chúa Kitô và tuyên xưng Ngài không giống như đứa trẻ. Lời tung hô của tôi phát sinh từ thử thách của nghi nan.”

Có bao giờ tôi đã trải qua giai đoạn khủng hoảng và nghi ngờ đức tin như ông Zacaria và Dostoievski không? Hiện giờ tôi giải quyết những nghi vấn đức tin như thế nào?

Tôi luôn nghĩ đến cách tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương mọi sự… Rồi bạn sẽ nhận biết có một Thiên Chúa và bạn sẽ tin. (Vincent van Gogh).

7. Ma quỷ giúp vui cho ngày lễ

Nếu bạn không bao giờ nghe nói về ma quỷ, bạn đừng ngạc nhiên. Chiến thuật của nó là ít lộ diện và ít đến độ bạn không hề chú ý đến nó. Nhưng điều đó không có nghĩa là ma quỷ không có, mà chỉ có nghĩa là chiến thuật của nó đang được thực hiện. Công việc của nó là làm cho bạn quá bận tâm đến việc sắm sửa dịp Noel, niềm vui tiệc tùng và những ngày lễ, không còn thời giờ để suy tư về ý nghĩa đích thực của lễ giáng sinh. Chính vì thế, bạn bỏ qua ý nghĩa của ngày lễ cũng như không chuẩn bị cho việc tái sinh của Chúa trong tâm hồn bạn.

Chiến thuật của ma quỷ hoạt động thế nào trong trường hợp của tôi?

Tại sao không để cho Chúa Giêsu săn sóc đời bạn. Ngài có thể làm nhiều hơn cả chính bạn.

8. Có hậu không như tính toán thế tục

Một câu chuyện có hậu, đẹp như cổ tích. Song trước khi có hậu thì nó đã có vẻ... không có hậu! Nghĩa là nó vốn éo le, đầy kịch tính: hai ông bà đều là người tốt lành trước mặt Thiên Chúa và người xung quanh; thế nhưng họ không có con, vì bà Elisabét là người hiếm hoi. Vả lại cả hai đều cao tuổi rồi.

Điều gì đã diễn ra trong tâm hồn Êlisabét gần ngót cả đời người, ít là kể từ khi bà kết hôn? Làm vợ mà không được làm mẹ, trong xã hội Do Thái thời ấy, chắc chắn là “một nỗi hổ nhục trước mặt người đời.” Trong nỗi hổ nhục này, Êlisabét đã có thái độ ra sao?

Cùng với chồng mình, bà vẫn sống “công chính trước mặt Thiên Chúa,” vẫn vâng giữ “mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.”

9. Thinh lặng gieo hạt giống

Họa sĩ Van Gogh nói: “Cuộc đời là thời gian gieo trồng, chứ chưa phải là mùa gặt hái.” Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy Thiên Chúa, được ví như người gieo giống, đã gieo cách kiên trì, rộng rãi đến độ hoang phí các hạt giống Lời Chúa. Hôm nay chúng ta nói đến thân phận của hạt giống rơi vào bụi gai, tiêu biểu cho thái độ đón nhận Lời Chúa thường gặp nơi chúng ta. Bụi gai tượng trưng cho nỗi bận tâm về chuyện đời, về ham mê của cải, công ăn việc làm khiến cho cây Lời Chúa chết nghẹt.

Bạn thường nói rằng tôi quá bận rộn đến nỗi không có giờ cầu nguyện, tôi phải lo công ăn việc làm, không rảnh rỗi để đọc Lời Chúa, để lo các việc đạo đức… Coi chừng! Tâm hồn bạn đang có nhiều bụi gai đấy! Bạn hãy nhớ rằng: không phải điều gì rõ ràng là xấu mới nguy hiểm, mà ngay những điều tốt, hợp lý như công ăn việc làm, chuyện đời sống… cũng có thể nguy hiểm, bởi vì “điều tốt thứ nhì luôn là kẻ thù tệ hại nhất của điều tốt nhất.” Tại sao? Tại vì nó làm bạn xao lãng điều tốt nhất.

10. Tìm ý Chúa

Đức Cha Roncali, khi còn làm Sứ thần Tòa thánh ở Bungari đã nhận được một bức thư mà một linh mục nọ đã viết để bêu xấu Ngài. Vị linh mục chỉ trích Ngài một cách thậm tệ, nhưng Đức Cha không hề buồn giận chút nào. Ngài vẫn cầu nguyện cho người anh em linh mục đó. Hai mươi năm sau, Ngài được bầu chọn làm Giáo hoàng với tước hiệu Gioan 23. Trong một lần về Rôma để yết kiến Đức Thánh Cha, vị linh mục kia cũng ghi danh vào trong phái đoàn để gặp gỡ vị chủ chăn đáng kính. Vị linh mục này hy vọng rằng thời gian đã lâu, vả lại với bao công việc bề bộn, có lẽ Đức Thánh Cha chẳng còn nhớ đến bức thư năm xưa.

Nhưng khi vào triều yết, vị linh mục này rất ngạc nhiên khi được Đức Thánh Cha chào đón niềm nở và hỏi thăm công việc mục vụ của Ngài rất chân tình. Sau đó vị chủ chăn tiến đến bàn làm việc lấy ra cuốn sách nguyện, trong đó có kẹp lá thư mà vị linh mục kia đã gửi cho Ngài trướcđây. Đức Thánh Cha nói: “Con yên tâm, Cha cảm ơn con nhiều lắm. Cha vẫn giữ món quà quý giá này và để nó trong sách nguyện của Cha. Cha vẫn thường đọc lại bức thư đó để xét mình hằng ngày."

Sau đó, Đức Thánh Cha ôm hôn vị linh mục một cách thắm thiết. Đây là hình ảnh rõ nét về một vị mục tử chân chính, luôn diễn bày sự khiêm tốn và hiền lành đối với hết mọi người, nhất là đối với các anh em linh mục.

NGÀY 20/12 - TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ." Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận."

Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được."

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền." Và Thiên thần cáo biệt Bà.

TRUYỆN KỂ

1. Xin vâng

Thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng, nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so. Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm, mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình. Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.

Thai nhi trở thành người trọn vẹn nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ. Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế. Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng, nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.

“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể… Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7). Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha. Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không, để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).

Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ, Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính. Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất để Ngài thực sự là anh em của họ.

“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38). Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống, và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).

2. Quyền năng của Thiên Chúa

Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh." Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam." Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được." Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?

Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng.

Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.

Hai tiếng "Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:

"Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người có nghe náo động cả phương trời?"

Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.

3. Gõ cửa nhẹ nhàng

Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?"

Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.

Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.

4. Xin vâng - Lời thưa của đức tin

Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.

Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng...

5. Đức tin lớn lao

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?"

“Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao." Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).

Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.

6. Thiên Chúa không làm đượcsao?

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư Thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội ngiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:

- Vianney, anh dốt như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:

- Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?

7. Đức tin phải có việc làm

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.

8. Tôi là vua

Cha Gioan Tauler, một vị linh mục rất đạo đức nhưng ngài vẫn luôn cầu xin để được gặp một người nào đó chỉ dẫn cho ngài Thiên Đàng ở đâu. Một ngày kia, như có tiếng lương tâm giục, ngài ra trước cửa nhà thờ hy vọng gặp được người đó.

Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi hám. Cha đến gần chào người hành khất:

- Chào ông, chúc ông may mắn.

Người ăn mày thản nhiên trả lời:

- Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.

- Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.

- Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.

Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:

- Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?

Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:

- Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy chân Chúa và cùng Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.

Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:

- Này ông, ông có thể cho tôi biết, ông từ đâu tới đây?

- Thưa cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.

- Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?

- Ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.

Tới đây, cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:

- Thế thì, ông là ai?

Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:

- Tôi là vua.

Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:

- Tâu Đức vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?

- Vương quốc của ta ở ngay trong tâm hồn ta.

9. Chứng nhân của lòng thương xót

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn ngày 08/12/2015, lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội để khai mạc Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, nhân kỷ niệm 50 năm kết thúc công đồng Vaticanô II, vì “ý nghĩa phong phú của lễ đó trong lịch sử Giáo Hội hiện đại” (Misericodiae Vultus, số 4). Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria nhắc chúng ta nhớ lại hành động của lòng thương xót Chúa “ngay từ buổi đầu của lịch sử nhân loại” (số 3). Quả vậy, chính vì Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cứu độ con người nên Ngài gìn giữ Đức Maria tinh tuyền không tỳ ố bởi tội lỗi, không lệ thuộc sự ác một giây phút nào ngõ hầu chuẩn bị một cung lòng xứng đáng cho Con Chí Ái của Ngài giáng sinh. Mặt khác, nhờ lòng khiêm cung và tinh thần vâng phục của Đức Maria, mà lời hứa ban Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa được thành tựu.

Và Đức Maria trở thành nhân chứng tuyệt hảo của lòng Chúa thương xót.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau.” Trong Năm Thánh Lòng Thương và Phúc âm hóa xã hội này, mời bạn hãy thực thi lòng xót thương người trong xã hội tội lỗi và vô cảm này bằng việc yêu thương, tha thứ, phục vụ mọi người nơi môi trường của mình.

10. Sáu lời của Đức Mẹ và công trình cứu độ

Tân Ước ghi lại sáu lần Đức Maria nói, nhưng năm lần Mẹ nói với Chúa và nói về Chúa:

1- Mẹ nói với thiên thần: “Việc đó xảy đó thế nào vì tôi không ăn ở với người nam” (Lc 1,34).

2- Mẹ thưa với thiên thần: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38).

3- Mẹ cầu nguyện rất dài tại nhà bà Êlysabeth, người chị họ (Lc 1,46-55).

4- Mẹ trách Đức Giêsu trốn ở lại Đền Thờ làm cho cha mẹ đau khổ đi tìm (Lc 2,48).

5- Mẹ trình bày với Đức Giêsu trong tiệc cưới Cana: “Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3).

Mẹ chỉ nói với loài người duy một lời trong lần thứ sáu cũng là lần cuối cùng:

6- “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5)

Ta biết thuở tạo dựng ban đầu, Thiên Chúa phán sáu lần trong sáu ngày, đặc biệt ngày thứ sáu cũng là lần thứ sáu, lần cuối cùng, Chúa phán: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta” (St 1,26).

11. Mẹ thắng con rồi

Giovanni Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước Ý.

Khi biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.

Anh trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.

Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”

Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.

Anh đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?

Rồi anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”

Tomasi mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.

12. Tìm ý Chúa

Có một dạo các hãng sữa đua nhau quảng cáo rằng sữa của họ sản xuất có thể làm tăng trí thông minh của con trẻ rồi còn tổ chức ‘đo’ IQ miễn phí nữa. Thế là các bà mẹ hớn hở bồng con đến đo IQ và tiếp theo đó là mua sữa! Bà mẹ nào lại không muốn con mình thông minh sáng dạ, học hành giỏi giang. Con cái sau này thành đạt, mẹ cha cũng được nở mày nở mặt. Thế mà Đức Maria không hề mong ước làm mẹ siêu nhân, lại càng không mơ làm mẹ Đấng Cứu Thế như nhiều thiếu nữ Do thái thời ấy mong đợi. Qua lời Mẹ thưa với sứ thần, có thể biết điều Mẹ đang quan tâm tìm kiếm chính là “xin vâng” theo ý Chúa: Mẹ đón nhận lời sứ thần truyền tin chỉ vì đó là điều Chúa muốn.

Thời đại ngày nay người ta hay ‘dị ứng’ với việc vâng lời, bởi vì vâng lời bị coi là đồng nghĩa với trẻ con, ấu trĩ. Thái độ của Đức Maria cho thấy phải có một nhân cách thực sự trưởng thành mới có thể nói lên lời “xin vâng” với ý thức nhận định thánh ý Chúa, với tinh thần trách nhiệm về sứ mạng sắp lãnh nhận và với tình yêu mến phó thác như vậy được. Thế nhé, bạn cũng hãy học theo mẫu gương của Mẹ để nói lời “xin vâng” với Chúa như vậy nhé!

13. Gương mẫu cho lòng tin

Ta có thể nói như cha Cantalamessa rằng: “Không ai cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu đến mức như Đức Maria, cũng như không ai được tôn vinh bên Chúa Giêsu bằng Đức Maria.” Quả vậy, từ khi nhập thể, Đức Giêsu gắn bó với Mẹ Maria như hình với bóng: từ lúc còn trong lòng Mẹ, Mẹ đi đâu, Con đi theo đấy; khi Con trưởng thành, Con ở đâu, Mẹ cũng có mặt ở đó; Con dự tiệc cưới Cana, cũng có mặt Mẹ, Con đi rao giảng Tin Mừng, có thấp thoáng bóng Mẹ, Con chịu đóng đinh, Mẹ có mặt dưới chân thập giá. Thì nay Con bước vào vinh quang Thiên quốc, thì Mẹ được cất lên làm Nữ Vương vũ hoàn.

Mời Bạn: Nhớ rằng ngoài người mẹ trần gian, bạn còn có một người mẹ trên trời là Đức Maria. Bạn hãy siêng năng đến cầu nguyện với Đức Mẹ, và nhớ lấy ngài làm “gương soi” cho mình.

14. Thiên Chúa mong đợi được chấp thuận để ban ơn

Sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình, và người dẫn chương trình đã hỏi cô ta: Tại sao Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?

Cô ta trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Nhưng từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi gia đình, khỏi xã hội và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là “ quân tử ” nên đã lẳng lặng rút lui.

Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta, khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình. Về những biến cố mới xảy ra, như tấn công, khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh… tôi nghĩ mọi sự đã bắt đầu với Madelein Murray O’Hare, khi bà ấy phàn nàn và không muốn cho đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta đã đồng ý. Rồi một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học. Chính quyển Kinh Thánh mà trong đó dạy chúng ta: “Chớ giết người, chớ trộm cắp… dạy chúng ta yêu người như chính bản thân v.v…” và chúng ta cũng đã đồng ý.”

15. Xin vâng – lời thưa của lòng tin

Nếu Chúa bảo: “Này con, con làm kỹ sư,” con thưa: “Xin vâng.” Và “Này con, con làm linh mục,” con thưa: “Xin vâng.” Hai tiếng “xin vâng” ấy là vâng có điều kiện, có nghĩa vụ và quyền lợi thuộc về tôi nhiều hơn.

Hai tiếng “xin vâng” của Mẹ hôm nay thì khác. Qua hai tiếng ấy Mẹ đặt mối quan hệ của mình và Thiên Chúa trong mối quan hệ thấp cao: Mẹ chỉ là nữ tỳ, còn Thiên Chúa là Đấng Tối Cao. Vì vậy, Mẹ xin vâng không điều kiện, không mặc cả. Mẹ trao toàn thân để Chúa có thể làm bất cứ điều gì nếu Chúa muốn dù có đau thương Mẹ vẫn một lòng trung tín. Cho nên, Chân Phước mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Nếu có gì thuộc về tôi, tôi sẽ có toàn quyền sử dụng nhưng tôi thuộc về Chúa, nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn.”

Lời “xin vâng” của Mẹ Maria vẫn được lặp lại trong đời sống Kitô hữu mỗi ngày. “Xin vâng” với ý thức là hiến toàn thân cho Chúa qua việc sám hối ăn năn tội và sống Lời Chúa, đồng thời hiệp thông với Ngài mọi giờ trong cuộc sống ngang qua thập giá của Chúa Kitô. Mời bạn hãy noi gương Mẹ, thưa xin vâng với Chúa qua việc sám hối, hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức trong Mùa Vọng này để được Chúa Giêsu giáng sinh nơi cung lòng bạn.

16. Xin vâng trong những sự bất ngờ

Cuộc sống đời thường có nhiều bất ngờ, khó hiểu, thậm chí phi lý… nên đôi khi ta thốt lên: “Đời mà! Ai hiểu được chữ ngờ!” Cuộc sống người Kitô hữu còn nhiều éo le, “tréo cẳng ngỗng” hơn, vì phải sống “ngược đời”, “điên rồ”, “không giống ai”… Chẳng những thế, người Kitô hữu sống đức tin là sống “cuộc đời lần trong đêm tối” vì Thiên Chúa dường như vắng bóng, vì ý định Ngài bị che khuất sau bức màn đêm của mầu nhiệm.

Đức Trinh Nữ Maria thấm thía tình cảnh này hơn ai hết: thưa “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa mặc dù Mẹ không biết ý định đó “sẽ xảy ra cách nào.” Bằng tiếng “Xin Vâng” bất tận, Mẹ trung thành đi theo con đường thập giá Đức Kitô trong suốt cuộc đời. Và chỉ khi đứng dưới chân Thánh giá, chứng kiến trái tim bị đâm thâu của Con yêu dấu, Mẹ mới thấu hiểu chương trình cứu độ mà Chúa mời gọi Mẹ tham gia đã “xảy ra cách nào.”

Hãy noi gương Mẹ luôn ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa để tìm biết Thánh Ý Chúa – đó là nền tảng vững chắc cho đời sống đức tin của mỗi tín hữu chúng ta; cùng với Mẹ tiếp tục lời “Xin Vâng bất tận” của Mẹ để vượt qua những khó khăn nghịch cảnh trong đời – đó là phương thế để hiểu Thánh Ý Chúa “xảy ra cách nào” trong cuộc đời ta.

17. Trước và sau lời truyền tin

Trong trí tưởng tượng, bạn hãy phát họa bức tranh nhân loại trước khi Chúa Giêsu đến. Nhân loại ở dưới quyền lực và sự kiểm soát của Satan, tội lỗi và sự vô vọng hiện diện khắp nơi.

Khi đi vào trong thế giới này, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến với một trinh nữ tên là Maria. Sứ thần nói với bà: “Bà sẽ thụ thai và sinh một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người ta sẽ lên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho người ngai vàng Đavít, tổ tiên người và triều đại người sẽ vô cùng vô tận.” rồi sứ thần từ biệt bà (Lc 1,31-33.38)

Ý tưởng gì xâm chiếm tâm trí Maria sau khi sứ thần từ biệt bà?

Hãy để cho người chưa bao giờ yêu thương biết yêu thương, và người luôn yêu thương biết yêu thương hơn nữa.

NGÀY 21/12 - THĂM VIẾNG

Lời Chúa: Lc 1, 39-45

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện."

TRUYỆN KỂ

1. Lòng bác ái của bác sĩ Longet.

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế?

Bá sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

2. Bát đường cho trẻ mồ côi

Hồi đó, - mẹ Têrêsa Calcutta kể - nhằm lúc thành phố Calcutta thiếu đường ăn thì có một em bé chừng bốn tuổi đem đến cho tôi một chén đường và bảo tôi:

- Thưa mẹ, con đã nhịn ăn đường suốt một tuần nay, xin mẹ hãy dùng ít đường này cho trẻ mồ côi của mẹ.

Một em bé mới có bốn tuổi mà có được cử chỉ như thế thì thật anh hùng biết bao! Em đã học được bài học yêu thương đến độ dám hi sinh cả những gì mình cần thiết cho các em nhỏ khác.

3. Rá gạo chia đôi

Hồi đó, - mẹ Têrêsa Calcutta kể - bất chợt có một người đàn ông đến gặp tôi và nói:

- Thưa mẹ, gần đây có gia đình người Hindu có tám đứa con, mà cả tuần nay họ không có gì ăn cả.

Lập tức tôi bưng rá gạo đi theo người đàn ông ấy và tìm đến nhà người Hinđu kia. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi bắt gặp những khuôn mặt xanh xao và cơn đói lúc đó đang hành hạ họ. Không cầm lòng được, tôi trao hết rá gạo cho bà ta. Bà này cảm động đón lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi … và một lúc sau, bà trở lại, tôi ngạc nhiên hỏi bà:

- Bà đi đâu vậy? Đem gạo cho ai?

- Họ cũng đói lắm!

- Nhưng họ là ai?

- Họ là những gia đình Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường, và cả tuần nay, họ cũng không có gì ăn cả.

Đọc lại câu chuyện này sao nhiều lúc tôi cảm thấy buồn cho mình. Mình là người có đạo mà nhiều khi còn thua những người không có đạo nhiều quá.

4. Lá thư của bà mẹ quảng đại

Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của Edmondo De Amicis tôi đọc được một lá thư của một người mẹ gửi cho người con. Bà viết như thế này: “Mẹ viết thư này để con đọc. Sáng nay ở trường về, con đi trước mẹ mấy bước. Mẹ thấy con đã đi ngang qua một người đàn bà đáng thương đang bế trên tay một đứa bé xanh xao và ốm yếu. Người ấy xin con tiền. Con đã nhìn sừng sững vào bà ta và con đã không cho gì hết dù mẹ biết con đang có tiền trong túi.

Nghe mẹ bảo đây con! Đừng bao giờ dửng dưng đi qua trước những người nghèo khổ đang ngửa tay xin mình giúp đỡ và nhất là trước một người mẹ xin một đồng cho con của mình. Con hãy nghĩ đi: biết đâu đứa bé ấy đang đói. Hãy nghĩ đến nỗi khắc khoải của người đàn bà đáng thương ấy. Hãy nghe lời mẹ dạy con đây. Thỉnh thoảng con phải biết chia sẻ một đồng tiền từ túi của con, đặt nó vào lòng bàn tay của một cụ già không nơi nương tựa, một bà mẹ không có bánh ăn, một đứa trẻ không cha không mẹ.

Con phải biết rằng: con chẳng thiếu thốn chi hết, còn người nghèo thì thiếu thốn mọi thứ. Trong lúc con ước mong được sung sướng thì họ chỉ cần cầu xin cho khỏi chết đói. Thật là buồn khi thấy giữa bao nhiêu ngôi nhà giàu có, giữa bao nhiêu trẻ em ăn mặc đẹp, lại có những người đàn bà và trẻ em không có gì để ăn cả... Con hãy suy nghĩ đi, và đừng bao giờ con hành động như buổi sáng hôm nay nữa con nhé.. ."

5. Để cuộc đời chan chứa niềm vui

Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.

Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

6. Yêu đến chết

Vào năm 1934 giáo lý viên Gioan Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền bắc Ấn Độ để truyền giáo cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn thờ vật linh. Sau 18 năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã theo Đạo và sống Đức Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên Gioan Caduna, thì được biết anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:

Thời gian đầu mới đến, anh Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói:

- Ở đây không có chỗ cho Chúa của mày! Gioan Caduna đáp:

- Tôi không thể đi nơi khác, vì tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và làm Chủ muôn loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận chết bi đát trên thập giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin vào Ngài thì được cứu độ!

Thế mà dân làng vẫn quyết liệt không muốn nghe lời anh Caduna giảng dạy. Họ đuổi anh đi. Anh đành phải chấp nhận ra khỏi làng và dựng một cái chòi bên cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi khi đi qua lều anh ở, đều phỉ nhổ và mạt sát Caduna:

- Cút đi cho xa, chúng tôi không muốn thấy mặt anh, và chúng tôi càng không muốn nghe anh nói về ông Giêsu nào đó! Caduna trả lời:

- Tôi không đi đâu được, Chúa Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết ở đây, để chứng tỏ lòng tôi rất yêu dân Majoribua.

Thời gian sau, anh Caduna chết vì bị bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Chính nhờ cái chết của anh mà ít lâu sau, tất cả dân trong làng xin theo đạo Công Giáo hết!

Anh Gioan Caduna đã đáp trả được tiếng Chúa Giêsu hỏi: “Con có yêu Thầy hơn nhưng người này không?” (Ga 21, 15-17). Vì “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu!” (Lm. Gioan Maria Vianey).

7. Niềm vui phải chia sẻ

Ông Archimède là một nhà vật lý học lừng danh trên thế giới. Ông đã khám phá ra một định luật nổi tiếng và người ta đã lấy tên ông mà đặt cho định luật này, định luật Archimède, đó là: “Một vật bỏ vào nước luôn luôn có một lực nâng vật đó lên.”

Có điều đáng nói là ông Archimede đã khám phá ra định luật này trong một hoàn cảnh rất đặc biệt: Ông đã tìm ra định luật đó ngay lúc ông đang ở trong phòng tắm. Ông quá vui mừng nên đã tông cửa phòng tắm chạy ra ngoài, hét to lên cho mọi người nghe thấy: “Eurêka! Eurêka!” nghĩa là: “Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy!”

Và điều đáng nói hơn cả là vì ông mừng quá đến nỗi ông chạy ra khỏi phòng tắm mà quên mặc quần áo!

Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ Maria đã nhận được niềm vui quá lớn lao: được diễm phúc trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria đã khám phá thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với niềm vui lớn lao đó, Mẹ Maria cũng đã vội vã lên đường đem niềm vui ấy chia sẻ cho người chị họ Isave.

8. Chú lính đánh trống

Trong cuốn Những Tâm Hồn Cao Thượng, có câu chuyện Chú Lính Đánh Trống rất cảm động:

Trong một cuộc giao chiến rất ác liệt giữa quân Ý và quân Áo, quân Ý với một đội quân 60 người đã bị quân Áo bao vây trên một ngọn đồi. Thấy mình yếu thế và sắp đi vào bước đường cùng, Viên Đại Úy già chỉ huy đội quân Ý đã gọi Chú Lính Đánh Trống thúc quân 14 tuổi, trao cho chú bức thư xin tiếp viện và dặn chú hãy đem thư đến cho đội quân Ý gần nhất để xin tiếp viện. Viên Đại Úy nói rằng: cả đại đội trông chờ vào lòng can đảm và đôi chân mạnh mẽ của chú.

Chú Lính Đánh Trống lập tức băng xuống đồi dưới làn mưa đạn của quân thù. Chú chạy thật nhanh để có thể hoàn thành được sứ mạng quan trọng này. Có lúc người ta nhìn thấy chú ngã quỵ xuống như bị trúng đạn, nhưng chú lại vùng lên khập khiễng chạy tiếp, tìm đến đội quân tiếp viện.

Cuối cùng, quân tiếp viện đã đến kịp và quân Ý được cứu thoát.

Khi cuộc giao tranh chấm dứt, Viên Đại Úy đã đến bệnh viện để thăm những người lính bị thương. Đang đi, Viên Đại Úy chợt nhìn thấy Chú Lính Đánh Trống đang nằm trên một giường bệnh với chiếc mền đắp ngang ngực. Ông ta dừng lại hỏi:

– Chắc là chú mất nhiều máu lắm nên mới bị xanh xao như thế kia!

Chú Lính Đánh Trống trả lời:

– Thưa Đại Úy, có cái mất còn hơn cả máu nữa!

Nói xong chú lật tấm mền ra, Viên Đại Úy xúc động đến bàng hoàng: chú lính đánh trống chỉ còn một chân! cái chân kia đã bị cưa cụt!

Ngay lúc ấy vị Bác Sĩ bệnh viện đi tới và nói:

– Chú lính này chỉ bị thương nhẹ, nhưng vì không giữ gìn, chạy nhảy nhiều, vết thương sưng tấy lên quá nặng, đành phải cưa chân. Nhưng được cái chú rất can đảm không khóc khi cưa chân!

Nói xong vị Bác Sĩ bỏ đi.

Lúc bấy giờ, Viên Đại Úy xúc động đứng trong tư thế nghiêm, giơ tay ngang đầu. Chú Lính Đánh Trống kêu lên:

– Đại Úy chào em hay sao?

Viên Đại Úy đáp:

– Vâng, tôi chỉ là Viên Đại Úy, còn em, em mới chính là một vị Anh Hùng!

Chú Lính Đánh Trống can đảm đã dám hy sinh một phần thân thể để hoàn thành nhiệm vụ của một người đưa tin.

Chúng ta cũng hãy biết can đảm vượt qua mọi gian khó, vượt qua chính sự ích kỷ và tính ươn lười của bản thân, để sẵn sàng đem Chúa đến cho mọi người.

9. Có quên mình, có hạnh phúc

Cha Jean Lafrance suy ngắm đoạn Tin Mừng hôm nay và đã viết: “Khi hai tâm hồn biết cầu nguyện thì họ liền gặp nhau một cách sâu xa bởi hai con tim lúc đó tràn ngập Chúa Thánh Thần.” Một tâm hồn cầu nguyện cho được sinh đứa con đang khi bị coi là hiếm muộn; một tâm hồn cầu nguyện cho được chu toàn thánh ý Chúa Cha trong ngày truyền tin. Và thế là khi hai tâm hồn đó gặp nhau, hạnh phúc vỡ òa. “Đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng” là một minh chứng cho niềm vui thánh thiện của bà Ê-li-sa-bét được Đức Ma-ri-a đang cưu mang Đấng Cứu Thế đến viếng thăm.

Khi niềm vui được chia sẻ, niềm vui sẽ nhân ra gấp bội. Và niềm vui ấy đã và đang lan rộng khắp cùng bờ cõi trái đất khi nhân loại hằng năm mừng sinh nhật Đấng Cứu Thế.

Dâng mình cho Chúa để thuộc về Ngài, đó cũng là hành vi muốn sống hết mình cho tha nhân. Đó là việc vẫn diễn ra trong cuộc đời của Mẹ Ma-ri-a. Thánh hiến là hồng ân Chúa ban và là cách để nên muối men cho đời.

10. Vẽ sự bình an

Paolo Turturro, một linh mục chánh xứ tại Palermo, đã phát động cuộc thi cho trẻ em viết một bài thơ, hay vẽ một bức tranh về hoà bình. Có đến 120.000 em tham gia, cả một vài em ở ngoài Sicily. Tác phẩm thắng giải là một bài thơ với tựa đề ‘Vẽ Sự Bình an’ (Painting Peace):

Em có một hộp màu.
Không có màu máu đỏ cho vết thương của em.
Không có màu đen cho nỗi buồn của người yêu dấu.
Không có màu vàng cho sự ghen ghét trong thế giới.
Có màu xanh:
Em ngồi… Và em vẽ sự Bình An.

‘Painting Peace’ đã được cha Turturro dùng đặt tên cho một tổ chức ngài thành lập ở Palermo, giúp giữ gìn giới trẻ khỏi bàn tay của Mafia.

Ai cũng nói mình mong ước sự bình an. Nhưng trong bản tin thế giới hằng ngày trên báo chí, TV… ai cũng thấy sao mà có quá nhiều tranh chấp, xô xát… Phải chăng đó là phác họa chân dung tâm hồn của nhân loại hôm nay, một bức chân dung thiếu vắng sự bình an?!

11. Có phúc vì đã tin

Trong tiểu sử thánh nữ Têrêxa Hài Đồng có ghi một câu chuyện cảm động. Cô bé Têrêxa đã tha thiết cầu nguyện kèm theo những hy sinh với ý chỉ cầu cho một người tử tù, anh Pranzini, được ăn năn trở lại chỉ vì cô tin chắc rằng Chúa sẽ thực hiện điều Ngài đã hứa. Têrêxa đã được toại nguyện: trước khi chết, Pranzini đã cầm thánh giá hôn ba lần. Cô cảm thấy hạnh phúc đến rơi lệ vì Chúa đã nhận lời cầu xin của cô. Giống như Đức Maria, Têrêxa được kể vào số những người “có phúc vì đã tin” rằng lời Chúa hứa sẽ được thực hiện.

Đức Mẹ đã tin vào lời Chúa phán cùng Mẹ, Tê-rê-xa đã tin vào ơn cứu độ Chúa Giê-su mang đến, nên cả hai đã cộng tác tích cực vào công trình cứu độ của Chúa Giê-su, mang ơn cứu độ đến cho người khác. Các ngài là những người thật có phúc.

Phần bạn, phải chăng não trạng thực dụng đã tác động sâu vào đời sống đức tin của bạn khiến bạn lắm khi hoài nghi về hiệu năng của lời cầu nguyện. Mời bạn kiểm điểm xem có bao giờ bạn dâng việc lành nào đó để cầu nguyện cho người khác không.

Đó cũng là cách để xoá tan mối hoài nghi để bạn tin vào lời hứa cứu độ của Chúa và nhờ đó bạn được kể vào số những người được Chúa chúc phúc.

12. Maria dám tin

Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang sống. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.

Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến. Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.

Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."

Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.

Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.

Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.

13. Ngôi sao biển

Một người đàn ông ăn mặc tồi tàn, lang thang vào một thánh đường trong giờ thánh lễ dành cho thiếu nhi. Ông ta ngồi xuống và ngủ gật. Cuối lễ, các em hát bài thánh ca ca tụng Mẹ Maria, bài thánh ca kết thúc với những lời này: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, Ngôi sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.” Người đàn ông đột nhiên bắt đầu khóc. Khi có người lại gần, ông nói: “Bài thánh ca đó tôi chưa từng nghe. Tôi đã bỏ lễ từ nhiều năm. Bài ca về Mẹ Maria đem lại đức tin cho tôi. Một lần nữa, Mẹ là nguồn ơn phúc.”

Mẹ Chúa Giêsu đóng vai trò gì trong đời sống thiêng liêng của tôi?

Lạy Mẹ Thiên Chúa, Ngôi Sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.

14. Vai trò của Mẹ Maria

Một em bé đánh giầy đang làm việc ở nhà ga trung tâm Nữu Uớc. Trong khi dùng miếng vải đánh đi đánh lại đôi giầy của một ông khách, chiếc mề đay bằng bạc đong đưa nơi cổ em. Ông khách tò mò hỏi: “Sonny, cháu đeo miếng kim loại gì ở cổ thế?” Cậu bé đáp: “Đó là ảnh Mẹ Chúa Giêsu.” Ông khách hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh Bà ấy? Bà ấy không khác mẹ em sao?” Cậu bé trả lời: “Có thể như vậy, nhưng có một khác biệt lớn thực sự giữa con trai bà ấy và cháu.”

Lòng sùng kính của cậu bé đối với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, mời gọi tôi tự hỏi: Đức Maria giữ vai trò gì trong cuộc đời tôi? Làm thế nào để Người đóng vai trò lớn hơn?

Kính chào Mẹ Maria, người phụ nữ dịu dàng, sứ giả hòa bình. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan và biết yêu thương. (Carrol Landry).

NGÀY 22/12

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

NGÀY 23/12 - GIOAN TẨY GIẢ SINH RA

Lời Chúa: Lc 1, 57-66

Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà.

Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan.”

Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó.” Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan.” Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.

Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó.”

TRUYỆN KỂ

1. Được là công cụ của Chúa

Cậu bé Phạm Tuấn Minh từng được mọi người biết đến với khả năng ghi nhớ lịch vạn niên, quy đổi ngày âm - dương chỉ trong vài giây, thuộc tất cả quốc kỳ trên thế giới khi mới lên bốn tuổi. Cậu bé được đánh giá có bộ óc như máy tính, nghìn người chưa có một. Thế nhưng bây giờ, chị Phạm Thị Hà, mẹ bé Tuấn Minh, cho biết sau khi tài năng tỏa sáng rất sớm, nay em không có biểu hiện gì đặc biệt. Có lẽ không riêng gì Tuấn Minh, biết bao nhiêu tài năng nhí cũng chỉ “lóe sáng” rồi tắt ngúm, chẳng còn mấy ai nhớ đến. Riêng cậu bé Gio-an, chẳng tỏa sáng gì về tài năng, nhưng lại được mọi người ghi nhớ chỉ vì ngay từ trong bụng mẹ đã thuộc về Chúa, cũng như vì cả cuộc đời ấy được Chúa dùng làm phương thế loan báo hồng ân cứu độ cho nhân gian. Chúng ta cũng thuộc về Chúa, hãy để Chúa sử dụng ta như khí cụ loan báo Tin Mừng tình yêu của Ngài.

Bạn và tôi được Chúa ban cho ơn huệ lớn lao được hiện hữu trên đời. Chúng ta cũng được Ngài ban cho không ít thì nhiều những khả năng cần thiết trong cuộc đời. Bạn dùng khả năng đó để làm gì cho Chúa và Giáo Hội?

Kẻ “có tật thì có tài,” không ai là “khuyết tật” trước mặt Chúa. Bạn có yên tâm trao con người bạn, dù còn lắm khiếm khuyết, cho Chúa sử dụng để làm vinh danh Chúa không?

2.

Ngày 24/12

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lời Chúa Tuần 3 & 4 Mùa Vọng
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch