LỜI
CHÚA TUẦN 25 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 25A - THIÊN CHÚA-CHA
NHÂN LÀNH
CNTN 25B - NGƯỜI LỚN NHẤT TRONG NƯỚC TRỜI
CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE, GABRIE, RAPHAE
THỨ HAI - ĐÈN SÁNG ĐẶT ĐÚNG CHỖ
THỨ BA - MẸ CHÚA VÀ ANH EM CHÚA
THỨ TƯ - SAI 12 TÔNG ĐỒ ĐI RAO GIẢNG
THỨ NĂM - CÂU HỎI VỀ CHÚA GIÊSU
THỨ SÁU - ĐẤNG KITÔ CHỊU NHIỀU ĐAU KHỔ
THỨ BẢY - CHẤP NHẬN KHỔ ĐAU VỚI TÌNH YÊU
CNTN 25A - THIÊN CHÚA-CHA
NHÂN LÀNH
Lời Chúa: Mt 20, 1-16a
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê
người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền
công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở
ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các
ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng."
Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông
lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng
nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai
thuê chúng tôi." Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho
ta."
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người
quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người
đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười
một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm
trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng.
Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết
chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng
chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn,
tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng
sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng
bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì
tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ
nên sau hết."
TRUYỆN
KỂ
1. Đường
lối của Chúa
Flor McCarthy đã chứng kiến một
cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ
ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Ðó là một
buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu
ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn
thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Ðến trưa ông vẫn còn thấy đám người
ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo.
Hỏi kỹ thì mới biết họ là những
người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm
chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra
về, trông rất tội nghiệp.
Hôm đó McCarthy rất hối hận vì
đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện
như sau:
"Tư tưởng của Ta không giống
tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi"
"Như trời xanh cao hơn đất
bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu"
2.
Một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy
san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám
đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh
và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt.
Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera
và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm
mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ
chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người
hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạng ba bục bên
trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch
đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp
3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông.
Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc
huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
- Như thế là không công bình!
- Tại sao? Ông chủ tịch hỏi lại.
- Tôi hạng nhất, tôi phải được
thưởng.
- Thì anh đã được thưởng rồi.
Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người
hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh
đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau
chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn
đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất
cả còn họ thì chẳng được gì?
3.
Tình trạng thất nghiệp.
Mọi người phải có công ăn việc
làm để nuôi sống mình và gia đình. Ai cũng phải có một việc làm hoặc bằng chân
tay hoặc bằng trí óc. Không có việc làm là thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp
đã làm đau đầu các nhà lãnh đạo quốc gia vì phải tìm cách tạo công ăn việc làm
cho dân. Ngay như nước Mỹ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người
ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hằng năm (theo đài Hà nội đưa tin hồi 07g15
sáng ngày 21.09.1987).
Ngày nay, những người thất nghiệp
được nhận vào làm việc trong các nhà máy là một niềm vui và hy vọng. Ngày xưa
cũng không thiếu gì người thất nghiệp cả ngày ngồi ở chợ chờ đợi mà không có chủ
thuê, nếu được gọi vào làm công cho người ta thì là một sự may mắn.
4.
Cách thuê thợ ở Palestine.
Ở Palestine, mùa hái nho chính
vào đầu tháng 10. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mưa đến
thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian để kịp thu hoạch. Bất
cứ người làm công nào cũng được thu nhận dù người đó chỉ làm được một giờ.
Tiền công trả cũng bình thường,
một denier (một quan tiền) là tiền công của một ngày bình thường của một người
làm mướn. Những người đứng ở chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường
xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người
ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến
khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người
chờ đến 5 giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Thời giờ trong dụ ngôn cũng là
thời giờ bình thường của người Do thái. Giờ của người Do thái bắt đầu từ 6 giờ
sáng và được tính từ đó đến 6 giờ chiều. Tính từ 6 giờ sáng thì giờ thứ 3 là 9
giờ sáng, giờ thứ 6 là 12 giờ trưa, và giờ thứ 11 là 5 giờ chiều.
5.
Với Chúa không có mặc cả so đo.
Một người công giáo thấy mình chết
phải đến tòa phán xét. Vừa bước chân vào pháp đình, một tòa nhà nguy nga đồ sộ,
liền thấy một quang cảnh vừa uy nghiêm vừa im lặng đáng sợ. Trên ngai cao rực rỡ,
Chúa Giêsu ngồi oai nghi xử án, có các Thiên thần mặc toàn trắng chầu chực giúp
việc. Bên hữu Chúa có một cánh cửa rộng mở một lối đi tràn ngập ánh sáng. Còn
bên tả cũng có một cánh cửa, nhưng lớn hơn và nhìn vào chỉ thấy đen thăm thẳm.
Trước mắt Chúa đặt một chiếc bục để con người đến đứng trình diện. Cả một biển
người đủ mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc, sang hèn cao thấp chen chúc nhau, hồi hộp
chờ đợi.
Và một hồi chuông rung lên, một
Thiên thần cầm một quyển sổ đọc tên thì thấy một đứa bé da đen khoảng 10 tuổi
đi đến đứng trên bục. Rồi Thiên thần trình cho Chúa một tờ giấy, thấy Chúa mỉm
cười và giơ tay chúc lành cho em. Lập tức các Thiên thần xúm lại dẫn em vào cửa
có ánh sáng giữa tiếng đàn đón chào tưng bừng.
Tiếp đến là một thanh niên da trắng
và Thiên thần cũng làm như lần đầu, nhưng thấy mặt Chúa phẫn nộ giơ tay xua đuổi.
Tức khắc, mấy thằng qủi nhảy tới chộp ngay lấy chàng thanh niên và lôi tuột vào
cửa đen ngòm giữa tiếng la hét chửi rủa. Cứ như thế cuộc phán xét tiếp tục khi
thì vui mừng khi thì đau thương.
Bỗng người công giáo thấy bà già
bên luơng bước lên bục phán xét và bà ta được Chúa cho lên thiên đàng. Thấy thế,
ông công giáo mừng thầm trong bụng. Đến lượt một người mà ông biết rất rõ và
tin chắc thế nào cũng bị phạt vì đời sống của người ấy quá bê tha tội lỗi.
Nhưng kìa Chúa mỉm cười và được các Thiên thần an ủi dẫn vào luyện ngục.
Đến đây người công giáo chắc mẩm
mình sẽ được Chúa thương vì dù sao mình cũng đã theo Chúa bấy lâu nay. Do đó,
khi được gọi lên toà phán xét, ông ta tỏ vẻ hiên ngang vui sướng, nhưng khi
nghe Thiên thần báo cáo với Chúa về những gì đã sống thì ông ta xanh mặt run rẩy.
Chúa phẫn nộ xua đuổi, lập tức ba thằng quỉ lôi tuột ông ta vào hỏa ngục. Ông
ta thét lên đau đớn và tỉnh dậy. Té ra ông ta nằm mơ. Một giấc mơ hãi hùng khủng
khiếp khiến ông lạnh toát cả người, suy nghĩ đặt lại vấn đề sống xưa nay. Vậy
Chúa đã tỏ cho biết sai chỗ nào nghiêm trọng đến nỗi bị sa hoả ngục. (Quê Ngọc,
Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 117)
Đọc câu truyện trên, chúng ta thấy
Chúa muốn chúng ta sống với Chúa như tình con thảo chứ không muốn chúng ta sống
như một người làm thuê, tính toán sòng phẳng. Thực ra, những gì chúng ta có là
do hồng ân Chúa ban, là món quà Chúa ban nhưng không.
6.
Hai bài học cho ta.
a) Bài học thứ nhất: như đã nói:
mọi công việc đối với Chúa đều bằng nhau, Vấn đề không phải ở số lượng công việc
nhưng ở tình yêu thúc đẩy làm công việc đó. Một người có thể tặng chúng ta một
món quà cả trăm ngàn, chúng ta rất biết ơn người đó. Một em bé có thể tặng
chúng ta một món quà chỉ đáng giá vài ngàn, nhưng đó là món quà dành dụm đầy nỗ
lực và yêu thương của nó, dù món quà nhỏ không giá trị bao nhiêu nhưng nó khiến
chúng ta cảm động nhiều hơn. Thiên Chúa không nhìn vào số lượng công việc của
chúng ta. Bao lâu ta còn làm, công việc đều được xếp như nhau trước mặt Chúa.
b) Bài học thứ hai: Đó là tất cả
mọi sự Chúa ban cho ta đều là ân sủng của Ngài. Chúng ta không thể làm ra những
điều Chúa ban cho, chúng ta không xứng đáng với điều đó. Thiên Chúa cho chúng
ta là do bởi lòng tốt của Ngài, bởi ân sủng Ngài. Tất cả những gì Chúa ban cho
không phải là để trả công nhưng là quà tặng, đó không phải là phần thưởng nhưng
là ân sủng.
7.
Cha Sở và Cha Phó.
Tại một xứ đạo kia số giáo dân
khá đông, có Cha Sở, Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng
thành, nên có hai nhóm xung khắc với nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia mến
Cha phó, vì ngài còn trẻ, năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến
trao đổi tâm tình với ngài:
- Thưa cha, cha ở đây đã lâu
năm, công dầy, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ mình – bỏ đi
công lao cha xây dựng? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng
cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời:
- Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả
hơn?
- Cha Phó.
Cha Sở chậm rải nói tiếp:
- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt
động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp Ngài bằng cách cho
những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao
các ông bà so bì với tôi – một người đáng lẽ đã về hưu?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với
mình, nhóm kia chống chế:
- Cha cũng đã từng hoạt động dấn
thân, có khi còn hơn Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp:
- Và tôi cũng đã từng được người
ta qúi mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một
số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục
Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá!
Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.
8. Ân
sùng là nhưng không
Bạn là chủ hộ một căn nhà trị
giá 1 tỷ. Một người đến đề nghị mua nhà bạn với giá 2 tỷ. Bạn thật là vui mừng
và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng
hai ngôi nhà kế cận, chỉ trị giá 700 triệu và 500 triệu, cũng đã được ông chủ
đó mua với giá 2 tỷ, ngang bằng với giá ông đã mua nhà bạn. Thật là tin sét
đánh đối với bạn. Nhà bạn to lớn sang trọng ông ấy đã mua 2 tỷ. Hai nhà hàng
xóm kia, nhỏ hẹp, chỉ đáng giá mấy trăm triệu mà ổng cũng mua 2 tỷ. Bạn liền giận
dữ, gọi điện thoại cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta
liền trả lời: Tôi có làm gì phỉnh gạt anh đâu? Tôi muốn mua giá cao là tùy ở tôi
chứ?
9.
Ông vua nhân từ và quảng đại
Tại nước Tây Ban Nha có một ông
vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường
dân rồi vi hành đi đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của
nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời chấn chỉnh sửa sai.
Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh kia và thuê một phòng trọ trong một nhà
nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc
gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt
ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng
ông không phải là loại khách du lịch xoàng." Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi
phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: “Sao anh lại nói như vậy?” Người bồi phòng
trả lời rằng: “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những
người bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô
Ma-trit (Madrid) cũng nên." Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: “Một cách nào
đó anh nói cũng đúng đó!” Anh bồi phòng lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một
quan chức luôn hầu cận bên đức vua?” Nhà vua trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai
chút nào." Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ đức vua
thì thông thường phải làm những việc gì hả ông?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp:
“Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài."
Người bồi phòng trong câu chuyện
trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về
ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng là minh họa sống động về
long nhân từ và bao dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong
Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi.
Họ đều được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào các giờ khác nhau, đặc biệt
vào giờ thứ mười một là lúc cuối đời. Đây cũng là trường hợp của người trộm
lành cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá bên cạnh Đức Giêsu. Nhờ lòng tin và
thành tâm sám hối mà anh trộm lành đã được Người tha tội và ban hạnh phúc đời đời:
“Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”
10.
Đừng so sánh thì hết ganh tị
Ganh tị là căn bệnh trầm kha, rất
khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng ta thử xem có
phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này không.
Nguyên nhân sinh ra ganh tị là
vì người ta so sánh phận mình với thân phận người khác và thấy mình thua kém. Vậy
thì cách tốt nhất để diệt trừ ganh tị là đừng so sánh phận mình với bất cứ ai.
Mỗi người được sinh ra trên đời
là một nhân vật độc đáo, mỗi người một vẻ, không ai giống ai, mỗi người đều có
tính cách riêng, một sứ mạng riêng, một trách nhiệm riêng…
Trong lĩnh vực âm nhạc, có nhiều
nhạc cụ khác nhau với những tính cách khác nhau: đàn guitar điện (ghi-ta) và
guitar bass (ghi-ta bass) na ná giống nhau nhưng tấu lên những âm thanh có cung
bậc trầm bổng khác nhau; đàn organ và piano có hình thù gần giống nhau nhưng
phát ra tiếng nhạc khác nhau…
Mỗi thứ nhạc cụ đều có cái hay
riêng của mình; vì thế, guitar bass đừng “buồn” vì âm thanh của mình trầm đục,
không sôi nổi như âm thanh guitar điện. Dù sao, những âm trầm, đục của guitar
bass là một hỗ trợ rất cần thiết, làm cho ban nhạc sinh động hơn.
Tương tự như thế, piano cũng
không nên “ganh tị” vì âm thanh của mình không đa dạng, nhiều sắc màu như
organ, vì piano cũng là một nhạc khí cần thiết cho nhiều ban nhạc khi trình diễn.
Vậy thì đừng đem tiếng đàn
guitar điện so với tiếng đàn guitar bass hay so tiếng đàn piano với tiếng đàn
organ để phân định hơn thua… So sánh như thế là hoàn toàn khập khiễng.
Giữa con người với nhau cũng vậy.
Mỗi người có một số khả năng riêng, cũng như các nhạc cụ có những âm sắc
riêng... Đem tiếng đàn guitar điện so với tiếng đàn guitar bass để xác định hơn
thua là khập khiễng như thế nào, thì đem khả năng của người này so với khả năng
người kia cũng khập khiễng như vậy.
Vậy thì ta đừng so sánh hơn thua
với người khác. Tốt nhất là so sánh bản thân ta hôm nay với bản thân ta năm
ngoái, xem hơn thua thế nào. Nếu thua thì nên lấy làm tiếc và cố gắng để tiến
lên; nếu cái tôi trong hiện tại tốt hơn cái tôi quá khứ thì hãy vui mừng và tiếp
tục cố gắng để vượt lên chính mình. Đây là cuộc ganh đua lành mạnh và bổ ích;
còn ganh đua với người khác thì chỉ sinh ra ganh tị, ganh ghét mà thôi.
11.
Ganh tị và tham lam
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16
tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của
mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất
độc đó để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sứ quan vào giữa
triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ
có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì
mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở
miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được
ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở
miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người
ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ, thà không được gì còn hơn để tên tham
lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “tôi xin được chặt đứt một cánh tay…."
Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
12.
Người đó, chính là bạn
Trong cuốn sách mang tựa đề:
“Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn
Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ
lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn
thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu
xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa."
Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ
la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…."
“Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…." Gan mật họ sôi lên. Họ bắt
đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích:’Giờ
phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của
Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu:
“Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản
đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương
cách mù quáng như thế." Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được
Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải
luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy."
13.
Ao ước mù một mắt
Chuyện kể rằng có người đàn ông
rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó
là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi. Thế là
khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy.
Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng… Không chịu được sự
"bất công" đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để
người hàng xóm bị mù cả hai!
14.
Người thợ giờ thứ 11
Vào tối ngày thứ hai,
20/11/2006, khá đông giáo dân ở các giáo xứ lân cận đã đến nhà thờ Chí Hòa để
tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một
linh mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban.
Chưa tới 19 giờ 00 mà giáo xứ đã
đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng
hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, linh mục
Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập
gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ
bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.
Sôi nổi và sinh động nhất là phần
chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm
tạ Chúa vì Người đã ban cho anh đức tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng
hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị lương y
tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người mẹ hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc
đời của anh.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh
viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống,
không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người
chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy
xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau
đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những
người thân quen.
Có một nhóm anh chị em Công giáo
đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến nhà thờ cầu
nguyện; được linh mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn
được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới
nhà thờ và xin đăng ký học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít
ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.
Nhưng đáng phục nhất là lời cầu
nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con đức tin. Con muốn
được ơn tin vào Chúa! ” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng
khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm
trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm
nhiều việc lành phúc đức. (Theo VietCatholicNews 22/11/2006)
Hai năm sau, cơn bệnh tái phát,
anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23/9/2008. Lm Anmai,
DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng
lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.
15.
Nỗi khổ của người ganh tị
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời
của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Câu chuyện diễn tả
Mazart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại
là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba. Một trong những nhân vật đáng
chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri đã khinh ghét
và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao
Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được
trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của
Thiên Chúa, vân phục đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt
hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài
năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart
còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận
được. Tuy vậy, Vua Joseph II Áo Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được
sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng
tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn
đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe dọa
về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart. Solieri rất ganh tị
và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang
lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải
yêu thích nó. Tuy nhiên ông lại muốn là chính ông đã sáng tác nó. Solieri biết
rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng
đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phúc phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm
thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh Thánh Giá treo trên tường xuống, đem
đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được
Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy
trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những
nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
16.
Giám mục trong Những kẻ khốn cùng
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn
thành nhạc kịch “những kẻ khốn cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật
chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị
tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói.
Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ
qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong
nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa
ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà gíup việc cực lực phản đối giám mục
đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà tòa giám mục thường
dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, Valjean đã ăn cắp toàn bỗ muỗng dĩa bằng bạc, rồi
trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu
thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức Giám Mục đã cho anh những món đồ quý
giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại tòa giám mục với những món
đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến tòa giám mục, Đức Giám Mục đã nói ngay rằng
ngài rất vui mừng gặp lạị Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái
chân đèn bằng bạc nữa. Hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh
hưởng lưón lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và
trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục
vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
17.
Ðức ái không có biên giới
Sinh năm 1929 trong một gia đình
trung lưu Nhật Bản, tương lai của cô Satôcô như đã được sắp đặt sẵn. Là một người
nhất mực bảo thủ với các truyền thống trong gia đình Nhật, cha của Satôcô, cũng
là một tiến sĩ nông học, đã muốn giáo dục cô theo tiêu chuẩn của các thiếu nữ
con nhà thượng lưu thời ấy: trung thành với Nhật hoàng; tòng phục cha mẹ; học
những phong cách và lễ nghi quý phái để sau này phục dịch một đức lang quân do
cha mẹ sắp xếp. Thế nhưng cha cô có ngờ đâu rằng, một ngày kia, con gái ông sẽ
vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình ấy.
Năm 1941, Nhật khai chiến với Mỹ.
Cha của Satôcô bị động viên vào quân đội; còn cô và em trai bị ép buộc vào làm
việc ở một hãnh chế tạo máy bay. Năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, cô ngã bệnh
lao vì kiệt lực; còn em trai cô đã chết trước đó cũng vì lao lực. Năm 1946, cô
vào học trường Dược ở Tôkyô. Một ngày nọ, đang lúc đi dạo ngoài bãi biển,
Satôcô bị cuốn hút chú ý đến hai Nữ Tu Thừa Sai Bỉ. Tuy không là người công
giáo, nhưng một động cơ nào đó đã thúc đẩy cô theo chân hai nữ tu vào trong một
nhà thờ. Vẻ đẹp của gương mặt bức tượng Ðức Nữ Ðồng Trinh như xoáy vào tim cô.
Trở về nhà, cô đã học đạo với các Nữ Tu Thừa Sai và được rửa tội năm 1949. Ðó
cũng là năm cô đậu bằng dược sĩ.
Thời ấy, có một thừa sai
Phanxicô người Ba Lan tên là Thầy Ðô (Deno Sebroski), hoạt động nổi tiếng cho
người nghèo ở khu ổ chuột Annê, ngoại ô Tôkyô. Cùng với một nhóm tu sĩ Ba Lan
do thánh Maximilianô Kôlbê (sau tử đạo trong trại tập trung Ðức quốc xã) hướng
dẫn, Thầy Ðô đã đến Nagasaki từ năm 1930. Vì những hoạt động nhân đạo nổi tiếng
của Thầy, Thầy là người ngoại quốc duy nhất không bị bắt giữ trong chiến tranh,
mà còn được chính Nhật hoàng ban thư giới thiệu, kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ
Thầy. Khi nghe biết về Thầy Ðô, Satôcô đã nói với cha cô: "Nếu những người
Ba Lan từ xa xôi đến Nhật để tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo, tại sao các
tín hữu Nhật không thể làm như thế?" Thế là Satôcô đã đến gặp Thầy Ðô và
xin đi thăm khu Annê. Ðêm hôm đó, cô không sao chợp mắt vì đầu óc miên man với
hình ảnh những con người bất hạnh cô gặp ở Annê. Hơn nữa, gương mặt cũa vị tu
sĩ già, lúc nào cũng ánh lên lòng thương xót và ý chí sắt đá phục vụ người
nghèo, trở nên một thách thức đối với cô.
Sống chết với người nghèo
Khi thức giấc sáng hôm sau,
Satôcô đi đến một quyết định táo bạo là phục vụ người nghèo mà không cần biết hậu
quả sẽ ra sao. Công việc đầu tay của cô ở Annê là tổ chức lễ Giáng Sinh năm
1950 cho trẻ em. Sau đó cô vẫn tiếp tục sinh hoạt đều đặn với các em: dạy học,
chăm sóc, nghe các em tâm sự về hoàn cảnh gia đình. Tuy thế, người dân Annê
chưa tin tưởng cô. Họ nghĩ rằng cô tiểu thư nhà giàu ấy không sống cho họ,
nhưng chỉ vì Chúa; cô yêu Chúa chứ thương yêu gì họ. Hơn nữa, người dân Annê
tuy nghèo nhưng luôn hãnh diện về khả năng sinh sống nhờ thu lượm đồ phế liệu
chứ không muốn nhận của bố thí. Ðể chứng tỏ lòng thành thật của mình, Satôcô bắt
đầu đi lượm ve chai và đồ phế liệu, để kiếm quĩ tổ chức các sinh hoạt cho trẻ.
Dần dần, cô đã cảm hóa được những người lớn nhờ sự đơn sơ, vui vẻ và nhờ tình
thương chân thành cô dành cho con em họ. Chính người lãnh đạo cộng đoàn Annê tặng
cô chiếc xe đẩy để công việc thu lượm phế liệu của cô được dễ dàng hơn. Mỗi lần
cần món tiền lớn để tổ chức những sinh hoạt đặc biệt như đi nghỉ hè, Satôcô thường
cầu khẩn Mẹ Maria và luôn kiếm được số tiền cần thiết. Những hoạt động từ thiện
của cô đã gây tiếng vang, đến độ tên tuổi cô xuất hiện cả trên báo chí và truyền
hình.
Một lần nọ, cộng đoàn Annê muốn
mua lại của thành phố một thửa đất lớn để qui hoạch lại khu phố với một trung
tâm hướng nghiệp, một nhà thờ và một công viên. Tuy nhiên số tiền 25 triệu yên
vượt quá sức của cộng đồng. Nhân cuộc họp thương lượng lần cuối của lãnh đạo cộng
đồng với chính quyền thành phố, Satôcô đã trao cho phía chính phủ cuốn sách
"Những trẻ em ở khu ổ chuột Annê" mà cô viết 4 năm trước đó; đồng thời
cô cầu nguyện cật lực cho dự án này. Sau này khi cân nhắc lại, chính quyền đã đồng
ý nhượng khu đất với giá 15 triệu, trả góp trong 5 năm.
Vì làm việc quá sức, lại ăn ngủ
thất thường, nên chứng bệnh lao mang lúc 15 tuổi nay quay lại đòi mạng Satôcô.
Cô đã dâng căn bệnh cho Chúa để cầu nguyện cho người dân Annê có được cuộc sống
tươi đẹp hơn. Ngày 20.1.1958, khu phố mới Annê được khánh thành. Ba ngày sau,
"Satôcô của khu ổ chuột Annê" qua đời ở tuổi 29. Trong những ngày cuối
đời, cha mẹ cô đã đem cô trở lại Annê, để cô qua đời tại nơi cô hằng yêu mến
18.
Trở về không bào giờ muộn
Trong một buổi chia sẻ khinh
nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại, “Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ; lần
kia, cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời." Phim
kể chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh dể, làm khổ người mẹ
đang hết lòng yêu thương mình. Qua nhiều biến cố, cuối cùng, người mẹ đau khổ
đó chết; cô gái trở về, thống hối, tiếc thương. Về đến nhà hôm ấy, gia đình tôi
bàn tán ý nghĩa của chuyện phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình lớn tiếng,
“Bấy giờ mới trở về, ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi." Tôi
thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói,
“Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ." Thú thật, ngày
đó, tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi, nhưng bây giờ đã là mẹ,
tôi mới thấm thía ý nghĩa của nó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng trở
về với Chúa, và nhất là, tôi dễ dàng yêu thương tha thứ cho các con tôi."
19.
Chợ người
Báo Người Lao Động số 23.1993 có
đăng bài: Chợ Người Hà Nội.
Người Hà Nội bấy lâu nay đua
nhau xây nhà. Nếu thiếu nhân công lặt vặt là có thể ra ngay chợ người mua sức
lao động. Đội quân từ các tỉnh về Hà nội thường xuyên có đến hai ba chục ngàn
người. Rỗi việc nhà nông, ở quê không có người phụ...không việc làm, họ ra Hà nội,
tụ tập nhiều nhất là dọc đường đôi Giảng võ, trục đường dài theo đê Đại la, xuống
Láng... đến chợ Mộc... Công việc có nhiều giá. Việc lặt vặt như dọn đất đá,
khuân gạch tô vôi, quét vôi lóc thì khoán từ A đến Z, hoặc là cơm chủ hai bữa cộng
tiền công ba, bốn ngàn, hoặc là tự lo bữa ăn..thì 5,6 ngàn một ngày. Tiền công
như vậy là rẻ mạt. Cũng đành vậy thôi. Họ chỉ có đôi tay. Và còn hơn là không
có việc.
Người thuê cũng có ít. Vì ngại,
vì sợ người làm công quen cửa quen nhà mình rồi, làm xong biết đâu người ta
“xin đểu”,”trộm cắp, nhờ vả..." rách việc thêm.
Báo Tuổi trẻ ngày 4.4.1996 có
đăng bài: Chợ Người Ở Định Quán.
Nếu như ở Hà nội, dòng người xuất
phát từ nông thôn đổ xô về thành thị “nhóm chợ’ tìm việc làm thì tại Định Quán
(Đồng nai), một khu chợ mới đã hình thành trên quốc lộ 20 với những đặc trưng của
nó. Đó là những người lao động hình thành từ những làn sóng “di dân tự do’ it đất,
không có tư liệu sản xuất, đành phải bán sức lao động kiếm sống...Vùng này là
vùng có nhiều đất, có nhiều đá lộ đầu nên việc dùng cơ giới trong nông nghiệp bị
hạn chế. Do đó nhu cầu về lao động rất cao.Từ tháng tư đến tháng mười hai, thời
gian diễn ra vụ trồng, ngày ngày có hàng trăm lao động tụ tập ở “chợ” chờ đợi.
Những ngày cao điểm, vào vụ lên đến bốn năm trăm người. Những chiếc xe cải tiến,
xe máy xới chạy ì ạch, chở đầy những lao động từ “chợ người” đi về các vườn
cây, các nương rẫy. Mỗi lao động được từ 15.000 – 20.000đ /ngày. Những ngày cao
điểm có thể đến 30.000 – 40.000đ. Hôm sau, mờ mờ sáng chợ lại đông.
20.
Lời nguyện của Véronique
Và dưới đây là lời cầu nguyện của
một cô gái mắc bệnh phong cùi tên Véronique. Trong nỗi đau tột cùng vẫn ánh lên
niềm tin yêu tha thiết. Ước gì lời cầu nguyện chân tình đó cũng là tâm tự của bạn
và tôi, với Chúa và với tha nhân:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và xin
con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa mọi sự. Xưa kia, con ưa thích đọc
sách, và Chúa đã mượn cặp mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong rừng
thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con. Mỗi độ Xuân về, con tung tăng hái lượm
những cách hoa xuân, và Chúa lại xin đôi bàn tay. Bởi vì con là một phụ nữ, con
thích ngắm nhìn suối tóc óng ả, ưa nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của
con.
Thế mà bây giờ, đầu con như chẳng
còn sợi tóc nào, chẳng còn đâu những ngón tay xinh xinh, chỉ còn lại một vài
“que củi” khô queo, nhám nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn con, cái
thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến mức nào. Thế nhưng con không thể
nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.
Vâng, lạy Chúa, muôn đời con sẽ
dâng lên hai chữ “Tạ Ơn." Bởi vì hôm nay nếu Chúa truyền cho con phải vĩnh
biệt cõi đời, con sẽ chẳng tiếc hận gì.
Đời con đã được quá ư đầy tràn,
đến kỳ diệu tột độ: sống đắm mình trong tình yêu. Cuộc đời con được Chúa lấp đầy
chan chứa, vượt quá những gì mà tim con hằng mong ước.
Ôi lạy Cha, Cha đã đối xử quá đẹp
với bé gái Véronique của Cha, và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! Con xin dâng lời
nguyện tha thiết cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương cách đặc
biệt những ai đang bị “bệnh cùi tâm hồn”, đang đạp đổ, đè bẹp, và hủy hoại.
Con yêu thương đặc biệt những
con người bất hạnh ấy. Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến, chính mình
con cho họ, bởi vì họ là những anh chị em. con.
Ôi Tình Yêu của con, con xin
dâng Cha căn bệnh phong cùi nơi thân xác con để những người kia đừng bao giờ biết
đến cái đắng cay, lạnh lẽo kinh hồn của “bệnh cùi tâm hồn." Như mẹ hiền ấp
ủ con thơ, Cha hãy ôm con vào lòng và nhận chìm con xuống đáy tim Cha. Xin cho
con được mãi mãi ở đó cùng bao người thân yêu cho đến muôn đời. Amen.”
21.
Góc nhìn vị tha và vị kỷ
Một công ty thuê một cái tàu du
ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên làm việc giỏi và chăm chỉ. Đến
ngày đi, các nhân viên ngày xuống tàu và đi tìm phòng của mình. Chỉ vài phút
sau, một người chạy vội lên văn phòng muốn gặp vị thuyền trưởng. Một trong nhựng
viên chức phụ trách hỏi: “Ông muốn gặp thuyền trưởng để làm gì?” Người đó đáp:
“Tôi cũng làm việc giỏi và chăm chỉ như người bạn của tôi, thế mà tại sao anh
ta lại được căn phòng xinh đẹp hơn căn phòng của tôi?” Vị phụ trách trả lời:
“Thưa ông, căn phòng nào cũng giống nhau cả." Người đó nói: “Phải, nhưng
phòng của anh ta nhìn ra biển khơi, còn căn phòng của tôi chỉ nhìn thấy bến
tàu, trông chẳng hấp dẫn chút nào?”
Thật là tội nghiệp. Một khi tàu
rồi bến ra ngoài khơi thì hai bên đều nhìn thấy biển giống nhau. Một con chim sẻ
phàn nàn với Chúa: “Chúa cho con công nhiều màu sắc rực rỡ xinh đẹp, còn cho
chim hoàng anh thì hót thật hay trong khi con chẳng được gì và còn bị quên
lãng. Tại sao Chúa lại dựng nên con chỉ để cho con đau khổ?” Chúa nhẹ nhàng trả
lời: “Con không được tạo dựng để chịu đau khổ. Con đau khổ vì con phạm vào một
lỗi làm giống hệt như con người, đó là con so sánh mình với người khác. Hãy bằng
lòng với chính mình, vì không có so sánh thì cũng không có đau khổ."
Phải chăng nếu để ý sẽ thấy rằng
chúng ta thường hài lòng với những gì chúng ta có cho tới khi chúng ta so sánh
những gì mình có với những gì người khác có?
22.
Lòng tốt trả lương
Một buổi sáng đi ngang qua con
đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc bên lề
đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế ở vùng đấy, và được bác cho biết là họ đang
đứng chờ người thuê đi làm. Bác còn thêm: “Ở đây thuê Mễ rẻ lắm." Tôi hỏi
tiếp: “Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?” Bác trả lời: ‘Có người trả họ hai đồng một
giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng
thì hiếm lắm. Tụi nó... hả... trả bao nhiêu nó cũng làm hết." Thấy cảnh tượng
nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ có người sẽ được
thuê đi làm, được năm ba đồng nuôi sống gia đình (nghĩ thấy xã hội cũng bất
công...) và cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai
ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa
Giêsu diễn tả Nước trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn
nho của ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những
người thợ làm vườn nho trong bài Phúc âm đều được gia chủ gọi đi làm và được trả
công cân xứng.
23.
Mọi người đều hạnh phúc dù nhiều ít không bằng nhau
Nhưng Nước Trời không phải là nước
trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước
Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh
phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu
thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay
tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ
không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi
người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và
sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền
nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó
phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật,
thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu
một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại,
người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có
ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như
thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu
cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
24.
Tình yêu chia sẻ mang lại bình an
Ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi
một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới
không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một
cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới
bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới
và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc
cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu
cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều
nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì
mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui,
không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải
không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.
Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi
ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người
không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng
ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi
Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ
tình yêu hướng tha, không quy ngã, một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu
quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối
tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.
25.
Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn
sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì,
thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven
đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán
được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm
cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán
miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc
ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã
trả lời bác:
- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác
à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì
tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi
vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong
cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng
cho hạng người nào?
26.
Lòng quảng đại
Douglas được cả nước biết như là
người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến
nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức
là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công
việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu
kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa
đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà
lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công
nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một
tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã
gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
27.
Thiên Chúa công bình
Một hôm Thiên Chúa đi vào thiên
đàng. Ngài ngạc nhiên thấy tất cả những người chết đều được vào đó cả, không ai
bị sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô
cùng. Ngài gọi sứ thần Gáp-rien đến và bảo:
- Con hãy tập trung mọi người đến
trước mặt Ta. Đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Sứ thần đọc giới răn thứ nhất và
Chúa phán bảo:
- Những kẻ nào phạm giới răn thứ
nhất đó, hãy xéo khỏi mặt Ta, đi vào hỏa ngục ngay.
Một số người từ từ rời khỏi đám
đông và buồn bã khóc lóc đi vào hỏa ngục. Và sứ thần đọc tiếp các giới răn
khác, cứ sau mỗi giới răn đều có số người rời khỏi đám đông và than khóc đi xuống
hỏa ngục. Sau cùng chỉ còn lại có một người, người đó là một ẩn sĩ già.
Thấy vậy, Thiên Chúa hỏi sứ thần:
- Chỉ có một người này được vào
Thiên Đàng hay sao?
Nói xong, Ngài bảo sứ thần gọi
đám đông lại và cho họ trở vào thiên đàng. Thấy đám đông tội lỗi xấu xa thế mà
Chúa lại tha thứ cho trở lại thiên đàng, vị ẩn sĩ tức giận nói với Chúa:
- Chúa không phải là Đấng công
bình!
Thiên đàng chính là ngôi nhà của
tha thứ, của quảng đại khoan dung. Tha thứ khoan dung của Thiên Chúa dành cho
con người và tha thứ bao dung của con người dành cho nhau.
28.
Bất hạnh vì ganh tỵ
Traund là một kiến trúc sư nổi
tiếng và rất thành công trong sự nghiệp. Anh có vợ là Êlisabét và hai đứa con
ngoan. Gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Và công việc làm ăn của anh ngày
càng phát triển đến nỗi một mình làm không hết, phải hợp tác với Đavít mới đáp ứng
hết nhu cầu của khách hàng.
Lúc đầu mọi việc êm xuôi tốt đẹp.
Tình bạn đôi bên cùng sâu đậm. Nhưng sau một thời gian, Traund nhận thấy khách
hàng quý chuộng Đavít hơn, nhờ anh đứng thầu nhiều dự án xây cất hơn. Thế là
Traund nổi ghen lên, kiếm chuyện xích mích với bạn mãi, làm cho mối quan hệ giữa
hai người ngày càng căng thẳng, lôi kéo luôn số nhân viên chia rẽ kình địch
nhau.
Nhưng tai hại hơn cả là tình cảnh
gia đình Traund. Mỗi khi đi làm về, anh cáu gắt với vợ con. Đời sống gia đình
trở nên địa ngục sầu thảm. Rồi bàn tay phải của anh bắt đầu bị sưng khớp đau nhức,
bắt buộc anh phải bỏ công việc, vào bệnh viện chữa trị. Khi xuất viện về nhà,
anh như con sư tử bị giam trong củi.
Buồn khổ quá, vợ anh gọi điện
thoại đến Cha Micae Pacli là một linh mục chuyên chữa bệnh tâm linh. Cha tới gặp
anh, khuyên anh bỏ lòng ghen tuông, làm hòa với Đavít, để mọi việc được trở lại
tốt đẹp an vui. Anh không đồng ý mà còn giận dữ. Nhưng sau một lúc cầu nguyện
chung với anh, cha Micae đã khuyên bảo được anh viết thư xin lỗi Đavít.
Và lạ thay, từ đó ghen tuông của
anh tan biến, tay anh không còn bị sưng khớp nữa. Gia đình anh trở lại êm ấm hạnh
phúc, công việc làm ăn trở nên niềm vui cho anh như trước.
29.
Lòng quảng đại chân chính
Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và
Gioan cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo mỗi ông hãy mang theo một hòn
đá. Ông Phêrô nhặt một hòn đá nhỏ bỏ túi, còn ông Gioan vác cả một tảng đá to.
Do đường xa vác nặng, ông Gioan thở hổn hển và đến nơi sau hết. Còn ông Phêrô
bước đi nhẹ nhàng thảnh thơi nên đến nơi trước. Chúa Giêsu cho hai ông ngồi xuống,
rồi đọc lời chúc tụng, biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên chiếc bánh của ông
Phê rô nhỏ bé, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của ông. Còn ông Gioan thì ăn
no nê dư dật.
Lần khác, Chúa gọi hai ông leo
lên núi với Ngài nữa. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang theo một tảng đá
to, phải cố gắng hết sức mới vác nổi lên núi. Đến nơi, Chúa Giêsu bảo hai ông
ngồi xuống. Ông Phêrô trông đợi Chúa làm phép lạ nhưng Chúa bảo các ông ngồi
lên tảng đá mà các ông đã vác theo. Phêrô cảm thấy xấu hổ trách Chúa, nhưng
Chúa bảo:
- Lòng quảng đại đích thực không
phải là lòng quảng đại tính toán.
Chúng ta thường nói: "Có
qua có lại mới toại lòng nhau." Chúng ta cho là để được cho lại, chúng ta
làm ơn là để được trả ơn. Chúng ta lập công là để được thưởng công. Chúng ta
làm việc là để được lãnh lương như các người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm
nay.
Óc vụ lợi chi phối tất cả mọi
quan hệ của chúng ta với tha nhân cũng như đối với Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những người làm vườn
nho trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm thông thường của
chúng ta. Qua toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu mặc khải cho
chúng ta một Thiên Chúa quảng đại đến độ trao ban cách nhưng không cho chúng ta
Con Một của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta,
Ngài yêu thương mà không mong đền đáp nào của chúng ta.
Lòng quảng đại đích thực không
phải là lòng quảng đại tính toán. Tình yêu đích thực là trao ban cách nhưng
không.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên
trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời, sống quảng đại, sống san sẻ, sống yêu
thương cho đến cùng, như chính Ngài đã chết trao trên khổ giá. Tình yêu ấy mời
gọi chúng ta tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Người, tình yêu ấy mời gọi chúng
ta thanh luyện tình yêu ích kỷ, vụ lợi của chúng ta.
30.
Đường lối của Chúa
Có một người giáo dân hỏi cha sở:
Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi
Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa.
Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh
ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu.
Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải
nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: "Tôi không quên anh đâu;
nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện
ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc." Có phải anh muốn nói
thế không?: - Anh giáo dân cười nói: "Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp
khét tiếng, tội nào mà không có.."
Cha sở nói: "Vậy rõ ràng
anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người
ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng
không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng
thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi...
CNTN 25B - NGƯỜI LỚN NHẤT TRONG NƯỚC TRỜI
Lời
Chúa: Mc 9, 30-37
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người
không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ
bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người
sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các
ngài tới Capharnaum.
Khi
đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?"
Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.
Bấy
giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn
làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.”
Rồi
Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng:
"Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón
tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy,
nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy.”
TRUYỆN
KỂ
1. Ghen
tương đố kỵ
Những
ai đọc tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đều biết đến nhân vật Chu Du. Ông là một
vị tướng giỏi, túc trí đa mưu, nhưng lại có tính ghen tương đố kỵ. Đối thủ của
Chu Du là Gia Cát Lượng.
Khi bị
thua trận cách bẽ bàng, trước khi hộc máu miệng và chết, Chu Du đã thốt lên câu
cảm thán và câu này đã trở thành kinh điển: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng!”
Thật
thê thảm thân phận một con người nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngó đâu cũng thấy
tai hoạ! Hậu thế không khỏi xót xa cho một nhân tài mà không thắng nổi tính
ghen tương của chính mình.
2. Đầy
tớ của mọi người
Có một
giai thoại lý thú về bác sĩ Charles Mayo, người thường được nhắc tới với cái biệt
hiệu là “bác sĩ giám đốc đánh giày.” Cùng với cha và người em của mình, bác sĩ
Charles Mayo đã xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế giới tại thành phố
Rochester, bang Minnnesota, Hoa Kỳ.
Lần
kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh
viện, quý khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố
trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ Charles Mayo
làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các
phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng! Có thể họ đã quên
làm việc này chăng? Ông liền đi kiếm xi và bàn chải, rồi lần lượt đến trước mỗi
phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm
đó làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh
viện vẫn đang loay hoay đánh những chiếc giày cuối cùng cho các khách quý.
3. Tôn
Ngộ Không.
Trong
phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài
khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn
chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời.
Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá
trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn
ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy.
Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp
dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.
Khi
đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi
Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm
Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ,
thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ,
Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân
lý.
Phim
truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng
khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ
Không.
4. Vâng
lời nhận chức giám mục
Đức
Cha Lê hữu Từ đã kể lại trong Tuần giảng Tĩnh tâm cho Tiểu chủng viện Trung
Linh, Bùi Chu năm 1952. Khi được sắc phong Giám mục, ngài run sợ, từ dòng Châu
Sơn Thanh Hóa, đạp xe đạp cũ kỹ xuyên qua rừng núi hơn 400 km vào Huế, xin Đức
Khâm sứ Tòa thánh ban cho được từ chức. Hầu hết các Đức Giáo hoàng và Giám mục
đều muốn xin từ chức như vậy. Nhưng vẫn phải vâng theo ý Chúa như Đức Giêsu đã
cầu nguyện trong giờ hấp hối: “Lạy Cha, xin cất chén đắng này đi, nhưng đừng
theo ý Con, một theo ý Cha.”
5. Nghị
viên Paedateros.
Người
Hy lạp có một câu truyện về một người ơ thành Spartes tên gọi Paedateros là một
ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes.
Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố,
không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:
- Tiếc
thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh , anh sẽ
là một chính khách lỗi lạc đến thế nào"?
Nhưng
Paedateros thản nhiên đáp:
-
Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức
hơn tôi.
Đây
là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị
hàng
đầu
mà không hề tỏ ra cay đắng.
Nhà
văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: “Khi tôi ngủ,
tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục
vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui.”
6. Chân
phước Charles de Foucauld.
Cha
Charles de Foucauld, , biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một
viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng
rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld
tưởng như vậy là thành công và oai hùng.
Nhưng
nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời,
Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có
ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng
Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu
bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem
Tin Mừng cho người Phi châu.
Trong
đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã
đem nhiều linh hồn vê với Chúa.
7. Bác
sĩ Miki.
Bác
sĩ Miki trong phim "Vận mệnh" thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết…
có ý định tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh
và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa
phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh
phúc trong phục vụ.
Để kết
thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ
Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng
hoà nhạc Âu châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở
Phi châu:
"Tôi
không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn,
chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được
hạnh phúc.”
8. Người
công chính bị bách hại
Elia
Wiesel, một nhà văn Do Thái từng đoạt giải Nobel, kể câu chuyện sau đây:
Hồi
đó ông đã bị quốc xã Ðức bắt giam trong trại tập trung Auschwitz. Ðây là một trại
giam nổi tiếng là tàn bạo. Thỉnh thoảng bọn cai ngục bắt một số người đưa vào
phòng hơi ngạt cho họ bị chết một cái chết rất khủng khiếp.
Một
hôm, có một đám trẻ Do Thái được chọn để hôm sau được đưa vào phòng hơi ngạt ấy.
Nhìn thấy đám trẻ ngày mai phải chết, Elia Wiesel động lòng thương nên xin bọn
cai tù cho phép ông được ở chung với bọn trẻ ấy một đêm. Thật là ngạc nhiên, bọn
cai tù đồng ý ngay. Ðêm đó Elia Wiesel kể cho đám trẻ hết chuyện này đến chuyện
khác, mong làm chúng được vui. Nhưng kết quả trái ngược hẳn, ông không làm
chúng vui được mà chỉ làm cho chúng khóc, và chính ông cũng phải khóc theo.
Sáng
hôm sau, ông buồn bã tiễn chân đám trẻ vào phòng hơi ngạt rồi trở về phòng giam
của mình, mặt mày tiu nghỉu. Bọn cai tù thấy thế thì cười ngặt nghẽo. Thật là
vô tình và cũng thật tàn nhẫn.
Qua
chuyện ấy, chúng ta thấy sự trơ tráo của những kẻ làm điều ác, người vô tội bị
bách hại và chiến thắng của sự dữ (bài đọc I); chúng ta cũng thấy một tấm gương
phục vụ những người bé mọn mà Ðức Giêsu đề cao trong bài Tin Mừng.
9. Bản
tính thứ hai
Khi
Nelson Mandela là một sinh viên luật ở Johannes bourg, ông có một người bạn tên
Paul Mahabane. Ông này là thành viên của hội đồng Quốc gia Châu Phi (ANC), và nổi
tiếng là một người cấp tiến. Một ngày nọ khi hai người bạn đứng bên ngoài một
bưu điện thì một ông quan tòa địa phương, một người da trắng ngoài sáu mươi đến
gần Mahabane yêu cầu ông đi vào bên trong bưu điện mua giùm ông ít con tem. Hồi
đó, việc một người da trắng gọi một người da đen lại để làm một việc vặt là
chuyện bình thường. Paul từ chối. Ông quan tòa bị tổn thương.
“Mày
có biết tao là ai không?” Ông nói, mặt đỏ lên và giận dữ.
“Tôi
không cần biết ông là ai .” Mahabane đáp lại. “Tôi biết ông là gì.”
Ông
quan tòa lồng lộn lên và nói: “Mày phải trả giá đắt về việc này.” Nói xong ông
ta bỏ đi.
Người
da trắng ấy tin chắc rằng mình có địa vị cao hơn Mahabane chỉ vì ông là quan
tòa. Và rõ ràng điều đó đã trở thành bản tính thứ hai của ông khi ông chờ đợi
những người khác phục vụ ông, đặc biệt khi họ là da đen.
10.
Ai là người lớn nhất
Linh
mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục
mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở Chủng viện, Vianney thi không đủ
điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được
phong chức Linh mục.
Vì thấy
Cha quá kém cỏi. Ðức Giám Mục đưa Cha đi làm Cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền
quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng Cha Vianney đã tận dụng
tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày
Cha chỉ nghỉ ngơi 3,4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi toà giải tội thì liên miên, có
khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi
khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ.
Dần dần
cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác
cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các Linh mục,
Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ Cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết
tiểu sử của Cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội Nước Pháp mà có được chỉ một vài
Linh mục như Cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên Thánh,.
Ðó mới
là người lớn thật mặc dù chỉ là một Linh mục học kém, một Cha sở nhà quê, bởi
vì sức phục vụ của Cha thật là lớn. Kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một
người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm
ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách
giúp ích cho người khác.
Bài học
của CG hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.
11. Đón
nhận một đứa trẻ vì danh Thầy
Một
linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:
Tại một
vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một
phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về
là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang
mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết
trên giường sinh.
Biến
cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh
chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ.
Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ,
dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu
số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.
Người
ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi
hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở
trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.
Một hôm
vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ
bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố.
Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ
chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính
nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa
cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét
đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.
“Ai
đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính
mình Thầy” (Mc.9,37).
12. Tuổi
thơ là mẫu mực
Nhà
thần bí học nổi tiếng của Ấn Độ là Ramah Chrisna thường kể câu chuyện như sau. Ở
ngôi làng hẻo lánh thuộc bang Bengala, một quả phụ nghèo có đứa con trai thơ
ngày ngày phải băng qua một khu rừng để đi học. Một hôm em nói với mẹ, “Mẹ ơi!
Con không dám đi qua khu rừng một mình nữa. Mẹ tìm người đi với con.”
Người
mẹ nhìn con ái ngại nói, “con ơi! Nhà mình nghèo, làm sao thuê được người đưa
đón con. Con hãy nói với ông Chrisna là thần của khu rừng đó giúp đưa đón con.”
Tin lời mẹ, mỗi ngày đi học, cậu bé kêu thần Chrisna đưa đi rước về. Ngày nọ,
nhân ngày sinh nhật của thầy giáo, thấy các bạn lớp chuẩn bị mua sắm quà cáp
cho thầy, cậu bé cũng xin tiền mẹ mua quà cho thầy, nhưng bà than thở, “Con ơi!
Nhà mình nghèo, đâu có tiền mua quà cho thầy. Con cứ xin thần Chrisna giúp
con.”
Và
theo lời nó xin, thần Chrisna đã cho nó món quà. Nó đem trao cho thầy giáo. Ông
thầy thấy món quà của nó đơn sơ quá, không muốn mở ra, nên trao cho người làm bếp.
Đó là một gói sữa tươi. Người đầu bếp mở gói ra, đổ sữa vào chai. Nhưng lạ
thay, anh đổ đầy chai nầy đến chai khác mà gói sữa vẫn còn nguyên vẹn. Thầy
giáo nghe biết thế thì hỏi nguyên do, cậu bé bảo là của thần Chrisna. Không tin
việc lạ đó, thầy giáo bảo cậu dẫn đến gặp Chrisna. Nó liền đưa thầy giáo và các
bạn đến khu rừng. Nó kêu gọi mãi mà chẳng thấy thần nào. Nó khóc òa lên nài nỉ,
“Thần Chrisna ơi! Nếu thần không đến thì mọi người cho là con nói dối.”
Và nó
nghe có tiếng vọng lại, “Con ơi! Ta không thể đến được. Ngày nào thầy giáo con
có niềm tin và trái tim đơn sơ như con, Ta mới đến.”
13. Ơn
gọi phục vụ của Mẹ Têrêxa
Thế
giới hiện đang chú ý đến một người đàn bà nổi tiếng nhất của thế kỷ, đó là mẹ
Têrêsa Calcutta mới qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997. Toàn thể nhân loại nhất là
những người cùng khổ đều thương tiếc khi nghe tin mẹ qua đời. Tại sao cả thế giới
chú ý đến mẹ Têrêsa nhiều đến thế? Vì mẹ đã trọn đời hy sinh phục vụ người
nghèo khổ, bệnh tật, đau khổ.
Năm
1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc một trường trung học dành riêng cho học
sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu còn nhớ rõ lời căn dặn của người mẹ, “Con hãy nhớ,
con được gởi đến Ấn độ là để phục vụ người nghèo.”
Trước
cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh đau xót của các bệnh nhân, những người
phong cùi, và nhất là các trẻ em và những người già yếu lê lết ngoài đường phố,
nữ tu Têrêsa không thể an tâm tiếp tục làm giám đốc, nhất là giám đốc của một
trường dành riêng cho học sinh giàu.
Năm
1946, nữ tu Têrêsa đang ngồi trên chiếc xe lửa chật chội gần bên những người
cùng khổ, chị nghe như có tiếng thì thầm trong lòng, “Con hãy phục vụ người
nghèo bằng cách đến sống với họ và như họ.”
Đây
là lần thứ hai nữ tu nghe tiếng gọi như thế. Xác tín đây là tiếng Chúa gọi, chị
đã trình lên bề trên, và đúng một năm sau, chị được bề trên và Đức Giám mục địa
phương cho phép ra khỏi dòng để đến sống với những người nghèo khổ.
Cởi
chiếc áo dòng của các nữ tu, chị Têrêsa choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn độ,
giống như người nghèo, phục vụ người nghèo, chia sẻ cuộc sống của người nghèo.
Chị thực sự trở nên người nghèo giữa những người nghèo, nhất là chị “nhìn thấy
Chúa trong những người nghèo.” Năm 1974, mẹ trả lời cho một cuộc phỏng vấn,
“Tôi thấy Chúa trong mỗi người. Khi tôi rửa các vết thương cho người cùi, tôi
nghe như tôi rửa cho chính Chúa Giêsu.”
14. Âm
thầm phục vụ
Sáu
trong số bảy anh em đi làm hàng ngày; người thứ bảy lo công việc nhà. Khi sáu
anh em lao động mệt nhọc trở về nhà, họ thấy nhà gọn gàng và sạch sẽ, cơm đã sẵn,
mọi thứ đều tốt đẹp và thoải mái. Họ biết ơn về điều này và khen người em út.
Nhưng
một trong những anh em muốn tỏ ra khôn ngoan hơn những người khác. Anh cho là
người em út lười biếng. Nó cũng nên có một việc để có cơm bánh hàng ngày. Những
anh em khác cũng nghĩ thế. Nên họ nhất trí không cho người em út làm công việc
trước đây.
Sáng
hôm sau, họ bảo cậu cùng đi và tìm cho cậu một công việc. Tối đến, họ trở về
nhà, mệt đói và bộ mặt cáu kỉnh.
Không
ai chuẩn bị giường chiếu và lau nhà. Không có gì trên bàn ăn.
Họ nhận
ra họ đã hành động ngu xuẩn khi ngăn cản người em út làm công việc phục vụ âm
thầm.
Họ cảm
thấy hối tiếc. Họ phục hồi công việc của người em út. Tình trạng êm ấm trước
đây đã trở lại với gia đình
15. Bò
và lừa.
Khi Đức
Maria và Thánh Giuse đang trên đường đến Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc
vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ Thánh Gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó
nói: “Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé
xác kẻ nào đến gần hài nhi.”
Thiên
thần nói: “Bạn hùng hổ quá.”
Cáo
tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó nói: “Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ
Giêsu, mỗi sáng tôi sẽ bắt một con gà cho mẹ ngài.”
Thiên
thần nói với cáo: “Bạn xảo quyệt quá.”
Rồi
con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái đuôi. Nó nói: “Tôi sẽ trang hoàng
ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả đền thờ Salômon.”
Thiên
thần nói: “Bạn hão huyền quá.”
Nhiều
con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng không con nào được chọn. Sau cùng,
thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con lừa và một con bò đang làm việc với
một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại và hỏi: “Các bạn có gì giúp đỡ Thánh
Gia không?”
Lừa cụp
tai xuống trả lời: “Không có gì. Chúng tôi chả được học hành, càng cố học càng
dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên nhẫn.” Bò ngượng ngùng tiếp lời: “Vâng,
có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi
thôi”
Thiên
thần nói: “Được lắm, Tôi cần hai bạn.”
16. Đời
tôi tiến bước như một con lừa.
Đây
là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình
ơn gọi của mình. Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả. Người đời vẫn
thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa.” Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng
khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh. Đức Hồng
y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành
trình ơn gọi của Ngài. Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm
cành lá trên tay để nghinh đón. Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những
lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó. Nó mãi mãi cũng chỉ là một
con lừa mà thôi. Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn
không một lời kêu than. Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và
tiến bước một cách ngoan thuần. Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt
đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi. Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi
người chúng ta cũng phải giống như vậy. “Đời tôi tiến bước như một con lừa”
chính là như thế. Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức
Giêsu hướng dẫn đời mình. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài
đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha.” Khi
đi vào trần gian, Ngài đã đến “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và
hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
17. Hạ
mình phục vụ
Một
hôm, Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:“Có ba điều chuốc oán, ông đã biết chưa?”
Họ
Tôn trả lời: “Tôi chưa được biết.”
Trượng
Nhân nói: “Tước vị cao người ta ganh, quyền thế lớn người ta ghét, lợi lộc nhiều
người ta oán.”
Tôn
Thúc Ngao lắc đầu nói:“Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao tôi
càng xử nhún nhường, quyền thế tôi càng lớn tôi càng ở khiêm cung, lợi lộc tôi
càng nhiều tôi càng chia bớt cho những người chung quanh, như thế thì làm gì bị
oán thù của thiên hạ.”
Đức
Khổng Tử cũng đã dạy các đồ đệ của ông như vậy.
Một
hôm, Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng
nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết: “Cái lọ này là một bảo vật, thuở
trước nhà vua thường để bên ngai vàng hầu làm gương.”
Khổng
Tử liền hỏi: “Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ
nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ nước đầy thì lại ngã, có phải là vật
này chăng?”
Rồi
ngài bảo các đồ đệ múc nước thí nghiệm, thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy
giờ ngài mới trịnh trọng giảng dạy: “Thông minh hiểu biết hơn người thì nên giữ
bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn người thì nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu
có nhiều thì nên giữ bằng cách bố thí và tỏ ra nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt
đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy.”
18.
Chiến thắng của tình người
Tại
thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động
viên đều bị tổn thương về thể chất và tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất
phát để tham dự cuộc đua 100m.
Khi
súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu
cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng
khóc, giảm tốc độ và quay lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả không trừ một
ai! Một cô bé bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
- Như
thế này em sẽ thấy tốt hơn.
Cô
nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Khán
giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy, những người chứng kiến vẫn còn truyền
tai nhau câu chuyện cảm động này.
19. Đại
hội cái búa
Có
câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng,
từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi
đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.
Một
hôm cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc
làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một
lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ
một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây giờ.
Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ
cũng không cho!
Bấy
giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm
tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho
tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt
những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!
Trước
lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm.
Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho
Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần
lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn
chỉ cần cho kiêu căng và ganh tị một cơ hội thôi là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời!
Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn phá cơ thể
như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong Gia đình, hầu
như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng
cho kiêu căng và ganh tị một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một sự dễ
dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó! “Đừng để ma quỷ lợi dụng!”
(Ep 4, 27).
Đức
Thánh Cha Phanxicô khi suy niệm về việc Đavít phạm tội đã nói: “Điều nghiêm trọng
nhất là… Đavít đã mất cảm thức tội lỗi” mà chỉ coi đó là “một sự cố phải giải
quyết” (Bài giảng 31/01/2014). Con người ngày nay đang đánh mất cảm thức tội lỗi:
người ta không gọi tội lỗi là tội lỗi, mà khoác cho chúng những mỹ từ, thậm chí
coi đó là những việc chính đáng, được phép làm (như hợp pháp hoá mại dâm, phá
thai…). Để tân phúc âm hoá đời sống xã hội, người Kitô hữu phải có cảm thức nhạy
bén trước tội lỗi và loại trừ chúng ngay khi chúng mới xuất hiện dưới dạng một
cơn cám dỗ hay một dịp tội.
20. Xin
đui một mắt
Có một
chàng thương gia nọ rất sùng đạo; mặc dầu lo làm ăn vất vả nhưng dường như anh
ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp phải thời kỳ có cạnh
tranh trong công ăn việc làm, anh ta càng khẩn cầu tha thiết hơn.
Động
lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên đâu đó hiện ra với anh và phán: “Thấy nhà ngươi
cứ thành tâm cầu xin nên ta không nỡ làm ngơ. Bây giờ hãy cho ta biết ước muốn
của ngươi. Điều gì ta cũng ban cho. Đồng thời để tỏ cho thế nhân biết được lòng
quảng đại của ta thì hễ thứ gì đã ban cho ngươi thì ta cũng sẽ ban cho tha
nhân, đồng nghiệp của ngươi như thế và có khi gấp đôi luôn.”
Nghe
thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng sung sướng qua ưu tư lo buồn.
Anh tự nhủ: “Nếu bây giờ mình xin cho được một chiếc xe Lexus thì mấy người bạn,
chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, không được đâu! Nhưng nếu xin cho được trúng
số một triệu thì mấy nhà xung quanh, họ sẽ được tới hai triệu mất. Thế thì
không ổn!”
Anh
tiếp tục suy nghĩ: “Nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn, thì rồi đồng nghiệp của
ta, chúng sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn và giỏi gấp đôi con mình. Thế
thì lại càng không ổn… Đó là chưa nói tới chuyện chúng có tới hai vợ trong khi
mình chỉ được một. Trong thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho
hơn người chứ. Nhưng nếu xin theo kiểu này thì thật là thất sách vô cùng!”
Chàng
thương gia đắn đo không biết nên xin cái gì. Sau một hồi lâu ưu tư, anh ta chợt
reo lên như vừa tìm thấy điều chi hay lắm. Anh thành kính quì xuống thưa với thần:
“Lạy Ngài, xin cho con đui một con mắt.”
21.
Phục vụ anh em là phục vụ Chúa
Có một
vị tu sĩ già đã suốt đời tu trì, làm các việc đạo đức và giữ kỉ luật trong tu
viện. Ông thường cầu xin Chúa hiện ra để củng cố đức tin của mình nhưng chẳng
được, chờ lâu quá ông hoàn toàn thất vọng thì một ngày kia Chúa hiện ra với ông
và ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng.
Nhưng
giữa lúc ông đang tâm sự với Chúa thì một hồi chuông vang lên báo tới giờ phát
gạo cho người nghèo và hôm nay là phiên của ông. Ông tự nhủ những người nghèo sẽ
đói nếu tôi không đi phát gạo cho họ, nên ông xin lỗi Chúa để đi phát gạo. Sau
hơn một giờ làm xong công tác, ông trở về mở cửa phòng thì thấy Chúa vẫn chờ
ông.
Ông
quì gối cảm tạ Chúa và Chúa nói: "Giả như con không đi phát gạo thì Ta chẳng
ở đây chờ con đâu!" Qua đó ông hiểu phục vụ anh em là phục vụ chính Chúa.
22. Sự
thật sẽ giải phóng anh em
Một vị
vua tuổi tác muốn nhường ngôi cho một người xứng đáng. Tiêu chí đầu tiên là sự
trung thực. Để trắc nghiệm tính thật thà, vua cho gọi một số thanh niên, trao
cho mỗi người một dúm hạt giống, dặn họ về gieo chăm sóc trong vòng 3 tháng. Chậu
của ai nhiều hoa đẹp, thì sẽ được thừa kế ngai vàng.
Tới hẹn,
mỗi người mang chậu hoa của mình, màu sắc rực rỡ. Lại có một thanh niên, cầm tới
một chiếc chậu không hoa.
Vua
thẩm vấn: “Tại sao con chỉ đem tới một cái chậu không?”
Buồn
rầu, cậu thưa: “Con chăm sóc những hạt giống đúng theo chỉ dẫn, không hiểu tại
sao chúng không nảy mầm?”
Tỏ vẻ
đắc ý với câu trả lời, Vua tuyên bố: “Người trúng cử là thanh niên có chậu
không hoa”, vì vua đã cho luộc chín số hạt giống trước khi giao cho họ chăm
sóc. Người thanh niên được tuyển chọn vì tính trung thực, thật thà. Anh xứng
đáng được ban thưởng địa vị cao quý.
Chúa
Giê-su tuyên bố: “Hãy hành động theo sự thật và sự thật sẽ giải phóng các con”
(Jn 8, 32).
23. Khuôn
mặt rạng rỡ--Lm. Mark Link SJ.
Một
thầy giáo ra bài làm ở nhà cho các học sinh: "Hãy viết lại quãng thời gian
trong cuộc đời mà em là 'một người Samari tốt lành' đối với ai đó." Một
trong các học sinh đã viết bài ấy như sau:
"Vào
mùa hè trước khi tôi lên trung học, giáo xứ chúng tôi tổ chức một ngày đi thăm
người già và người tàn tật ở một bệnh viện gần đó. Cả một dẫy xe lăn và bệnh
nhân làm tôi choáng váng. Lúc đầu tôi chỉ nhìn thấy xe lăn.
"Sau
đó tôi nhận thấy có người ngồi xe lăn nhìn chăm chăm vào đôi chân của tôi.
"Chỉ
có thế. Bấy giờ tôi không chỉ nhìn đến xe lăn và tôi bắt đầu nhìn thấy người ngồi
trong đó. Tôi thấy các bà tàn tật, những cựu chiến binh bị tê liệt, những ông
già không ai chăm sóc, các em nhỏ thật mảnh khảnh. Tất cả đang chờ đợi xem có
ai đó để ý đến họ. Tôi ngột ngạt; vội vàng bước đi.
"Tôi
rảo bước quanh bệnh viện có đến một giờ đồng hồ. Tôi cảm thấy tức giận Thiên
Chúa và hoàn toàn hoang mang khi thấy quá nhiều sự đau khổ trong một nơi chốn.
Tôi cảm thấy cô đơn hơn bất cứ bệnh nhân nào. Tôi là người cần sự giúp đỡ, chứ
không phải họ.
"Nhưng
một lúc sau, vị Thiên Chúa mà tôi trút sự giận dữ lên Người bỗng dưng trở nên
thực tế hơn bao giờ hết trong cuộc đời. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã yêu thương
những người này một cách đặc biệt.
"Đó
là một cảm nghiệm kỳ lạ; bỗng dưng đức tin sút giảm và bỗng dưng đức tin gia
tăng--tất cả xảy ra trong khoảng khắc.
"Tôi
trở lại nơi có những người già và tàn tật. Và tôi bắt đầu làm bất cứ gì có thể
để làm họ vui: lấy cho họ ly nước ngọt và chỉ nói chuyện với họ. Tôi làm cho
gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy.
"Nhưng
trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả.
Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa
bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy."
24. Chúa
Giêsu trong thế giới hôm nay
Có một
bức tranh thời thế kỷ 19 vẽ một hàng dài những người nghèo trong một khu tồi
tàn của thành phố, họ đang đứng đợi trước một nhà phát chẩn.
Đó là
một bức tranh đáng chú ý. Nhưng điều đáng chú ý nhất trong bức tranh là một
trong những người nghèo đứng xếp hàng. Ông ta có vòng hào quang trên đầu. Nhìn
kỹ lại thì đó là Chúa Giêsu. Và điều này cho chúng ta thấy lý do mà khuôn mặt
những người giúp đỡ lại rực rỡ hơn những người được giúp đỡ. Chính vì khi giúp
đỡ người nghèo, họ khám phá ra Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. Người ở ngay
trong những người có nhu cầu.
Đây
là điều chúng ta quên. Đây là điều chúng ta không thấy. Đây là điều chúng ta cần
được nhắc đi nhắc lại.
Vì
không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đói, các ngươi đã cho
ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi
tù, các ngươi đến hỏi han… mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!" (Mt
25:35-36, 40).
Chúng
ta hãy chấm dứt bằng sự thành khẩn lắng nghe lời mạnh mẽ của Albert Schweitzer,
một trong những Kitô Hữu vĩ đại trong thế kỷ của chúng ta.
Vào lúc
30 tuổi, ông hy sinh sự nghiệp của một nghệ sĩ trình tấu cho những người nhà giầu
ở Âu Châu và trở nên một bác sĩ đi truyền giáo và chăm sóc người nghèo ở Phi
Châu. Khi về già, ông nói:
"Tôi
không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người
thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác."
25. Thu
góp kim cương
Người
ta kể chuyện về Rabbi Menachem Sche-neerson, dù đã hơn 80 tuổi, nhưng ngày ngày
vẫn đứng hằng giờ trên đường phố New York tiếp đón bất cứ ai đến với ông, để
xin ông cầu nguyện, chúc lành cho họ, hay để xin ông giúp ý kiến về mọi khúc mắc
trong cuộc sống.
Ngày
nọ, một người đã hỏi ông làm sao với tuổi già sức yếu, mà ông không tỏ ra mệt mỏi
sau khi đứng nhiều giờ như vậy. Ông đã trả lời, “Khi người ta đếm kim cương,
người ta đâu cảm thấy mệt.”
26. Phục
vụ trong khiêm tốn
Khi
Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta đoạt giải Nobel hòa bình, ai ai cũng chạy đến
chúc mừng. Có một nhà báo đến phỏng vấn Mẹ. Ông ta hỏi rằng: “Bây giờ Mẹ đã có
đầy đủ tiền bạc, danh dự, Mẹ muốn làm gì nữa không?
Mẹ trả
lời: I am a little pencil in my God, tôi chỉ là cây bút chì nhỏ bé trong tay
Thiên Chúa.” Vâng, ở đời có ít người như Mẹ Têrêxa Calcutta, người ta thường
nói “được voi đòi tiên”, cho nên một khi đã thành đạt, thì tỏ ra người có chức,
tỏ vẻ uy quyền, khoe danh, ăn trên ngồi trốc để người ta thấy mà “lé mắt, kính
nể.” Vì thế người đời thường tranh dành, chiến tranh, ganh đua… để có được những
thứ đó. Nói đâu xa, thánh Giacôbê trong bài đọc hai nói rằng: “Bởi đâu có chiến
tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc
của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham
muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì,
nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 4,1-2).
27. Phục
vụ
Ai muốn
làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người. Như chúng ta đã biết, thánh
Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng. Ngài có một người giúp việc, và người
giúp việc này lại mắc phải cái tật nghiện rượu. Buổi tối khi công việc đã xong,
anh thường hay xuống phố cùng với mấy người bạn nhậu lai rai nơi quán cóc.
Lần
kia, anh ta nhậu ngoắc cần câu luôn, về tới nhà thì trời đã khuya. Vì xỉn, anh
ta không biết lối vào nhà, thế là anh ta liền nằm trước cửa tòa giám mục mà ngủ.
Lúc bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức, nghe tiếng động, ngài liền ra
mở cửa và khi nhận ra anh giúp việc, ngài bèn bồng anh ta, đặt vào giường của
mình để anh được nằm ngủ.
Buổi
sáng thức dậy, anh giúp việc thấy mình nằm trong phòng của Đức giám mục, bèn nhớ
tới bữa nhậu tối hôm trước và thế là anh vội quì xuống xin Đức giám mục tha thứ.
Và cũng kể từ đó anh chừa bỏ được cái tật xuống phố nhậu lai rai với bè bạn nơi
quán cóc.
28. Một
ly nước lã
Một cậu
bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ
còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin
ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói
bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu
phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ
cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ
biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và
niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu
hàng với số phận.
Nhiều
năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ
chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này.
Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng
và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của
mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu
sống bệnh nhân này.
Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “Trị giá hóa đơn = một ly sữa.” ( trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).
CNTN 25C -
TRUYỆN KỂ
1.
CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE, GABRIE, RAPHAE
Lời
Chúa: Ga 1, 47-51
Khi
ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật
là người Israel, nơi ông không có gì gian dối." Nathanaen đáp: "Sao
Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi
ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi." Nathanael thưa
lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel."
Chúa
Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả,
nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa."
Và
Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời
mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người."
TRUYỆN KỂ
1. Các tổng lãnh thiên thần
Tại
Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của Tổng lãnh Thiên thần Micae càng làm cho việc
sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền Nam nước Ý, dưới thời Đức
Gelase (192 - 196).
Tại
Pháp, Tổng lãnh Thiên thần Micae cũng đã hiện ra với nhiều người, đặc biệt năm
708, ngài hiện ra với Ðức Giám mục thành Arranche và Ðức Giám mục đã xây một
thánh đường nguy nga để kính dâng Ðức Micae tại Mont Saint Michel. Từ đó, nơi
đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Gioanne d’Arc, Tổng
lãnh Thiên thần Micae đã thúc giục bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu
nước.
Micae,
danh từ Hêbrơ có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa,
được nói đến trong sách Đanien (10,13-21) và trong sách Khải huyền của thánh
Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma quỷ.
Tổng
lãnh Thiên thần Micae đã chống lại thần dữ để bênh vực quyền tối cao của Thiên
Chúa. Giáo hội nhận thiên thần Micae như Ðấng bảo trợ và tin rằng ngài vẫn dâng
lời cầu nguyện của chúng ta lên ngai tòa Chúa.
Raphael tiếng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa chữa
lành” hoặc “thầy thuốc của Thiên Chúa." Sách Tôbia cho biết, chính ngài đã
được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông Tôbit trong cơn hoạn nạn. Trong
câu chuyện này, ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tôbit là Tôbia qua những cuộc
mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tôbia kết hôn
với Sarah, ông Tôbit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi
phục. Người đã cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của
Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện." Thiên
Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin.
Raphael là đấng được nhiều người đến cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khỏe
mạnh và là quan thầy người đi đường.
Gabriel,
danh xưng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh”, cũng còn được gọi là “Sứ
thần truyền tin”, được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi
nhân loại và Đấng Mêssia sẽ đến thực hiện. Gabriel được gửi đến với ngôn sứ
Đanien (x. Đn 8,16; 9,21-27), với ông Dacaria và Đức Maria (x. Lc 1,11-38). Đây
cũng là sứ thần đã nhiều lần hiện ra báo mộng cho thánh Giuse. Thánh Bernarđô
nhận định: “Trong tất cả các thiên thần, đức Gabriel đã được thấy là vị xứng
đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ và đón nhận lời fiat
(xin vâng) của Mẹ."
Chiêm
ngưỡng ba vị Tổng lãnh Thiên thần Micae, Raphael và Gabriel trong chương trình
của Thiên Chúa uỷ thác, như Chúa Giêsu nói bằng hình ảnh: “Các ngươi sẽ thấy trời
mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1,51), Thiên Chúa
cũng có chương trình tốt đẹp nhất dành cho chúng ta, Ngài luôn là Đấng lên tiếng
mời gọi chúng ta tham gia: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy
đã chọn các con."
2. Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, Gabriel &
Raphael
Thuật
ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả." Theo
thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và
Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu
Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa." Nổi
bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.
Michael,
có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”
Gabriel,
có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”
Rafael,
có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh
lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở
Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng
chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael. Theo lịch xưa, các ngài được
mừng vào những ngày 24.3 và 24.10.
3. Seraphim, Cherubim Và Bốn Sinh Vật
Có
ba dạng “thiên vật” kỳ lạ được mô tả trong Kinh Thánh. Chúng không giống bất cứ
thứ gì mà chúng ta thường nghĩ về các thiên thần. Các “thiên vật” đó là
Seraphim (hoặc Seraphs), Cherubim (hoặc Cherubs) và Bốn Sinh Vật. Tất cả đều có
vai trò quan trọng trong việc phụng sự Thiên Chúa trên trời.
Danh
từ Seraphim (số ít là seraph, số nhiều là seraphim) nghĩa là “vật cháy” hoặc
cao thượng. Đôi khi cũng được gọi là “vật yêu thương” vì danh xưng này có thể
có nguyên ngữ từ tiếng Do Thái dành để nói về tình yêu. Seraphim được mô tả đầy
đủ trong Kinh Thánh trong sách ngôn sứ Isaia, khi ông được Thiên Chúa kêu gọi
ông và ông có thị kiến (x. Is 6:1-7).
Các
dạng “thiên vật” này đều có 6 cánh, nhưng chỉ dùng 2 cánh để bay, ít khi dùng
các cánh để che mặt và chân. Cánh dùng để che mặt vì họ ở gần Thiên Chúa, thấy
trọn vẹn vinh quang của Ngài, ánh sáng mạnh mẽ khó có thể chịu nổi. Chân được
coi là “không sạch” và không xứng đáng phô bày trước Thánh Nhan Chúa. (Một số học
giả cho rằng “chân” có thể mang ý nghĩa là “bộ phận sinh dục”). Chúng ta không
thể biết có bao nhiêu thiên thần, nhưng chắc chắn rất nhiều, vô số.
Vị
trí của Seraphim là bay ở phía trên Ngai Thiên Chúa, khác với Cherubim là thiên
thần ở bên cạnh hoặc ở xung quanh Ngai Thiên Chúa. Nhiệm vụ của Seraphim là
không ngừng tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa. Lời chúc tụng của họ là: “Thánh,
thánh, thánh, Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh, trời đất đầy vinh quang Ngài."
Đó là những lời đã được dân Do Thái và các Kitô hữu sử dụng hàng ngàn năm qua để
hợp lời với các thiên thần cùng chúc tụng Thiên Chúa. Trong tiếng Do Thái, dùng
điệp từ ba lần là để diễn tả rằng người hoặc vật nào đó rất quan trọng. Do đó,
chúc tụng Thiên Chúa là thánh ba lần nghĩa là Thiên Chúa hoàn hảo và chí thánh.
Trong
tiếng Do Thái, Seraphim là phẩm cao nhất trong chín phẩm thiên thần – theo phẩm
trật đi lên: Cấp ba gồm Thiên Thần, Tổng Lãnh Thiên Thần, Lãnh Thần; cấp hai gồm
Quyền Thần, Quản Thần; cấp một gồm Bệ Thần, Dũng Thần, Minh Thần, Luyến Thần
(thần sốt mến). Có thể vì Seraphim rất gần với Thiên Chúa.
Trong
nghệ thuật, Seraphim thường được mô tả bằng màu đỏ (vì Seraphim nghĩa là “vật
cháy”) và được minh họa cầm gươm lửa có chữ “thánh, thánh, thánh."
Trong
thị kiến của ngôn sứ Isaia, than chạm vào môi ông để xác nhận ông đã được thanh
luyện và xứng đáng là ngôn sứ. Than này đến từ bàn thờ trên trời, cực mạnh. Lửa
cũng được sử dụng trong nhiều tôn giáo như là cách thanh luyện và thanh tẩy.
Người
ta thường nghĩ rằng Cherubim (Kê-ru-bim) có hình dáng một đứa bé mụ mẫm, kháu
khỉnh, có hai cánh nhỏ. Tuy nhiên, Kinh Thánh không mô tả như vậy! Cherubim được
mô tả trong hai cuốn sách của bộ Kinh Thánh: Sáng Thế và Êdêkien.
Trong
Sáng Thế, Cherubim canh giữ Vườn Địa Đàng, rồi trục xuất Adam và Eve ra khỏi Vườn
Địa Đàng. Cherubim được mô tả cầm gươm lửa (St 3:24).
Ngôn
sứ Êdêkien có thị kiến về tầng trời khi ông thấy các thiên thần. Ông mô tả về
Cherubim rất mạnh mẽ – hầu như khiến chúng ta cảm thấy sợ (Ed 1:1-14; Ed
1:22-24; Ed 10:3-8; Ed 10:12; Ed 10:14; Ed 10:20-22).
Không
như chúng ta tưởng, vì các “thiên vật” này có bốn mặt và bốn cánh. Cherubim
cũng dđược mô tả trong cuộc đóng tàu của ông Nô-ê (Ark of the Covenant – Tàu
Giao Ước). Tàu này có kích thước rộng lớn: “Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng
vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ
giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp. Ngươi sẽ làm một tượng
ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với
nắp, ở hai đầu. Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai
tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên
Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. Ở đó Ta sẽ gặp
gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước,
Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho
con cái Ít-ra-en” (Xh 25:17-22).
Tàu
này được đặt trong Đền Thờ Do Thái, được xây dựng ở Giêrusalem. Nơi Cực Thánh
có tượng Cherubim. Trình thuật 1 V 6:23-28 cho biết: “Trong Nơi Cực Thánh vua
làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. Một cánh của một Kê-ru-bim dài
hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi; thành ra từ đầu cánh này tới đầu
cánh kia là năm thước. Kê-ru-bim thứ hai cũng đo được năm thước; hai Kê-ru-bim
có một kích thước và hình thể như nhau. Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước;
Kê-ru-bim thứ hai cũng thế. Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa Nhà, phía bên trong;
cánh xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của
Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia; hai cánh khác giao nhau ở giữa Nhà, cánh
nọ chạm cánh kia. Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim." Và trình thuật 1 V
8:6-7 cho biết: “Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa vào nơi đã dành sẵn
trong cung Đơ-via của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim.
Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và
các đòn khiêng."
Thị
kiến của ngôn sứ Êdêkien mô tả dạng “thiên vật” khác có vẻ liên quan Cherubim.
Cách mô tả rất lạ đối với người trần mắt thịt:
–
Tôi nhìn các sinh vật, thì này bên cạnh mỗi sinh vật có bốn bộ mặt có một bánh
xe ở dưới đất. Hình thù và cấu trúc của các bánh xe lấp lánh như mã não. Đó là
hình thù của chúng. Còn cấu trúc của chúng giống như một bánh xe ở giữa một
bánh xe. Lúc di chuyển, bốn bánh xe đi về bốn phía; lúc đi, chúng không quay
vào nhau. Các vành bánh xe rất lớn. Tôi nhìn, thì này cả bốn vành bánh xe đầy
những mắt ở chung quanh. Khi các sinh vật đi, các bánh xe bên cạnh chúng cũng
đi; và khi các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, thì các bánh xe cũng lên
theo. Thần khí đẩy đi đâu, các sinh vật đi tới đó và các bánh xe cũng cất lên
theo, vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe. Khi các sinh vật tiến đi,
các bánh xe cũng tiến theo; các sinh vật dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại;
các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe cũng cất lên theo, vì thần
khí của sinh vật ở trong các bánh xe (Ed 1:15-21).
–
Tôi nhìn, thì kìa có bốn bánh xe ở bên cạnh các thần hộ giá, mỗi bánh xe ở bên
cạnh một thần hộ giá, các bánh xe ấy trông lấp lánh như ngọc mã não. Còn hình
dáng của bánh xe, bốn bánh trông đều giống nhau, như thể bánh nọ ở giữa bánh
kia. Lúc di chuyển, bốn bánh đi về bốn phía; lúc đi chúng không quay vào nhau,
bởi vì đầu thần hộ giá hướng về phía nào, thì bánh xe cũng đi theo phía ấy; lúc
đi chúng không quay vào nhau. Toàn thân, lưng, tay và cánh của các thần hộ giá
cũng như các bánh xe đầy những mắt ở chung quanh, cả bốn bánh xe đều như thế.
Tai tôi nghe người ta gọi các bánh xe ấy là “gan gan” (Ed 10:9-13).
–
Các thần hộ giá cất mình lên: đó là sinh vật tôi đã thấy bên sông Cơ-va. Khi
các thần hộ giá di chuyển, các bánh xe ở bên cạnh các thần ấy cũng chuyển theo.
Khi các thần hộ giá dang cánh để cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe không
quay nữa, nhưng vẫn ở bên cạnh các thần hộ giá. Khi các thần hộ giá dừng lại,
các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình lên, các bánh xe cũng cất
lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe. Vinh quang Đức Chúa
bay lên khỏi thềm Đền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá. Các thần hộ giá
dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất trước mắt tôi khi đi ra; các bánh xe
cũng chuyển theo cùng một lúc. Các thần hộ giá dừng lại ở lối vào cửa đông Nhà
Đức Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en ngự bên trên các vị ấy (Ed
10:15-19).
Kinh
Thánh không cho biết có bao nhiêu Cherubim, Kinh Thánh chi cho biết rằng ngôn sứ
Êdêkien thấy bốn Cherubim – chắc chắn phải nhiều hơn! Nhiệm vụ của Cherubim là
canh giữ lãnh địa của Thiên Chúa và ngăn chặn mọi điều xấu xa, tội lỗi. Đôi khi
Cherubim được coi là “thiên thần giữ ngai tòa” vì họ luôn ở bên ngai tòa Thiên
Chúa (Tv 80:1; Tv 99:1).
Trong
tiếng Do Thái, “thiên thần giữ ngai tòa” gọi là Merkabah. Các thiên thần này có
bốn mặt xoay về bốn hướng, cứ đi tới hướng nào đó mà không cần xoay mặt. Danh từ
Cherubim có nghĩa là “canh giữ”, đúng nhu nhiệm vụ của họ. Trong Kinh Thánh,
không có chỗ nào gọi Cherubim là thiên thần!
BỐN
SINH VẬT
Trong
sách Khải Huyền cũng có đề cập “Bốn Sinh Vật” (Kh 4:6-10).
Bốn
sinh vật kỳ lạ này có bốn đặc điểm giống như Seraphim (có sáu cánh và không ngường
ca tụng Chúa), và giống như Cherubim (có bốn mặt nhìn như con sư tử, con bò,
cong người và chim đại bàng).
Dù
cho các sinh vật đó là Seraphim, Cherubim hoặc một dạng “thiên vật” nào đó,
chúng ta không thể biết được. Nhưng chắc chắn rằng các “thiên vật” đó rất kỳ lạ
và rất mạnh mẽ.
Ngày
xưa, man-na được gọi là “bánh thiên thần”, như Thánh Vịnh mô tả: “Kẻ phàm nhân
được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:25).
Khi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh cũng nhắc tới thiên thần: “Lạy
Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần,
xin đàn ca kính Chúa” (Tv 138:1).
TRẦM
THIÊN THU (Chuyển ngữ từ WhyAngels.com)
4. Thầy thuốc của Thiên Chúa
Một
tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống
tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi
người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.
Ngày
nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và
nói:
-
Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu
sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ
ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng
chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi
được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa
chén dĩa này không? .
Nói
xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say
như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng
đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện
ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong
vườn và nói:
-
Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại
cho đến khi tôi làm xong cỏ không?
Cũng
như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một
ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện
ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân
nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ
trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già
nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy
Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài
Lời
cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần
này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.
Thiên
thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:
-
Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua,
ông nghĩ là mình đã ở đâu?
5. Công việc của các tổng lãnh thiên thần
1. Micae
là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến
đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên
Chúa?"
Xin
Thánh thiên thần Micae trợ lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn
cám dỗ của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí
cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.
2.
Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26:
truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến
cho loài người.
Xin
Thánh thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gởi đến
chúng con, và mau mắn thưa lời “Xin vâng” như Đức Mẹ.
3.
Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình
an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh
cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở
trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Xin
Thánh thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc hành trình
dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc thiện, vì luôn biết
rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những làn hương thơm tho bay lên
toà Thiên Chúa.
6. Đạo binh thiên quốc
Vì một
số giáo hội Kitô giáo, ví dụ như Chính thống giáo, chấp nhận bảy tổng lãnh
thiên thần: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Salathiel, Jébudiel và Barachiel
là “chính thức”, nên một số người Công giáo cũng có lòng sùng kính đối với cả bảy
vị tổng lãnh thiên thần kể cả bốn vị ngoài Kinh thánh này. Giáo hội Công giáo
đã nói rất rõ ràng rằng điều này là nguy hiểm về mặt tâm linh.
Trong
Danh mục về lòng đạo đức bình dân, Giáo hội tuyên bố, “Việc gán tên cho các
Thánh Thiên thần không nên được khuyến khích, ngoại trừ trường hợp của Gabriel,
Raphael và Michael, là những vị có tên trong Kinh Thánh.”
Kinh
thánh là danh sách cuối cùng của chúng ta về các tổng lãnh thiên thần. Là người
Công giáo, chúng ta chỉ biết đến ba tên nhất định của các thiên thần của Thiên
Chúa. Bất kỳ tên nào khác đều bị nghi ngờ vì nó không phải là một phần của sự mặc
khải thần linh.
Điều
này không có nghĩa là chỉ có ba tổng lãnh thiên thần. Kinh thánh nói rõ rằng có
thể có “hàng ngàn” thiên thần hoặc “vô số” thiên thần, như Thánh Luca đã đề cập
lúc Chúa Giêsu giáng sinh,”Và bỗng đâu đến hợp đoàn với thiên thần, có đoàn lũ
cơ binh trên trời ngợi khen Thiên Chúa” (Luca 2:13).
Sự
sáng tạo của Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong ba vị tổng lãnh thiên thần,
nhưng đồng thời chúng ta cũng không nên phát triển lòng sùng kính đối với các
thiên thần không được Lời Chúa xác nhận.
Phụng
vụ mừng lễ ba vị tổng lãnh thiên thần được tôn kính theo truyền thống của Giáo
hội. Theo Nghi thức Đặc biệt trong Sách Lễ Rôma năm 1962 của Thánh Giáo Hoàng
Gioan XXIII, 29 tháng 9 là lễ Thánh Micae. Trước khi cải tổ phụng vụ theo Công
Đồng Vaticanô II, Lễ Thánh Gabriel được cử hành vào ngày 24 tháng 3 và lễ Thánh
Raphael vào ngày 24 tháng 10.(1)
Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã dạy một bài giáo lý về các Thiên thần trong
các buổi Tiếp kiến Chung của ngài từ ngày 9 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm
1986. Thánh Giáo Hoàng nói: “Theo sách Khải Huyền, các thiên thần tham gia vào
sự sống của Ba Ngôi trong ánh sáng vinh quang cũng được kêu gọi để đóng vai trò
của họ trong lịch sử cứu rỗi con người, trong những khoảnh khắc được Thiên Chúa
Quan phòng thiết lập. Tác giả của Thư Hípri (1:14) hỏi: ”Hết thảy họ lại không
phải là những thần phục dịch được sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ thừa hưởng
ơn cứu rỗi đó sao?”
Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo số 328 – 330 dạy chúng ta rằng, “Sự hiện hữu của các
hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần,
là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế."
7. Các Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa
Trong
bức tranh vẽ trên trần nhà, tường vách thánh đường kính các Thiên Thần ở
Palermo có hình cùng tên và chức vị của bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần:
1.
Michael - Victoriosus - Người chiến thắng
2.
Gabriel – Nuntius - Sứ gỉa
3.
Raphael – Medicus - Thầy thuốc
4.
Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ
5.
Jehudiel – Remunerator - Người làm ơn
6.
Barachiel – Adjutor - Người trợ giúp
7.
Sealthiel – Oarator - Người bầu cử
Tổng
lãnh Thiên Thần Michael
Tổng
lãnh Thiên Thần Michael đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa.
Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên
Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).
Tổng
lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut
Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?
Theo
tương truyền:
-Thiên
Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng
Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
-Thiên
Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà
ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
-
Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những
người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Tổng
lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định
dứt khoát lại mang chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà
ma qủi, như sách Kinh Thánh thuật lại: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên
thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng
Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được,
và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn
xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ;
nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. ” (Khải
Huyền 12, 7-9).
Tổng
lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa
Trời và hỏa ngục. Vì thế, Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy
bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.
Tổng
lãnh Thiên Thần Gabriel
Tên
Gabriel có ý nghĩa “sức mạnh của Thiên Chúa." Là vị sứ giả của Thiên Chúa
được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở Nazareth rằng: Chúa Giêsu, Con Thiên
Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria: “Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng
Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị…” (Lc 1,26-38).
Khi
hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói:
“Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với
ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” (Lc 1,19).
Hằng
ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12 giờ trưa chuông thánh đường
đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên. Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12 giờ
trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin
với mọi người Gíao dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Phêrô bên Vatican.
Tiếng
chuông lúc 12 giờ trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần
Gabriel, là Sứ giả của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên
Chúa xuống trần gian làm người.
Tổng
lãnh Thiên Thần Raphael
Tên
Raphael mang ý nghĩa ‘‘Thiên Chúa chữa lành." Trong Kinh Thánh sách Tobia
thuật lại Thiên Thần Raphael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:
“Ngay
lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước
nhan vinh hiển của Thiên Chúa. Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho
cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn
tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” (Tobia 3, 16)
Thiên
Thần Raphael luôn đồng hành che chở Tobia trên đường đi. (Tobia 6, 10)
Tổng
lãnh Thiên Thần Raphael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch
Ông
Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu
xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng. Bằng
an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.
Sống
lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là
nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với
nhau trong xã hội.
Sống
thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống,
nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người
ở đời.
Nhu
cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu
đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại. Nhu cầu tinh thần văn hóa
này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý
nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.
Các
Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ giả được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành
trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót
bác ái vị tha.
Với
người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành
thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Gía Chúa Giêsu
Kitô.
Lòng
tin vào Thiên Thần vượt quá khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người.
Thắc mắc thuộc về đời sống con người. Và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm
ra.
8. Phẩm trật Thiên sứ trong Kitô giáo
Bài
viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp
hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy.
Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 2/2022)
Theo
quan niệm Kitô giáo, thiên sứ là những tạo vật vô hình do Thiên Chúa tạo ra để
phục vụ cho các công việc của Thiên Chúa. Vào thời Trung Cổ, đã có nhiều nhà thần
học cố gắng phân loại ra các cấp bậc thiên sứ trên thiên đàng. Một tác giả vô
danh sống ở thế kỷ thứ VI, dưới danh nghĩa là Điônisiô, trình bày một thuyết về
chín phẩm thiên sứ trong tác phẩm De Coelesti Hierarchia (Phẩm trật trên trời).
Dựa theo mô hình của tiến trình hướng về sự toàn thiện (gồm có ba chặng: thanh
luyện, soi sáng và hoàn bị), ông chia các thiên sứ thành ba cấp và mỗi cấp gồm
ba đẳng, từ đó nhân ra thành chín đẳng, quen gọi là chín phẩm thiên sứ, tương tự
với cửu phẩm trong hàng triều thần đời xưa.[1]
Cấp một
Cấp
bậc một là nhóm các thiên sứ chủ yếu làm nhiệm vụ thờ phượng Thiên Chúa. Họ là
những tạo vật kề cận Thiên Chúa nhất.
Sí
thiên sứ - Seraphim
Seraphim
(chữ Hán: 熾天使,
tiếng Anh: seraph/seraphim; tiếng Hebrew: שְׂרָפִים serafim, "kẻ bốc lửa") được đề cập trong
Sách I-sai-a 6:1-7. Họ là những tạo vật đứng hầu cận ngai Thiên Chúa và liên tục
hát lời ca ngợi: "Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng
Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!" Seraphim thường gắn liền với
hai biểu tượng:
- Biểu
tượng thứ nhất, khá quen thuộc ở Việt Nam, áp dụng cho các ca đoàn, ca hát chúc
tụng Chúa.
-
Biểu tượng thứ hai là lòng sốt mến, dựa theo nguyên ngữ trong tiếng Hebrew שְׂרַף (seraf), dịch sang tiếng Việt là Sí (熾) có nghĩa là "lửa đốt cháy" hay "bừng
cháy", hiện nay còn được dùng với nghĩa "rắn hổ mang", từ thuật
ngữ này rất có thể Serafim có thể là loài rồng trong các thần thoại cổ xưa.
Theo
mô tả trong đoạn Kinh Thánh này thì Seraphim có sáu cánh: "Mỗi vị có sáu
cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay."[2]
Theo
như một số sách thì nhóm Seraphim gồm bốn thiên sứ bay xung quanh ngai tòa
Thiên Chúa, nhưng chỉ có hai Seraphim được nhắc tên là Seraphiel và Metatron
(trong đó, Seraphiel được miêu tả là có cái đầu của phượng hoàng). Các Seraphim
thường xuyên cháy sáng khiến ánh sáng phát ra từ họ sáng chói đến nỗi không một
ai, thậm chí là các thiên sứ khác, có thể nhìn trực tiếp được.
Trí
thiên sứ - Cherubim
Cherubim
(chữ Hán: 智天使,
tiếng Anh: cherubim; tiếng Hebrew: כְּרוּבִים, krūvîm,
có thể mượn từ tiếng Akkad: 𒅗𒊒𒁍
karābu, "được phù hộ" hay 𒅗𒊑𒁍
karibu, "thần phù hộ") được nhắc đến trong rất nhiều sách khác nhau,
như Sách Sáng Thế 3:24, Sách Êdêkien 10:12-14, Sách Các Vua quyển thứ nhất 6:
23-28 và Sách Khải Huyền 4:6-8. "Người trục xuất con người, và ở phía đông
vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường
đến cây trường sinh." (St 3:24)
Vai
trò của các Cherubim trở nên quen thuộc với dân Do Thái từ khi ông Môsê cho
phép đúc hai tượng Cherubim bằng vàng đặt ở đầu của hòm bia. Chính từ đó mà
Thiên Chúa đã ban sấm ngôn (Xh 25,18-22; 37,7; Ds 7,89). Vì thế mà có thành ngữ
"Thiên Chúa ngự trên các Cherubim" (1Sam 4,4; 2 Sam 6,2; Is 37,16). Đến
khi vua Salomon xây cất đền thờ tại Giêrusalem, ông cũng duy trì tập tục đó, tạc
hai tượng Cherubim bằng gỗ ôliu chạm vàng, đứng hai bên cạnh hòm bia, phủ cánh
che rợp hòm bia (1V 6 23-28). Vì thế, các Cherubim Cherubim (bản Kinh Thánh tiếng
Anh có đề cập đến tên gọi này) được gọi là các thiên sứ hộ giá và đứng đầu
trong phẩm trật thiên sứ vì luôn kề cạnh bên Thiên Chúa.
Hình
dáng của các Cherubim được miêu tả trong sách Êdêkien 1: 5-12 theo thị kiến của
nhà tiên tri này như sau: "Đây là dáng vẻ của chúng: chúng trông giống như
người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Còn chân của chúng thì thẳng;
bàn chân tựa bàn chân con bê, lấp lánh như đồng sáng loáng. Bên dưới cánh, có
những bàn tay giống tay người quay về bốn phía; mặt và cánh của bốn sinh vật
cũng đều như thế. Cánh của chúng giáp vào nhau. Lúc đi, chúng không quay mặt
vào nhau, nhưng cứ thẳng phía trước mặt mà tiến. Còn bộ mặt của chúng, thì
chúng đều có mặt người, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải, cả bốn đều có mặt bò
rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng. Đó là mặt của chúng. Còn cánh của
chúng thì giương lên cao. Mỗi sinh vật có hai cánh giáp vào nhau và hai cánh
khác phủ thân mình. Chúng cứ thẳng phía trước mặt mà đi, thần khí đẩy phía nào,
chúng đi phía đó; lúc đi chúng không quay mặt vào nhau." Nhiều sách cho rằng,
các Cherubim được Thiên Chúa giao nhiệm vụ cai quản cây trường sinh trong vườn
Địa Đàng và ngai tòa của Ngài. Ngoài ra, nhiều người cũng nhầm lẫn hình dáng
các Cherubim với các thiên sứ mang hình dáng là những đứa trẻ có cánh.
Tọa
thiên sứ (Ophanim/Thronos)
Tọa
thiên sứ (chữ Hán: 座天使,
tiếng Anh: ophanim, tiếng Hebrew: אוֹפַנִּים,
ofanim, "bánh xe") hay Thronos (tiếng Hy Lạp: θρόνος, "ngai
vàng") cũng xuất hiện nhiều trong Kinh Thánh như: Sách Khải Huyền 11:16 và
Thư gửi tín hữu Côlôxê 1: 16. Các Ophanim được miêu tả dưới hình dạng những
bánh xe, có nhiều mắt trên vành bánh (theo thị kiến của tiên tri Êdêkien
1:15-21). Tọa thiên sứ thì có hình dáng là chiếc ngai vàng. Các thiên sứ này biểu
tượng cho công lý và quyền uy của Thiên Chúa. Cùng với Seraphim và Cherubim,
các Tọa thiên sứ không bao giờ ngủ mà canh giữ cho ngai tòa của Thiên Chúa.
Các
Tọa thiên sứ dường như có mối quan hệ mật thiết với các Cherubim. "Khi các
thần hộ giá dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình
lên, các bánh xe cũng cất lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các
bánh xe." (Êdêkien 10:17)
Cấp hai
Cấp
hai là nhóm các thiên sứ làm việc như những vị quản trị thiên đàng và phụ trách
các vật thụ tạo.
Chủ
thiên sứ (Dominions)
Chủ
thiên sứ (chữ Hán: 主天使,
tiếng Anh: dominions; tiếng Latinh: dominationes, tiếng Hy Lạp: kyriotētes) được
coi là những thiên sứ điều phối hoạt động của các thiên sứ cấp dưới. Nhiệm vụ
chính của họ là giữ gìn vũ trụ theo đúng quỹ đạo bằng cách gửi sức mạnh cho những
nhà quản trị các quốc gia. Chủ thiên sứ được miêu tả với hình dạng giống như thần
linh xinh đẹp, có đôi cánh lông vũ như hình tượng chung của các thiên sứ. Tuy
nhiên, để phân biệt với các thiên sứ khác, các Chủ thiên sứ có thanh gươm ánh
sáng gắn chặt vào đầu.
Lực
thiên sứ (Virtutes)
Lực
thiên sứ (chữ Hán: 力天使,
tiếng Anh: Vitures; Latinh: Virtutes) có nhiệm vụ giám sát sự chuyển động của
các thiên thể để đảm bảo rằng vũ trụ tuân theo chuyển động tự nhiên. Họ tăng
thêm sức mạnh cho những nhân vật tài năng dưới trần gian. Virtutes có nghĩa là
quyền năng, sức mạnh và uy lực. Lực thiên sứ là các thiên sứ luôn sẵn sàng,
dũng cảm thi hành những việc phi thường.
Năng
thiên sứ (Powers)
Năng
thiên sứ (chữ Hán: 能天使,
tiếng Anh: Powers; Latinh: Potestates) giám sát sự phân chia năng lực giữa nhân
loại, giữ vững ranh giới giữa thiên đàng và trần gian. Năng thiên sứ mang hình
dạng rực rỡ màu sắc và sương khói mờ ảo.
Cấp ba
Là
những thiên sứ hoạt động như là sứ giả của Thiên Chúa hoặc là đạo binh thiên quốc.
Quyền
thiên sứ (Principalities)
Quyền
thiên sứ (chữ Hán: 權天使,
tiếng Anh: principalities, tiếng Hy Lạp: Αρχαιος, Latinh: principatus) thường
xuất hiện để cộng tác năng lực với Năng thiên sứ. Quyền thiên sứ được tạo hình
có đội một vương miện và mang theo một cây gậy. Nhiệm vụ của họ là thực hiện
tấn phong cho các lãnh chúa xứ sở và gìn giữ thế giới vật chất, giám sát các
nhóm người. Họ là những quan thầy và bảo hộ cho các vương quốc trên Trái Đất.
Ngoài ra, Quyền thiên sứ còn truyền cảm hứng và tư tưởng cho chúng sinh trong
lĩnh vực nghệ thuật và khoa học.
Đại
thiên sứ (Archangels)
Đại
thiên sứ (chữ Hán: 大天使,
tiếng Anh: archangels, tiếng Hy Lạp: ἀρχάνγελος, dịch nguyên từ tiếng Hebrew: רַב־מַלְאָך "rav‘mal'ákh", ghép của hai từ "arch
- rav" cấp cao và "angelos - mal'ákh" sứ giả) chỉ xuất hiện hai
lần trong Tân Ước (Thêxalônica 4:16 và Giuđa 1:09). Người ta biết nhiều đến ba
đại thiên sứ là Michael, Raphael và Gabriel. Trong Sách Tôbia (được Công giáo
và Chính Thống giáo chấp nhận) còn đề cập đến đại thiên sứ Raphael khi Raphael
nói với Tôbia rằng ông là "một trong bảy người hầu cận trước mặt
Chúa" (hàm ý sáu người còn lại có Michael và Gabriel).
Thiên
sứ (Angels)
Thiên
sứ (chữ Hán: 天使,
tiếng Hy Lạp: ἄγγελος, tiếng Hebrew: מַלְאָכִים mal'akhim, nghĩa là "sứ giả") là cấp độ
thấp nhất của hệ thống thiên sứ và được biết đến nhiều nhất. Họ là những tạo vật
theo dõi công việc của chúng sinh dưới trần gian. Có nhiều loại thiên sứ khác
nhau, với các chức năng khác nhau. Trong Công giáo Rôma, có thiên sứ hộ thủ (hoặc
thiên sứ bản mệnh) được tin là thiên sứ theo dõi và hướng dẫn cho mỗi cá nhân.
LỄ TẾT TRUNG THU
Lời Chúa: Mc 10, 13-16
Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến
với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy
vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn
cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật
anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng
được vào.” Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
TRUYỆN
KỂ
1. Con
nít vào ngay
Trong một giấc mơ, tôi thấy một
đoàn người đông vô số kể, thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, ai cũng chen
nhau muốn đến trình diện Chúa để được vào Thiên Đàng trước. Ông Phêrô đã được
Chúa trao chìa khóa Nước Trời, nên ông luôn túc trực tại Cổng, để bất cứ ai muốn
qua Cửa Trời vào gặp Chúa, thì ông phải xét duyệt lý lịch họ trước, trừ phi là
con nít.
Một vị mặc áo vua, đội mũ cà cuống,
cầm gậy vàng tiến đến, ông Phêrô hỏi:
- Ngươi là ai?
- Thưa con là Tổng Giám mục ạ.
- Tổng Giám mục à, đứng qua một
bên, đợi đã.
Một vị khác tiến đến mặc áo
dòng, tay cầm cuốn Kinh Thánh:
- Ngươi là ai?
- Dạ, con là cha Sở.
- Cha Sở à, cũng đứng qua bên, hậu
xét…
Và còn biết bao nhiêu đấng bậc
khác, cứ chen nhau tiến vào, nhưng ai cũng bị ông Phêrô bảo đứng một bên chờ. Bất
ngờ có một cụ già chống gậy bước tới:
- Ngươi là ai?
- Bẩm thưa ngài, con là con nít ạ!
- Con nít à, vô lẹ đi con
Ông Phêrô cho “ông cụ non” vào
Thiên Đàng ngay mà không cần xét duyệt lý lịch, vì ông nhớ Lời Thầy Giêsu đã
nói trước: “Ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ
chẳng được vào” (Mc 10, 15: Tin Mừng).
2.
Cứ để trẻ em đến với Thầy
Xưa cũng như nay, mấy khi người
ta lấy trẻ em như mẫu gương cho người lớn. Ngạn ngữ Anh nhắn nhủ: “Trẻ em nên được
trông chừng chứ không nên nghe theo chúng.” Triết gia Platon nổi tiếng cũng
than phiền: “Sánh với các dã thú, một đứa con trai là khó điều khiển nhất.”
Thế mà trong bài Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giê-su lại lấy trẻ em làm khuôn mẫu cho người lớn, mà lại là khuôn mẫu
trong một vấn đề cực kỳ hệ trọng, đó là chuyện đi vào Nước Trời! Đức Giê-su
không dạy ta có thái độ ấu trĩ, ỷ lại, khoán trắng cho Thiên Chúa những gì mình
có thể làm được. Ngài muốn chúng ta đón nhận Tin Mừng Nước Trời và Lời Hằng sống
của Ngài với tâm tình đơn sơ, hồn nhiên, không so kè tính toán hơn thiệt, tâm
tình của một người con thảo hiếu.
Hãy có thái độ hồn nhiên, đơn sơ
khi đón nhận Nước Trời, vui tươi khi chấp nhận sống theo Lời Đức Giê-su mà
không tính toán thua lỗ, mất mát.
Tôi có hay so đo tính toán khi
theo Chúa, khi dấn thân phục vụ trong một đoàn thể không? Nếu có, tôi sẽ làm gì
để sửa đổi?
3.
Điều kiện để vào Nước Trời
Có nhiều phương thế để lên thiên
đàng: tử đạo, ẩn tu, làm việc tông đồ, bác ái… và cũng có một cách giản dị để đạt
tới Nước Trời là có tâm hồn trẻ em, cách của thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu.
Ngài trở thành chứng nhân và mẫu gương sống động cho chúng ta trong việc áp dụng
Lời Chúa hôm nay. Nói là giản dị nhưng thực ra phương thế này đòi hỏi con người
phải đấu tranh quyết liệt để chống lại thói kiêu ngạo, cậy mình, ích kỷ, tự
mãn, vô cảm… Tính đấu tranh lúc này mãnh liệt tựa như đứa trẻ khóc thét lên đòi
bú sữa mẹ vậy, một hành động đòi hỏi chính đáng đối với em, nhưng có thể không
thích hợp với người lớn. Trẻ em đâu có gì để từ bỏ; thế nên từ bỏ là làm cho
mình trở thành không có gì giống như trẻ em chỉ trừ nhìn nhận mình là thấp hèn,
hư không trước mặt Chúa và một niềm khát vọng mãnh liệt là đạt được tất cả
trong Thiên Chúa. Vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi
an bình” (Tv 62,2).
Có kẻ xin Gandhi tóm gọn đời
mình bằng một câu không quá ba đặc điểm. Ông bảo đó là: “từ bỏ và vui hưởng” cuộc
sống. Thái độ an bình vô tư lự và vui hưởng cuộc sống là đặc điểm tự nhiên của
một trẻ nhỏ. Còn người “trẻ thơ trưởng thành” đạt đến sự an nhiên tự tại đó qua
một quá trình chiến đấu từ bỏ để siêu thoát khỏi mọi ràng buộc thế tục và hướng
tới Nước Trời.
4.
Đứa bé của hòa bình
Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của
hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, đã kể rằng:
“… Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ
đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một
túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay
trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp
lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó.
“Với bước chân đi chập chững, nó
đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy
đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi
đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố
mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc
lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp
nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết.
“Cuối cùng thì tôi quyết định phải
rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm
được vị trí đóng trại của kẻ thù… Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức
thì dừng lại… Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một
giây.
“Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm
múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã
thúc đẩy nó làm như vậy? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được
sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức
khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong
tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng
bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở
lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng,
nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui
vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ
bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc
của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù
phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi.
“Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích
của mình và bảo họ: trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì
lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này.
Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng
tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình
ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên
lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi
đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi
đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt
ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của
hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta.”
5.
Ai cũng có quà trung thu
Năm ngoái, tại Viện Tim, một số
em mổ tim chơi trung thu ngay trong Viện với mấy cái đèn cầy, vài cái bánh… Anh
Trung bạn tôi đem lồng đèn vào cho cháu Hữu:
- Chú tặng con cái lồng đèn
trung thu, nhớ Chúa Giêsu.
- Ngày xưa Chúa Giêsu có ăn tết
Trung Thu không? Có lãnh quà trung thu không?
Chú Trung trả lời:
- Chúa Giêsu lãnh quà trung thu
cả đời con ạ, vì Chúa Giêsu lúc nào cũng đơn sơ khiêm tốn, và vâng lời Chúa Cha
cả.
- Vậy ai vâng lời là được lãnh
quà Trung Thu hả?
- Đúng rồi, ai còn biết vâng lời,
ấy là người thiếu nhi.
- Cha con vâng lời mẹ con, vậy
cha con có phải thiếu nhi không?
- Có chứ, ai biết vâng lời làm
điều tốt đều là thiếu nhi cả, đều được lãnh quà trung thu…
Hữu quay sang mẹ, hỏi:
- Quà của cha đâu, mẹ?
Xin cảm ơn món quà và giải thích
của anh Trung, bạn tôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng
con sống lại tuổi thơ thánh thiện- tuổi thơ khiêm cung vâng lời. Xin ôm chúng
con vào lòng như “Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc
10,16). Amen.
PM. Cao Huy Hoàng
6.
Phép lạ bánh trung thu
Đức Hồng Y Joseph Zen, 81 tuổi,
giám mục về hưu của Hồng Kông, từ 4 năm nay vẫn làm việc mục vụ để chăm sóc tù
nhân, những người cải huấn, cai nghiện, phục hồi chức năng của Hồng Kông.
Ngài thường mua bánh trung thu mỗi
năm cho nơi Ngài tới thăm, vì phong tục ở đây là tìm về gia đình trong ngày tết
trung thu để có thể chia sẻ những tấm bánh với những người có mặt và không quên
để dành những lát bánh cho những người vắng mặt cũng như những người quá cố.
Cho nên, theo Đức Hồng Y Zen,
thì tấm bánh trung thu mang một ý nghĩa rất đặt biệt về niềm vui gia đình, về
đoàn tụ và hạnh phúc. Tặng bánh trung thu cho tù nhân là một nghĩa cử đem lại
nguồn an ủi và hy vọng cho họ.
Năm nay, Đức Hồng Y Zen ước vọng
có được 10.500 chiếc bánh để tặng cho tất cả mọi tù nhân vào dịp Tết Trung Thu,
ngày 19 tháng 9 tới đây. Biết rằng Đức Phanxicô là một người đầy lòng thương
xót, Đức Hồng Y Zen nói với AsiaNews, "Tôi đoán rằng Ngài cũng sẽ quan tâm
đến việc tặng bánh trung thu cho các tù nhân ở đây." Ngài đã viết thư cho
Đức Giáo Hoàng.
Đức Hồng Y đã đoán đúng. Ngài nhận
được hồi âm vào ngày 7 tháng 8 của Đức Giáo Hoàng như sau: "Thưa Đức Hồng
Y quí mến, tôi sẵn sàng tham gia việc tặng bánh trung thu cho các anh chị em của
chúng ta trong các nhà tù của Hồng Kông, Chúa Giêsu sẽ nhận ra chúng ta ở ngưỡng
cửa Thiên Đàng. Chúc mừng Tết Trung Thu! Thân ái ban phép lành, PP
Phanxicô."
Đức Hồng Y Zen đã nắm bắt lấy cơ
hội, Ngài đã in nhiều tấm thiệp với lời hồi âm của ĐGH (dịch ra hán văn) và gửi
cho những giáo hữu ở Hồng Kông xin họ hãy noi gương ĐTC.
Chỉ khoảng 2 tuẩn lễ, tiền quyên
góp ào ạt đổ về, lên tới 170,000 đôla HK (22,000 USD), đủ để mua bánh cho mọi
tù nhân.
Vào đầu tháng Chín, Đức Hồng Y
Zen cho biết, "Tôi đã gửi cho Đức Thánh Cha một hộp bánh Trung Thu và chúc
lễ hội đến Ngài." Đó là một hộp bánh nhân hạt sen có 2 lòng đỏ trứng muối.
Ngài cho biết thêm "Khi tôi
đến thăm các tù nhân vào cuối tháng Tám, họ nhắc nhở tôi về bánh trung
thu," Ngài mỉm cười. "Tôi chắc chắn rằng họ đã biết việc Đức Thánh
Cha Phanxicô hỗ trợ sự kiện này, vì họ thường theo dõi tin tức trên các
báo."
Câu chuyện vui đã không ngừng ở
đây, nhiều nhà thờ và tổ chức dân sự cũng đã noi gương ĐTC, quyên góp bánh
trung thu và phân phối đến những người cao tuổi sống một mình và đến các gia
đình có thu nhập thấp.
THỨ HAI - ĐÈN SÁNG ĐẶT ĐÚNG CHỖ
Lời Chúa: Lc 8, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường:
nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì
kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người
ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được
cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi."
TRUYỆN
KỂ
1. Ngọn
Ðèn Ðức Tin
Bất cứ du khách nào sau một lần
viếng thăm nước Mỹ, cũng đều phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng
của người Mỹ: tất cả những nghiên cứu của đại học đều được kỹ nghệ đỡ đầu, tất
cả những phát minh mới của khoa học đều tìm được ứng dụng trong kỹ nghệ. Người
Kitô hữu có thể nhìn vào đó để rút ra bài học cho đời sống đức tin của mình
không?
Thánh Giacôbê Tông đồ đã viết:
"Một đức tin không có việc làm là đức tin chết." Một đức tin không được
diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hàng ngày phải chăng không là đức
tin chết?
2.
Đèn phải cháy sáng
Quả thật, Lời Chúa luôn có sức
chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như
dầu châm vào những cây đèn mà chúng không chịu cháy, nên chúng cũng vô ích. Bà
Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên
thế giới có bị đốt hết đi thì người ta cũng vẫn có thể nhìn vào cuộc sống chúng
ta mà chép lại Tin Mừng đúng từng câu, tững chữ."
Đức Cha Jean Koret, vị Gám mục
Tiệp Khắc đã từng phải sống lén lút ở chế độ Tiệp Khắc trước kia, tâm sự rằng:
Ngài đã gặp gỡ được nhiều người tốt, lúc ngài phải đi làm việc như một công
nhân, hơn là lúc ở trong tòa Giám mục. Tiết lộ trên đây của Đức cha Jean Koret,
đã phản ánh trung thực điều Chúa Giêsu đã phán: “Có ai đốt đèn rồi đem để ở
trong thùng hay dưới gầm giường không”?
3.
Ngọn đèn tỏa sáng.
Vào buổi chiều nọ, một người lấy
từ trong hộp một cây nến nhỏ và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đang đi đâu vậy?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường
cho tầu bè vào cảng.
- Nhưng tôi bé nhỏ thế này làm
sao tầu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng
thôi, còn mọi việc để ta lo.
Tới đỉnh tháp, người ấy đặt cây
nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, mà ánh
sáng lan tỏa ra và mọi tầu bè có thể thấy được.
4.
Người thắp lên ngọn lửa
Trong bài giảng thánh lễ an táng
mẹ Têrêsa Ðức Hống Y Angelo Sodono, quốc vụ khanh toà thánh, đại diện Đức Thánh
Cha đã nói với mọi người: “Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn lửa tình yêu thương, mà
những người con tinh thần của mẹ, nam cũng như nữ, những nhà truyền giáo của
tình bác ái, từ nay cần tiếp tục giữ cho ngọn lửa đó cháy sáng mãi. Thế giới
ngày nay đang hết sức cần ánh sáng và sự nồng ấm của ngọn lửa này. Sự kính phục
mà chúng ta dành cho việc tưởng niệm vị nữ tu khiêm tốn, mà tình yêu to lớn đối
với Ấn Ðộ và đối với thành Calcutta này không làm giảm tầm mức công dân của thế
giới nơi Mẹ Têrêsa. Sự kính phục của chúng ta sẽ trở thành vô ích, nếu chúng
ta, những tín hữu và những người thiện chí nam nữ, bất cứ đang sống nơi đâu, nếu
chúng ta không tiếp tục từ nơi mà Mẹ Têrêsa đã ngừng lại. Người nghèo còn hiện
diện với chúng ta. Và bởi vì họ là phản ánh của Con Thiên Chúa chịu đóng đinh,
họ cần phải hiện diện nơi chính trung tâm của sự quan tâm của chúng ta, nơi
trung tâm của hành động chính trị, nơi trung tâm của sự dấn thân tôn giáo của
chúng ta.”
5.
Quen với bóng tối
Một vùng đất nọ thình lình mất
ánh sáng. Mặt trời không mọc lên, tối tăm bao phủ cả vùng. Mọi người trong vùng
đổ xô đến cửa tiệm ông Réno để mua diêm quẹt và đèn cầy, vì họ biết ông có cả một
kho chứa các thứ đó. Nhưng dân chúng càng nài nỉ, ông càng từ chối...
Ngày qua ngày, dân chúng quen dần
với bóng tối. Lúc đó ông Réno mới ý thức thái độ ích kỷ của mình. Ông mở cửa
kho, mời gọi mọi người đến lấy diêm quẹt và đèn cầy về đốt. Nhưng trớ trêu thay
mọi người trả lời:
- Chúng tôi đã quen sống với
bóng tốt rồi. Chúng tôi không cần ánh sáng nữa!
Thái độ ích kỷ không những đã
làm cho ông Réno mất đi lợi nhuận và hơn nữa còn mất đi cả niềm tin đối với những
người chung quanh nữa. “Ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị mất đi” (Lc 8, 18).
6.
Không sống đức tin
Báo chí trước đây đã nói nhiều đến
những vụ khủng bố, giết người, cướp nhà băng xảy ra tại Manila thủ đô nước
Philippines. Việc này khiến Đức Hồng Y Jaime Sin ở Manila phải lên tiếng kêu gọi
chính quyền lo thiết lập lại trật tự.
Phản ứng lại lời cảnh cáo của Đức
Hồng Y, bộ trường bộ thông tin trả lời:
- Giáo Hội Công giáo cũng có phần
trách nhiệm trong đó, vì đã không chu toàn vai trò của mình trong việc làm cho
tín hữu Công giáo sống Tin Mừng.
Còn đâu là danh dự của một quốc
gia mà dân số Công giáo lên đến gần 90 phần trăm!
7.
Món ăn tinh thần phải dễ ăn
Tờ Maly Dziennik (“Báo Nhỏ”) do
cha thánh M. Kolbe (Côn-bê) chủ biên ở Ba Lan gặt hái thành công ngoài mức mong
đợi: bài viết công phu, giá rẻ, phân phối nhanh chóng, được đông đảo bạn đọc
thuộc giới bình dân đón tiếp nồng nhiệt. Thấy vậy, một đồng nghiệp nói với ngài
với giọng khinh bỉ: “Cha làm chuyện vô ích quá, công trình của cha chẳng có giá
trị gì!” Thánh nhân mỉm cười đáp lại: “Thế sao ông không làm được như tôi.”
Đúng là tờ báo thuộc loại bình dân, nhưng qua đó ngài đã đến được với đám đông
quần chúng, giải đáp các thắc mắc đức tin, nuôi dưỡng lòng đạo đức của họ. Ngài
đã tìm ra phương cách thích hợp để đáp ứng nhu cầu tâm linh của lớp người ít học.
Nhờ đó, giúp họ tìm thấy ánh sáng chân lý của Chúa.
Nói đến truyền giáo là nói đến
phương pháp, bởi vì thiện chí thôi chưa đủ. Cần tìm ra những phương pháp thích
hợp theo lứa tuổi, môi trường sống, trình độ, để đối tượng chúng ta muốn truyền
đạt dễ dàng nhận ra ánh sáng Tin Mừng của Chúa. Đứng trước những biến chuyển
chóng mặt của thời đại hôm nay, bạn có can đảm chấp nhận những thay đổi cần thiết
để phục vụ Lời Chúa hữu hiệu hơn không?
Cách dạy giáo lý tại giáo xứ
chúng ta hiện nay còn hấp dẫn trẻ em không? Cần những thay đổi nào trong cách
điều hành nhân sự hay phương pháp trình bày, để việc dạy và học giáo lý thêm
sinh động không?
8.
Sống đạo là truyền đạo
Rất nhiều lần tai chúng ta nghe
lời hiệu triệu: Hãy truyền giáo, hãy loan báo Tin Mừng! Tuy nhiên, mười năm gần
đây, số người Công giáo Việt nam không tăng bao nhiêu, vẫn chiếm khoảng 7% dân
số; đối với một số giáo phận như Qui Nhơn, Đà Nẵng, Huế... tỉ lệ ấy còn thấp
hơn nữa. Đành rằng hiệu quả của việc loan báo Tin mừng không chỉ được đánh giá
dựa trên những con số, nhưng ta vẫn phải suy nghĩ, đặt vấn đề: làm sao đây?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng soi
sáng cho chúng ta cách thức truyền giáo tinh tế hơn: “Hãy để ý tới cách thức
anh em nghe." Thật vậy, khi kể về bốn mẫu người lắng nghe Lời Chúa, Chúa
Giê-su nhấn mạnh chỉ những người là mảnh đất tốt, tức là chăm chú lắng nghe,
yêu mến Lời Chúa, thì mới sinh hoa kết quả. Nếu thực tâm lắng nghe, suy niệm và
nỗ lực sống Lời Chúa, thì đời sống ta tựa như ngọn đèn cháy sáng, sẽ có sức chiếu
tỏa cho người khác, đập vào mắt họ, khiến họ phải đặt câu hỏi.
Hãy tin rằng nỗ lực sống Lời
Chúa trong cuộc sống đời thường có vẻ như âm thầm, lặng lẽ; nhưng thật kỳ diệu,
đời sống tốt đẹp của bạn lúc đó tỏa sáng như ngọn đèn để trên đế đèn, đang tác
động đến người lân cận.
9. Tình
yêu khiêm nhường
Văn hào Nga Fyodor Dostoievski
đã nói: “Đứng trước tội lỗi con người, bạn lưỡng lự nên chống lại nó bằng vũ lực
hay bằng tình yêu khiêm nhường? Bạn luôn phải quyết định chống lại nó bằng tình
yêu khiêm nhường. Nếu bạn nhất quyết như vậy, bạn có thể chinh phục cả thế giới.
Tình yêu khiêm nhường là một sức mạnh đáng sợ, chẳng có gì so sánh được.”
Tình yêu khiêm nhường là gì? Cái
gì làm cho nó trở thành sức mạnh đáng sợ và duy nhất chống lại cuộc chiến tội lỗi?
Đức cha Clark kể về một cuộc
tranh luận của hai tín hữu nóng tính. Cuối cùng, một người nói: “Tao muốn biết
mày là gì?” Người kia la lên: “Tao là ai ư? Tao là một tín hữu khiêm nhường,
còn mày là một kẻ ngoại đạo đáng nguyền rủa.” (Ralph Waldo Emerson).
10.
Tôi là những gì tôi muốn
Một cậu bé hỏi mẹ: “Chúa có thể
thấy con đang trốn trong phòng không?” Mẹ cậu trả lời: “Chúa thấy chứ!” Cậu bé
lại hỏi: “Thế Chúa có thấy con đang trốn trong tủ không?” Người mẹ trả lời: “Có
chứ.” Cậu bé hỏi thêm: “Vậy Chúa có thấy con khi bên ngoài trời tối
không?" Mẹ cậu trả lời: “Có chứ.” Cậu bé yên lặng một lúc, rồi nói: “Con
không thích như vậy đâu.” Bài học hôm nay nhắc nhở rằng chúng ta phải chịu
trách nhiệm về mọi việc chúng ta làm ngay cả những điều bí ẩn mà người khác
không thấy được.
Hành động gì tôi thường hay làm
và tôi sẽ không làm nếu tôi biết nó sẽ phô bày trước mặt mọi người?
Thước đo nhân cách thực sự của một
người, đó là anh ta phải làm gì nếu biết rằng mình sẽ không bao giờ bị phát hiện
(Thomas McCauley).
11.
Đèn đặt dưới gầm giường
Người ta làm ra cái đèn là để
soi sáng. Muốn cho ánh sáng lan rộng, và soi sáng thì cần đặt cây đèn trên đế,
chứ chẳng ai lấy thùng úp lại, hay đặt dưới gầm giường. Chúa Kitô mời gọi các
môn đệ Ngài sống như cây đèn đặt giữa đêm tối trần gian. “Cây đèn” kitô hữu chỉ
có thể hoàn thành sứ mạng của mình là “đặt trên đế” để “soi sáng cho cả nhà”
khi chính các kitô hữu chiếu toả tinh thần của Đức Kitô qua những công việc tốt
đẹp mình làm để tôn vinh Thiên Chúa (x. Mt 5,15-16).
Mời Bạn: Ngọn đèn đức tin của bạn
có bị “nhốt” trong những thứ “hũ” kín nào hay che khuất dưới những gầm giường
tăm tối nào không? Ánh sáng Chúa Kitô có thể bị cản trở bởi gương mù gương xấu,
bị dập tắt bởi lòng ghen ghét oán thù, tính tự ái kiêu căng, nỗi đam mê dục vọng,
thói ích kỷ tham lam. Tất cả những thứ vật cản đó ngăn chận ơn lành Chúa đổ vào
lòng bạn và cũng ngăn chận ánh sáng Chúa soi sáng cho “mọi người trong nhà bạn”
đấy.
Chia sẻ: Với sứ mạng là “ánh
sáng soi cho cả nhà,” bạn sẽ làm gì theo tinh thần Tin Mừng để cất đi một gương
xấu, sửa chữa một tính hư của người trong cộng đoàn/gia đình bạn?
12.
Trung tín trong việc nhỏ
Một sợi tơ mỏng manh nhỏ bé dường
như chẳng làm nên tích sự gì. Nhưng bạn nên nhớ rằng tấm lụa mượt mà kia được dệt
bằng những sợi tơ như thế.
Cuộc đời chúng ta được dệt bằng
biết bao việc nho nhỏ được trải đều trong khắp cả đời sống thường ngày. Từng
giây, từng phút trong đời, những cử chỉ yêu thương, một lời nói dịu dàng, một
hy sinh kín đáo, một cái nhìn cảm thông, một ý tưởng ngay lành, tất cả những điều
đó, từng chút chút một, sẽ dệt nên cuộc sống tươi đẹp, hào hùng thấm đầy ơn
phúc của Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu nhắc nhở chúng
ta: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất
lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10).
THỨ BA - MẸ CHÚA VÀ ANH EM CHÚA
Lời Chúa: Lc 8, 19-21
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu
đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta
báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy."
Người trả lời với họ rằng:
"Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành."
TRUYỆN
KỂ
1. Gia
đình của Chúa
Chúa Giêsu đến trần gian để xây
dựng một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, gia đình của những người cùng một mục
đích là nguyện cho Danh Cha được cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời. Ðể cho thấy sự duy nhất về cùng một gia đình đó, Chúa
Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con
và Con ở trong Cha." Ðó là hình ảnh Chúa Giêsu muốn diễn tả khi Ngài nói:
"Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành."
Với ý nghĩa đó, Ðức Maria hai lần
xứng đáng làm Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm
của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ thật vì đã sinh ra Chúa Giêsu, mà còn
là Mẹ vì đã thực thi ý Cha trên trời. Trong biến cố truyền tin, Ðức Maria đã
thưa với Sứ thần: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng theo lời thiên thần
truyền." Ðiều đó nói lên suốt đời Ðức Maria, người luôn làm theo ý Chúa.
2.
Thực hành Lời Chúa
Một tờ báo Ý dí dỏm rằng Chúa
Giêsu chỉ có một bài giảng trên núi, còn Đức Gioan-Phaolô II thì có một ‘núi’
bài giảng. Thật ra, không riêng chi Đức Gioan-Phaolô II, nhưng các giáo sĩ, tu
sĩ, và giáo dân ngày nay cũng viết lách, sáng tác rất nhiều.
Tình hình xuất bản sách báo Công
giáo ‘trăm hoa đua nở’ đến nỗi nhiều văn kiện, tác phẩm mới trình làng thì đã sớm
chìm vào quên lãng. Văn kiện này chưa kịp triển khai, văn kiện khác đã xuất hiện.
Về khả năng ăn nói và viết lách, Giáo Hội ngày nay rất giàu chứ chẳng nghèo
chút nào. Tạ ơn Chúa!
Thế nhưng, để trở thành “mẹ và
anh em” Chúa Giêsu, giàu phần ‘thuyết’ thôi thì chưa đủ, còn phải “đem ra thực
hành” nữa.
Kitô giáo là đạo thực hành, đạo
sống, chứ không phải là lý thuyết. Thánh Giacôbê nhắc chúng ta rằng đức tin
không có việc làm là đức tin chết!
Có người nói rằng niềm tin Kitô
giáo không chỉ được gói ghém trong kinh Tin Kính, nhưng cả trong kinh Hòa Bình;
cũng như không chỉ nguyên nơi việc đọc hai kinh đó, nhưng nhất là thực hành
chúng nữa. Bạn nghĩ sao?
3.
ADN của Đức Mẹ
Ngày nay xét nghiệm DNA giúp
giám định liên hệ huyết thống tự nhiên giữa hai con người. Cách đây hai ngàn
năm, Đức Giêsu đã đưa ra một loại xét nghiệm ‘DNA thiêng liêng’ để giám định
liên hệ ‘gia đình thiêng liêng’ của con cái Thiên Chúa. Người xác nhận rằng những
ai có ‘gien’ “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” thì đó là “mẹ và anh em”
của Người. Rõ ràng Đức Giêsu không nhằm chối bỏ mối quan hệ huyết thống tự
nhiên, song là khẳng định một chân lý bao hàm hơn: Có tồn tại một gia đình
thiêng liêng của Chúa; gia đình ấy rộng lớn hơn và có sức chứa đựng cả gia đình
cốt nhục. Ở đây ta thấy “đạo” không loại trừ “đời” như ánh sáng và bóng tối,
cũng không song song với đời như hai thanh “ray” của một đường tàu, nhưng “đạo”
chứa đựng và làm thăng hoa “đời.”
Nhìn Đức Maria để thấy ngay cả
trong xét nghiệm ‘DNA thiêng liêng’ này thì Mẹ cũng là người thứ nhất ở trong số
“mẹ và anh em” của Đức Giêsu. Vì không ai có thể sánh với Mẹ về thái độ sẵn
sàng “lắng nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
4.
Gia phả của Chúa Giêsu
Will Roger, người Ấn Độ, là một
người có óc hài hước. Một hôm, có một người phụ nữ khoác lác rằng tổ tiên của
bà đến từ miền Mayflower. Và bà ta quay lại Will và hỏi: “Thế còn tổ tiên của
ông thì sao?” Bằng một cái nheo mắt tinh nghịch, Will trả lời: “Họ cũng xuất
thân từ đó.” Một ai đó đã nói: “Tôi vui mừng vì Chúa Giêsu không phải là cha của
một gia đình. Điều đó tránh cho nhiều nguời khỏi phải cố gắng truy nguyên tổ
tiên của họ từ Ngài.” Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở rằng mối
liên hệ quan trọng của chúng ta với Ngài không phải là mối liên hệ thể lý, mà
là mối liên hệ thiêng liêng. Và cách để xây dựng mối liên hệ này là lắng nghe
và giữ lời Thiên Chúa.
Tôi muốn mối liên hệ của tôi với
Chúa Giêsu mật thiết như thế nào? Tôi sẵn sàng làm gì để đạt được điều đó?
Phương cách để có bạn hữu là hãy
nên một với họ (Elbert Hubbard)
5.
Trở nên nghèo khổ
John Coleman, hiệu trưởng của
trường đại học Haverford muốn nếm trước thế nào là nghèo khổ và vô gia cư. Vì
thế, ông đã sống mười ngày trên đường phố Nữu Ước, không tiền bạc, không nơi
trú ngụ. Nhật ký về kinh nghiệm này được đăng trên tạp chí New Yorker với lời dẫn
nhập như sau: “Tôi đi chậm hơn, không còn thấy bực mình vì đèn giao thông nữa.
Theo thói quen, tôi nhìn xuống cổ tay, nhưng chẳng có đồng hồ, và nếu có thì
cũng chẳng quan trọng gì. Tôi đến một lò nóng bức trên đường phố, thì ở đó đã
có người rồi.”
Có khi nào tôi cố gắng thấy một
cái gì đó qua ánh mắt người khác, đặc biệt là người thiếu thốn chưa?
Chúng ta không theo người khác
như chính họ, mà là theo chủ quan của mình. (H. M. Tomlinson)
6. Niềm
vui thi hành ý Chúa
Ta vẫn thường trăn trở: Làm sao
tìm được niềm vui trong cuộc sống? Làm cách nào để mỗi ngày ta có thể chọn một
niềm vui? Đối với người Kitô hữu, cách tốt nhất để có được niềm vui, hạnh phúc
mỗi ngày và bền lâu là làm theo thánh ý Chúa. Tại sao thế? - Thưa, Đức Giêsu đã
diễn tả Nước Trời như tiệc cưới vui vẻ. Nước Trời ấy được định nghĩa cách vắn gọn
là xã hội trên trần thế nơi ý Chúa được thực hiện trọn vẹn như ở trên trời. Đức
Giêsu là mẫu người hoàn hảo đã làm cho ý Chúa và ý mình nên một. Vì vậy, ai chú
tâm lắng nghe, suy gẫm và thực hành Lời Đức Giêsu thì trở nên những người em
thân thiết với Ngài, là con cái Cha trên trời, là công dân của Nước Trời vui
tươi.
“Cách tốt nhất để làm bạn vui
lên là làm cho người khác vui lên” (Nhà văn M. Twain). Khi làm Thiên Chúa hài
lòng qua việc thực thi Lời Ngài, bạn có được niềm vui, một niềm vui sâu xa, bền
vững. Những hy sinh do việc bạn dẹp bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa sẽ được Thiên
Chúa bù đắp bằng những niềm vui bạn không ngờ. Bạn còn chần chừ gì nữa, hãy bắt
đầu tập lắng nghe và thực thi Lời Ngài.
THỨ TƯ - SAI 12 TÔNG ĐỒ ĐI RAO GIẢNG
Lời
Chúa: Lc 9, 1-6
Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng
trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật.
Đoạn
Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo
các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị,
bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng
rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các
con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ."
Các
ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp
nơi.
TRUYỆN KỂ
1. Nói mà không làm
Có
lần nhà hiền triết Diogène đứng ở một góc đường và cười rã rượi như người điên
loạn. Một khách bộ hành hỏi ông: "Có gì mà ông cười ngặt nghẽo như thế?"
Ông đáp: "Anh có thấy tảng đá to ở giữa đường kia không? Từ khi tôi tới
đây, đã có mười người vấp ngã vì nó và nguyền rủa nó, nhưng không ai quan tâm lấy
nó đi để tránh cho người khác khỏi vấp ngã."
Có
nhiều cách làm việc Tông đồ, nhưng hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt
lành của mình. Xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời của Chúa và hăng say dấn
thân phục vụ những người xung quanh vì Chúa.
2. Rao giảng bằng cầu nguyện
Tuy
là một nữ tu Dòng Kín, nhưng Têrêsa vẫn ao ước được làm linh mục để đi truyền
giáo khắp nơi, làm cho dân ngoại trở lại. Và chị ao ước làm linh mục truyền
giáo như thế cho đến tận thế. Chị luôn sống đời cầu nguyện và hy sinh cho các
linh hồn được trở lại.
Cuộc
đời cầu nguyện và hy sinh của chị Têrêsa, tuy rất ngắn ngủi vì qua đời lúc 24
tuổi (1873 - 1897), nhưng đã làm cho vô số người trở lại. Giáo hội phong tặng
chị là Bổn Mạng các vị truyền giáo và các xứ truyền giáo.
3. Giảng bằng đời sống
Trong
việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra
phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo
dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một
con người."
Chúng
ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ hay bất cứ phương
tiện nào, nhưng phương tiện có tính thuyết phục nhất là đời sống thực tế của
chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa, để người ta trông
thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.
4. Chúa sai tôi đi
Sau
thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay
xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm với hố, tường
thì đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không
một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh
đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp
đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu,
cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi
cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu
vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ
nhẹ nói với những người chung quanh cha rằng:
-
Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ tôi ngày
tôi chịu chức linh mục: “Nay con đã là linh mục của Chúa, cha chỉ cầu mong con
ba điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào. Thứ hai, khi qua đời con
cũng chẳng còn xu nào. Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với
Chúa."
Và
thế rồi ngài an bình ra đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
5. Bán tài sản để phục vụ
Vào
năm 1965, dư luận tại Italia ngỡ ngàng trước tin dược sư Marcello Candia, 59 tuổi,
là giám đốc và là chủ nhân hai viện bào chế có tiếng ở Bắc Italia đã bán hết
hai viện, nhà cửa, đất đai và tất cả sản nghiệp của mình rồi sau đó mang tiền
sang miền Amazone Brazil, với sự đồng ý của Đức Tổng Giám mục Aristide
Pirovano, giáo phận Maccapa thuộc Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Milano. Ông
Candia đã xây cất một nhà thương gồm 120 giường để tiếp đón và chữa trị cho các
người nghèo trong vùng. Nhiều người cho rằng ý định của vị dược sư là một việc
làm điên rồ. Nhưng ông đã nói:
“Ngay
từ thời gian còn ở trung học, tôi vẫn thường tiếp xúc với dân nghèo ở khu vực
ngoại ô Milano dưới sự hướng dẫn của một vị linh mục dòng thánh Phanxicô
Capuciano. Lòng yêu mến công tác truyền giáo đã nảy sinh trong tôi từ dạo đó. Một
lần kia, thày Kecillio, người giữ cửa tu viện đã nhờ tôi giúp phân phát cháo
cho người nghèo, tôi đã vui lòng nhận lời. Tại phòng khách nơi nhiều người đang
chờ tới phiên mình, tôi nhìn thấy tấm hình của cha Damiane de Samarate, người
đã chết vì bệnh cùi năm 1924 tại thành phố Belem bên Brazil, sau khi đã tận tụy
chăm sóc các người bệnh tại đây và chính người cuối cùng đã lây bệnh, rồi chết.
Mỗi lần nhìn lên tấm hình vị linh mục, tôi lại cảm thấy một lời mời gọi văng vẳng
bên tai: “Tại sao mình lại không bán hết tài sản để phục vụ người nghèo?
Sau
khi đã đến thăm miền Amazone, tôi đã quyết định bán tất cả sản nghiệp và đến
làm việc tại đây để phục vụ và giúp đỡ những người nghèo.”
6. Sống nghèo
Vào
lễ tạ ơn năm 1985, những họa sĩ vẽ tranh biếm họa của quốc gia góp lại và gửi đến
cho 90 triệu độc giả đang đi nghỉ lễ cùng một sứ điệp: “Hôm nay, đang khi chúng
ta ăn đại tiệc, thì hàng triệu người đang chết đói.” Điển hình là bộ phim hoạt
hình Peanuts trong đó Linus hỏi Charlie có muốn một bữa thịnh soạn không?
Charlie trả lời: “Có chứ, nhưng tôi không nghĩ là có quá nhiều thực phẩm.”
Snoopy nhìn vào đĩa trống không và tự nhủ: “Charlie sẽ nghĩ nhiều về thức ăn, nếu
đĩa của anh ta cũng trống không như đĩa của ta.” Có lẽ, dư dật lương thực còn tệ
hơn là có quá ít, bởi vì nó làm chúng ta mất đi sự nhạy cảm đối với kẻ nghèo
đói và trở thành vô ơn đối với Thiên Chúa.
Tôi
có nhạy cảm đối với người đói không? Tôi biết ơn Thiên Chúa ra sao?
Ăn
uống quá độ cũng như không có gì để ăn đều đưa đến bệnh hoạn (William
Shakespeare)
7. Hãy rao giảng và chữa lành
Tổng
thống Woodrow Wilson có lần đã nói: “Không ai có thể yêu thương anh em với một
bao tử lép.” Quan điểm ông đưa ra rất quan trọng: Chúng ta được tạo dựng gồm cả
hồn lẫn xác. Chỉ nói đến linh hồn mà bỏ qua thể xác là quên đi thân phận thụ tạo
của chúng ta. Nói khác đi, chúng ta không thể nói với người khác những chuyện
thiên đàng mà không nói đến những chuyện trần thế. Đó là lý do khiến Chúa Giêsu
nói với các môn đệ “hãy rao giảng và chữa lành” để cho thấy cả nhu cầu thiêng
liêng lẫn nhu cầu thân xác của con người.
Điều
gì trong tôi cần được chữa lành trước khi có thể nghe lời giảng dạy?
Sự
nghèo đói có sức tàn phá lớn lao đối với mọi tài năng nó tác động. (J. W.
Gardner)
8. Lên đường
Trong
đại dịch Covid-19, lời mời gọi lên đường, dấn thân của Chúa hối thúc chúng ta
hơn bao giờ hết. Bởi lúc này, bao người đau buồn khi người thân ra đi do dịch bệnh,
lắm kẻ lâm trọng bệnh, bao người đang túng thiếu, căng thẳng, tuyệt vọng. Họ cần
được cứu giúp, chữa lành vết thương thể xác cũng như tâm hồn, được thắp lên niềm
hy vọng. Loan tin vui về hạnh phúc đời đời qua những nghĩa cử bác ái, chia sẻ,
nâng đỡ, yêu thương trong mùa dịch này có thể phải đối mặt với đủ mọi khó khăn.
Xác tín được Chúa Giê-su sai đi, thánh Phao-lô nhắn nhủ: “Hãy rao giảng Lời
Thiên Chúa, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Trong cơn
đại dịch, đã có bao tu sĩ, giáo dân, linh mục sát cánh bên các bệnh nhân Covid,
hay an ủi, chia sẻ, giúp đỡ các người túng thiếu. Một tu sĩ phục vụ tại bệnh viện
dã chiến
“Việc phục vụ càng gây nguy hiểm cho bản thân
mình thì tình yêu càng được diễn tả cách mạnh mẽ.” Nhớ rằng: “Ai nghẹn ngào ra
đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126,5).
9. Bất lực mà quyền năng
Một
buổi chiều năm 1865, Lincoln mặt vùi vào tay, nói với nội các, “Thưa các ngài,
chẳng bao lâu nữa, sẽ có tin quan trọng! Đêm qua, tôi mơ thấy mình đơn độc trên
một chiếc thuyền, không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!"
Im lặng vần vũ! “Nhiều lần, tôi đã mơ như thế; mỗi lần, là một trận chiến lớn.
Vâng, có lẽ ngày mai, hoặc vài giờ nữa!"
Năm
giờ sau, ông bị ám sát. Vị tổng thống luôn cảm nhận bất lực và yếu hèn đó lại
trở nên ‘một huyền thoại can trường’ nhờ niềm tin vào Chúa của mình!
Như
người dân Hoa Kỳ đã nhìn thấy sự ‘bất lực và can trường’ nơi vị tổng thống huyền
thoại của họ, trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá điều tương tự nơi các
môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài sai họ đi trong yếu hèn và mạnh mẽ, ‘bất lực mà quyền
năng!’.
THỨ NĂM - CÂU HỎI VỀ CHÚA GIÊSU
Lời Chúa: Lc 9, 7-9
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe
biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: “Ông
Gioan đã từ cõi chết sống lại”; còn kẻ khác lại nói: “Ông Êlia đã hiện ra”; kẻ
khác nữa nói rằng: “Một tiên tri thời xưa đã sống lại."
Nhưng Hêrôđê thì nói: “Ông Gioan
trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?”
và vua tìm cách gặp Người.
TRUYỆN
KỂ
1. Người
Kitô hữu chân chính
Trong những dòng cuối cùng của
Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người
Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao
băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình.
Người Kitô hữu càng đóng trọn
vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống
cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi
lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men
bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột.
Như thế đó, sự hiện diện của người
Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống
ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
2. Gioan
- Một người lạ lùng
Lạ lùng vì được thụ thai trong
lòng một bà già đã quá tuổi sinh con.
Lạ lùng vì khi đang còn ở trong
bụng mẹ, đã được sạch tội tổ tông.
Lạ lùng vì khi đang còn thanh
niên đã lên núi, sống cuộc đời thinh lặng và khắc khổ.
Lạ lùng vì khi được dân chúng
hoan hô khen ngợi như Đấng Cứu Thế, thì vẫn khiêm nhượng xưng mình chỉ là kẻ dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Lạ lùng vì cái chết đầy anh dũng
để bảo vệ Luật Chúa: Chết vì bị các kẻ dâm ô chặt đầu bỏ trên đĩa để cười đùa.
Đó là Gioan Tẩy giả…
3.
Đức Kitô là ai
Thế gian hôm nay đang cần những
chứng nhân. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho một Thiên Chúa đang sống cho
thế giới hôm nay.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc
đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần.
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi
sao?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi
đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều
về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Tôi rất tiếc là tôi đã có học những
chi tiết này trong một khoá giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao
nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng
không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết
giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời
sự nghiệp của ông ta?
- Tôi không nhớ hết được.
- Như vậy, anh biết quá ít, quá
mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự theo ông Kitô.
- Anh chỉ nói đúng một phần. Tôi
rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất
rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ
lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về
nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt
khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh
phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả
những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất
cả những gì tôi biết về Ngài.
4.
Thắc mắc về Chúa
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia
Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh, trong đó có trưng bày một bức họa tựa
đề: “Người bị khinh chê chối bỏ." Bức hoạ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ
chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố ở trung tâm thành phố Luân đôn. Đây
là khu đông đúc dân cư nhưng không một ai để ý tới Ngài. Một người đàn ông vừa
đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống
nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng
đầu tiến bước, nhưng không thấy Chúa. Một nhà thần học đang hăng say thuyết giảng
về Đức Kitô mà không nhìn thấy Ngài. Duy nhất chỉ có một nữ tu nhìn thấy Chúa,
nhưng vẫn dửng dưng bước đi trên con đường của mình.
Ông William Barclay, một học giả
Kinh Thánh nổi tiếng trong thành phố Luôn Đôn đã bình luận về bức họa như sau:
“Hoàn cảnh này cũng thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Giêsu tái xuất
hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới Ngài. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện
thực tế hơn là việc lưu tâm tới Chúa, chẳng ai thắc mắc “Đức Giêsu là ai?”
5.
Thiên Chúa đã chết rồi
Một hôm thần dữ Satan triệu tập
tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là
giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không
bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao các ngươi thực hiện
công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn
việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian,
nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết
nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người
vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ
niềm tin này mà ngược lại chẳng khác gì Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy, chúng
ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
6. Thiên
Chúa còn sống hay không?
“Trẻ con có những tính xấu. Khi người
lớn vào phòng, chúng không còn đứng dậy chào nữa. Chúng cãi lại cha mẹ, bướng bỉnh
với giáo viên.” Những đánh giá đáng buồn này về trẻ em được viết ra không phải
chỉ trong thời đại chúng ta, mà là bởi triết gia Socrates cách đây 2.500 năm.
Đến mức độ nào tôi có khuynh hướng
nhìn cuộc sống hay con người một cách bi quan, và đôi khi còn tự hỏi không biết
Thiên Chúa có còn quan phòng hướng dẫn nữa không? Đây là dấu hiệu của điều gì?
Chúng ta đã không dám thở ra một
lời cầu nguyện hay dám có một mục đích cho nỗi đau khổ của mình! Có một cái gì
đó đã chết trong chúng ta, và cái đó chính là niềm Hy Vọng (Oscar Wilde).
7.
Xa lạ với Chúa Giêsu
Một số người đề nghị nhạc sĩ
dương cầm Fats Waller định nghĩa về nhạc Jazz. Fats nói: “Điều bạn hỏi tôi có
nghĩa là tôi cũng không thể trả lời được.” Điều Fats nói về nhạc Jazz cũng đúng
trong trường hợp Chúa Giêsu. Nếu có ai hỏi chúng ta Chúa Giêsu là ai, thì điều
đó có nghĩa là chúng ta không thể trả lời cho họ được.
Trong số những câu hỏi mà người
khác không thể cho chúng ta lời giải đáp, có câu hỏi: “Chúa Giêsu là ai?” Không
ai có thể trả lời câu hỏi này, ngoại trừ Cha trên trời (Mt 16, 17). Tất cả những
gì chúng ta có thể làm là mở rộng lòng để đón nhận.
Điều này gợi lên câu hỏi: Tôi có
thể làm gì để giúp người khác mở rộng lòng đón nhận lời giải đáp của Cha trên
trời cho câu hỏi: Chúa Giêsu là ai?
Hãy cầm tay tôi và cùng tôi tiến
bước. Đừng đi trước tôi, nếu không, tôi không thể nào theo bạn được.
8.
Gặp Chúa làm gì?
Một nhà giáo dục đã nhận xét xác
đáng rằng, để hội nhập với thế giới không chỉ cần những mặt hàng tốt, mà còn cần
những người Việt Nam mới: trung thực, liêm chính. Trung thực là vốn liếng quý
hơn hết, bền vững hơn hết ngay cả trong lãnh vực “thương trường là chiến trường.”
Huống hồ trong mối quan hệ với Thiên Chúa! Có hai con người biểu tượng cho hai
hạng người đến với Chúa Giêsu: Hêrôđê và Na-tha-na-en. Hêrôđê hoảng hốt khi
nghe tin về Chúa Giêsu và muốn đi gặp Chúa, không phải để được nghe giảng mà hồi
tâm trở về với Chúa, nhưng để tìm hiểu và lập kế hoạch hại Chúa. Tâm hồn ông
lún sâu trong bất an. Trái lại, Na-tha-na-en rất chân thành khi đến với Chúa. Kết
quả là ông đã gặp được Chúa, một cuộc gặp gỡ chân tình, thâm sâu, thúc đẩy
Na-tha-na-en tuyên xưng: “Chính Thầy là Con Thiên Chúa” và đưa dẫn ông vào sứ mạng
truyền giáo.
Phải chăng vì bạn thiếu sự chân
tình khi đến với Chúa nên lòng bạn cảm thấy khô khan mỗi khi gặp Ngài?
THỨ SÁU - ĐẤNG KITÔ CHỊU NHIỀU ĐAU KHỔ
Lời
Chúa: Lc 9, 18-22
Việc
xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người,
thì Người hỏi các ông rằng: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?”
Các
ông thưa rằng: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn
người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại.”
Người
lại hỏi các ông rằng: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”
Simon
Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
Và
Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: “Con Người phải
chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết
chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.”
TRUYỆN
KỂ
1. Thầy
Là Ðức Kitô
Trong
số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một
danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về
nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng
phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa
lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả
lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa
Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài
đều từ từ bị chứng minh là sai.
Phêrô
đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Ðức
Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Ðấng
quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch sử đến
hồi kết thúc.
2. Tuyên
xưng niềm tin và cuộc sống
Vào một
buổi học Giáo lý nọ, một cô Giáo lý viên hỏi em nhỏ: “Con có tin Đức Giêsu là
Thiên Chúa không?” Em trả lời ngay: “Dạ, thưa không ạ!”
Quá
ngỡ ngàng, cô Giáo lý viên hỏi tiếp: “Tại sao con không tin?” Em đó nói: “Nếu Đức
Giêsu là Thiên Chúa, ắt Ngài làm được nhiều sự, Ngài sẽ làm cho bố con không
nghiện rượu, mẹ con không cãi nhau với bố con và hàng xóm nữa”; “Nếu Ngài là
Thiên Chúa, thì những người tin Ngài phải sống tốt!”
3. Hướng
về thập giá Chúa Kitô
Cho đến
năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng dáng chiếc áo dòng
đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy.
Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu vị linh mục. Vị linh mục cúi xuống nhặt
lấy viên đá đầy máu đỏ.
- Xin
cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.
Và sự
thật viên đá đó là viên đá đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.
Nước
Chúa trên mặt đất này là Giáo hội, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi
như vậy. Giáo hội vẫn phát triển trong âm thầm và đau khổ.
4. Vác
thập giá của minh
Vào
chiều thứ sáu Tuần thánh, cha sở kêu gọi giáo dân: khi quí vị đến nhà thờ đi chặng
đàng Thánh giá để tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên
làm một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào tượng trưng cho sự đau khổ của
mình trong cuộc sống đang phải chịu.
Sau
chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ cho tôi làm phép. Mọi người
đều mang lên đủ loại thập giá. Ông trùm bước lên tay không, cùng với bà vợ. Khi
cha sở hỏi, thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói: “Thưa cha, đây
là thập giá của con.” Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng:
“Bây giờ ông hãy ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi.”
5. Sức
thuyết phục của thập giá
Vị
khách đến uỷ lạo một thương binh trong bệnh viện:
- Anh
thuộc giáo hội nào?
- Tôi
thuộc giáo hội của Chúa Kitô.
- Cái
gì thuyết phục anh vào giáo hội đó?
-
Thuyết phục ư? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp: phải, tôi bị Ngài thuyết
phục đến độ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền, thế quyền... không gì có thể
tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.”
6. Tôi
bảo Chúa là ai?
“Chúa
Giêsu hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Lc 9,20)
Hình
như có ai đang hỏi, đang mời tôi suy nghĩ.
Giờ
này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài
không?
Hay
chỉ là một chiếc bóng bên đường, một lần cất bước đi qua để lại thoáng nhớ mong
manh, rồi chìm dần vào quên lãng.
Giờ
này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài
không?
Hay một
lần Ngài đến giữa đêm khuya, rồi thầm cất bước ra đi, để lại thoáng chút dư âm,
tàn dần với thời gian…
Ngài
là ai? Là ai lúc tôi vui, lúc tôi buồn, lúc tôi ghen, lúc tôi hờn, lúc tôi
yêu…?
Ngài
là ai? là ai khi tôi thành công, lúc tôi thất vọng, khi lầm than, lúc thanh
nhàn, và trong suốt cuộc đời…?
Giêsu
ơi, khi quì đây và trong suốt cuộc đời, xin được gọi Ngài là Cứu Chúa của con.
(Hosanna).
7. Có
biết Chúa mới biết mình
Tại
tu viện nổi tiếng nhất vùng Galaria, người ta chỉ mở cửa thu nhận một thỉnh
sinh duy nhất và một lần trong năm mà thôi. Mỗi lần mở cửa thu nhận một thỉnh
sinh, cha bề trên thường đích thân phỏng vấn ứng sinh. Năm nào ngài cũng chỉ hỏi
một câu duy nhất, nhưng không ai biết đó là câu gì, bởi vì tất cả các ứng sinh
rớt cuộc thi đều phải uống một viên thuốc có công dụng làm cho họ quên mất câu
hỏi đã được đặt ra. Chính vì thế, thói quen chiêu sinh của tu viện đã trải qua
nhiều năm mà chưa có ai có thể biết câu hỏi đó là gì.
Trong
số những thanh niên chuẩn bị cuộc thi của tu viện, có anh Ramin tỏ ra quyết chí
hơn cả. Để chuẩn bị bước vào cuộc thi sắp tới, anh đã dành ra một thời gian dài
5 năm để tôi luyện với nhiều bộ môn khác nhau, như lịch sử, địa lý, văn chương,
triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học…
Đến
ngày thi, Ramin nhận được câu hỏi duy nhất từ cha Bề Trên: “Con hãy tự hỏi: tôi
là ai?” Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho
đúng, liền rút lui không bao giờ trở lại tu viện nữa.
8. Xin
cho con biết Chúa
Một tu
sĩ nọ muốn hoạ lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề trên, ông đi rảo
khắp nơi để tìm cho người mẫu thích hợp. Thế nhưng, càng tìm kiếm, ông càng
khám phá ra rằng: không thể có một người nào trên trần gian này hoàn toàn giống
Đức Giêsu. Từ đó, ông đi đến kết luận: Gương mặt của Đức Giêsu phải là tổng hợp
của tất cả mọi nét đẹp của con người trên trần gian này! Do đó, thay vì chỉ chọn
một người mẫu, ông đi thu nhặt tất cả nét đẹp trên mọi gương mặt mà ông bắt gặp.
Gặp
các bạn trẻ đang nô đùa chạy nhảy, ông cố gắng rút ra được nét đơn sơ. Từ một
em bé gái đang hát ca múa nhảy, ông tìm thấy nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi
một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh nặng, ông nhận ra được sức mạnh của
con người. Nhưng chân dung của Đức Giêsu không chỉ có những nét hùng nét đẹp,
mà còn phải có cả những nét đau buồn nữa. Nghĩ như thế nên nhà họa sỹ mới đi gặp
một cô gái điếm. Ông nhìn thấy nét u buồn trong đôi mắt của cô ta. Gặp một người
hành khất, ông khám phá ra nét thành khẩn van xin trên gương mặt. Lắng nghe một
tu sỹ đang rao giảng sự sám hối, ông nhận ra được sự nghiêm nghị. Và cuối cùng,
trên gương mặt người mẹ đang đi chôn cất đứa con thân yêu, ông hiểu được thế
nào là khổ đau.
Mỗi
người một vẻ! Nhà họa sỹ cố gắng đưa chúng ta vào chân dung của Đức Giêsu,
nhưng ông vẫn chưa hài lòng, vì dường như trên mặt Người vẫn còn thiếu một nét
nào đó mà ông chưa thể thực hiện được. Ngày kia, đi vào khu rừng, ông bỗng gặp
thấy một người che mặt bỏ chạy. Đuổi kịp theo con người che mặt ấy, ông khám
phá ra đó là người mắc bệnh phong. Ánh sáng bỗng lóe lên trong đầu ông: Thì ra
điều còn thiếu sót trên gương mặt của Đức Giêsu chính là “mầu nhiệm.” Với ý
nghĩ ấy, ông cầm lấy cọ vẽ một tấm vải trắng che phủ gương mặt Đức Giêsu.
Khi
tác phẩm đã được hoàn thành, tất cả những ai đã một lần cung cấp cho họa sỹ một
nét riêng của mình đều hớn hở đến nhận diện chính mình trên gương mặt Đức
Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ thấy một tấm vải trắng che kín gương mặt.
Họa
sĩ giải thích: “Mãi mãi Đức Giêsu vẫn là một mầu nhiệm!”
9. Chúa
chăm sóc
Trước
kia ở Mỹ không có xe hơi, người ta đi chuyển bằng xe ngựa. Những con đường toàn
là dấu vết của bánh xe và chân ngựa. Henry Đavit Thoreau đã giữ hình ảnh này
khi viết: “Tôi thấy một bông hoa cao hơn nửa thước giữa những dấu chân ngựa và
những vết bánh xe. Chỉ cần chệch đi một vài phân qua trái hay qua phải là số phận
của nó đã bị định đoạt. Nhưng nó vẫn sống tươi đẹp và không hề biết đến nguy hiểm
nó phải chịu.” Thiên Chúa cũng chăm sóc và bảo vệ dân Israel khỏi mọi hiểm nguy.
Thiên
Chúa chăm sóc tôi cách đặc biệt như thế nào?
[Thiên
Chúa phán:] “Từ khi ngươi còn trong lòng mẹ, Ta đã phù trợ ngươi. Đừng sợ” (Is
44, 2).
10.
Chúa cầu nguyện
Trong
mỗi biến cố quan trọng của đời Chúa Giêsu, chúng ta điều thấy Ngài cầu nguyện.
Chẳng hạn Ngài đã cầu nguyện khi chịu phép rửa (Lc 3,21); trước khi rao giảng
và chữa lành (Mc 1,35); sau khi rao giảng và chữa lành (Lc 5,16); trước khi chọn
các Tông đồ (Lc 6,12); trước khi hỏi các môn đệ: “Anh em bảo Thầy là ai?” (Lc
9,20); trước khi dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện (Lc 11,6); trước khi lên
Giêrusalem (Lc 9,29); trong Bữa Tiệc Ly (Ga 17,1-25); trên núi cây dầu (Lc
22,41); trên Thập giá (Lc 23,34).
Mẫu
gương cầu nguyện của Chúa Giêsu, một thực tế của đời Ngài, mời gọi tôi tự hỏi:
Đâu là những giây phút hiệu quả trong đời khi tôi cầu nguyện? Tôi đã đạt kết quả
gì?
Nơi
tòa phán xét, điều các tín hữu phải đối diện, đó là đã cầu nguyện quá ít.
(Leonard Rayenhill).
THỨ BẢY - CHẤP NHẬN KHỔ ĐAU VỚI TÌNH YÊU
Lời Chúa: Lc 9, 43b-45
Đang lúc mọi người thán phục về
tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: “Phần các
con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào
tay người đời."
Nhưng các ông không hiểu lời đó,
vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông
không dám hỏi Người về lời ấy.
TRUYỆN
KỂ
1. Chấp nhận khổ đau
Trong
một thánh lễ nọ, có một cụ bà đến bàn ghi ý lễ và nói: “Xin ơn chết lành!"
Vị ghi ý lễ không chịu, vì đây là điều quái gở, nên tự ý ghi lại là: “Xin như ý."
Biết được, bà cụ không đồng ý và yêu cầu ghi đúng nguyên văn. Ôi thật là người
tràn đầy đức tin!
Cũng
có một câu chuyện khác kể về hai người nọ đang gặp đau khổ và đến xin một vị ẩn
sĩ tìm cách giúp cho mình vượt qua thực trạng của cuộc sống mà họ đang phải đối
đầu.
Sau
khi nghe họ giãi bày tâm sự, vị ẩn sĩ trả lời: “Tốt hơn các anh hãy tìm đến một
vị khác, tôi không có đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó, bởi vì cả đời tôi có
bao giờ nhận điều xấu từ bàn tay Chúa đâu!" Nghe đến đây, hai người thanh
niên chợt hiểu rằng khi con người vui vẻ đón nhận khổ đau, thì khổ đau không
còn là vấn đề bi đát nữa.
Trong
Tin Mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Chúa Giêsu mời gọi các
môn đệ của Ngài hãy đối đầu với khổ đau, nếu khổ đau là thành phần thiết yếu của
cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của khổ đau hay tìm cách
tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách
thế đối đầu với khổ đau, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Ðau khổ mà không
có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
2.
Tình yêu hiến mạng
Một
tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tờ
báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Rôma, một hôm đã
cùng với các bạn đi thăm cha đáng kính Piô, vị linh mục được Chúa in năm dấu
thánh.
Vừa
gặp, cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia cha sẽ làm Giáo hoàng và
sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy. Wojtyla trả lời: “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ
không bao giờ làm Giáo hoàng."
Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu! Wojtyla đã làm
Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày 13/10/1981 tại công trường
thánh Phêrô. Gioan Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên
khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng.
3.
Biến đau khổ thành niềm vui
Một
phụ nữ được các bác sĩ cho biết là chị đang mắc cơn bệnh bất trị. Chị cảm thấy
như có một ngọn lửa bừng lên trong lòng và muốn nói với Chúa rằng chị muốn bỏ
Ngài. Thế là giữa đêm khuya, chị bỏ nhà thương, đi thẳng đến nhà nguyện để gặp
Chúa, trước cung thánh chị thốt lên:
-
Ôi, ông Chúa, ông đã phỉnh phờ lừa dối tôi. Đã hơn 2000 năm qua, ông tự nhận
mình là tình yêu, nhưng mỗi lần có ai được hạnh phúc một chút, là ông lập tức lại
cho họ trắng tay. Tôi muốn nói cho ông biết là tôi chán ông lắm rồi, giữa tôi
và ông không còn mối liên hệ gì nữa.
Người
phụ nữ chỉ nói được thế rồi ngã quỵ, không còn đủ sức đứng dậy nữa. Nhưng trong
ánh sáng mờ ảo của cung thánh, chị bỗng nhận ra một hàng chữ thêu trong tấm thảm
trước mắt chị: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội."
Vừa
nhìn thấy thế, cơn giận trong chị bỗng tan biến. Chị gục đầu vào đôi tay. Từ
trong thinh lặng u tối của nhà nguyện, và từ trong sâu thẳm của cõi lòng, người
phụ nữ ấy như nghe thấy có tiếng nói với chị như sau:
-
Con biết không, tất cả chỉ là lời mời gọi để hướng đời con về với Ta. Con chưa
bao giờ làm như thế. Các bác sĩ đã làm hết sức mình để chữa trị cho con, nhưng
chỉ một mình Ta mới có thể cho con được sức mạnh.
4.
Sức hút của người chịu đóng đinh
Người
ta kể rằng, Indira đến gặp vị đạo sĩ Makia và thưa:
-
Xin ngài hãy chỉ cho tôi một vị Thần để tôi tôn thờ và một tôn giáo để tôi sống
theo.
Đạo
sĩ liền đưa Indira đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành cho một
căn phòng rộng. Vị đầu tiên là thần Bada được đạo sĩ Makia giới thiệu như sau:
-
Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi đau khổ khỏi thế giới con người.
Nhưng
Indira lắc đầu xin được sang căn phòng khác.
Đến
vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu:
-
Đây là vị thần có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng
Indira khẽ ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối
cùng, hai người đến trước một người đang bị treo trên Thập Giá, Indira tò mò hỏi:
- Vị
thần này là ai mà bị treo trên Thập Tự như thế này?
Đạo
sĩ chậm rãi trả lời:
-
Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Công Giáo.
Với
một chút xúc động lộ ra trên nét mặt, Indira xin đạo sĩ giải thích thêm về những
gì cần phải làm để được trở thánh đồ đệ của vị bị treo trên Thập Giá. Đạo sĩ
Makia ngạc nhiên hỏi lại:
-
Này anh, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần đã gặp lúc đầu, một đề nghị cất bớt
sự đau khổ, một đề nghị tránh khỏi đau khổ, anh không thích người nào cả, thế
nhưng tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chịu treo nhục nhã trên Thập
Giá này?
Đến
phiên Indira giải thích cho vị đạo sĩ Makia:
- Hứa
làm bớt sự đau khổ trên trần gian này là lời nói suông. Người ta không thể nào
cất đi mọi đau khổ trên trần gian này. Dạy con người tránh sự đau khổ là dạy
con người sống khiếp nhược. Tránh né được đau khổ này thì đau khổ khác sẽ đến.
Nhìn vào vị Chúa của người Kitô, dám chấp nhận sự đau khổ như vậy, con người sẽ
được mời gọi để hiểu ý nghĩa của sự đau khổ và chấp nhận nó, và một khi hiểu và
chấp nhận mầu nhiệm đau khổ thì niềm vui và an bình có thể trổ sinh cả trên thế
giới không mấy tốt đẹp này. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy bị thu hút bởi Đấng
bị treo trên thập tự kia và muốn làm đồ đệ của Ngài.”
5.
Phúc họa khó lường
Phúc
hay họa trong đời tới ngày cánh chung ta mới rõ. Ông vua kia có nhiều quân sư
giúp ý kiến. Trong số đó có một ông luôn cho ý kiến hay. Lần kia vua bị chó cắn
vào đầu ngón tay cái, vua hỏi vị quân sư có uy tín:
- Ta
bị chó cắn thế này thì phúc hay họa.
- Thưa
phúc hay họa khó mà nói được.
Thế
rồi vết thương càng ngày càng lở loét, cuối cùng ngón tay cắt đi mới xong. Vua
lại hỏi quân sư:
- Bây
giờ ta lại mất một ngón tay thì phúc hay họa.
- Thưa
phúc hay họa khó mà nói được.
Vua
giận điên lên tống quân sư ấy vào ngục.
Ngày
kia vua đi săn tiến sâu vào rừng đuổi bắn con nai cho bằng được, ai dè vua tiến
cả vào khu vực của thổ dân, nên vua bị bắt để tế thần. Nhưng khi họ khám phá ra
người đàn ông này không đầy đủ chi thể không thể tế thần được, thế là vua được
tha về!
Về
tới cung điện, vua hối hận vì tống ngục vị quân sư từng giúp vua nhiều việc,
vua đến xin lỗi và phục hồi chức cho ông. Quân sư ấy nói:
- Xin
vua đừng hối hận, thật là may cho thần, nếu thần không bị vua tống ngục, thì
hôm ngài đi săn, thần cũng đi theo, chắc chắn là thần bị thổ dân bắt đem tế thần
rồi, vì cơ thể của thần vẹn toàn.
Như
thế vua và quân sư đó từ họa đến may chỉ là chuyện ngẫu nhiên không ai biết trước.
Còn ta theo Chúa Giêsu mà phải khổ vì Tin Mừng, thì cứ vững tin họa sẽ thành
phúc. Bởi Chúa Giêsu đã nói: “Thầy phải chịu đau khổ rồi mới vào vinh quang”
(Lc 24,26). Đó là con đường khôn ngoan của Thiên Chúa toàn năng đã ấn định,
không ai thay đổi được.
6.
Thành công của ngày Thứ Sáu tuần thánh
Vào
lúc 11 giờ trưa ngày 15 tháng 8 năm 1976, Đức Tổng Giám mục Phanxico Nguyễn Văn
Thuận vào sống ẩn trong Chủng Viện Thánh Giuse Saigon để lánh mặt chính quyền cộng
sản đang làm áp lực đòi ngài phải từ chức Phó Tổng Giám mục Saigon với quyền kế
vị. Lúc ấy, một số thầy Đại Chủng sinh ngồi quanh ngài để hàn huyên. Tôi không
thể quên ngài nói với chúng tôi: “Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới mắt người đời
là ngày thất bại nhất của Đức Giêsu,ngày người ta kết án Ngài là điên rồ. Nhưng
chính Ngày đó Ngài chứng tỏ mình là Đấng Khôn Ngoan, và Ngày đó mới chính là
Ngày thành công nhất trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu trên dương thế." Mười
lăm phút sau, công an ập đến điệu ngài ra dinh Thống Nhất, bắt đầu chuỗi ngày
dài trong lao tù đầy gian khổ!
Vậy
tất cả những ai can đảm kiên trì theo Đức Giêsu đến tận đồi Sọ, thì sau bao
nhiêu gian khổ mới cảm nghiệm được giá trị lời kinh vẫn đọc: “Lạy Chúa, trải
qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn” (Tv 90/89,1: ĐC năm chẵn).
7.
Thái độ trước đau khổ
Thi
hào Nguyễn Du khi nhận định về số phận nghiệt ngã của nhân vật Thuý Kiều trong
tác phẩm của mình đã kết luận: cô như bị “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” nên cứ
“tìm những lối đoạn trường mà đi."
Trên
đời này chẳng ai chọn mang cái khổ vào thân. Nhưng “đời vốn là bể khổ,” con người
“chạy trời không khỏi nắng” nên phải cam chịu mang lấy “kiếp nạn” ấy mà thôi.
Vì thế cũng dễ hiểu tại sao các môn đệ Chúa Giê-su không hiểu lời Ngài nói:
“Con Người sắp bị nộp." Chúa tự nguyện vác khổ giá vì vâng phục ý Chúa
Cha; Ngài đã biến khổ giá thành phương thế cứu độ nhân loại. Ngài cho các môn đệ
biết chương trình hành động của Ngài để mời gọi họ cũng bước theo Ngài dám đón
nhận thập giá để cộng tác vào công trình cứu độ.
Chúa
nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt
16,24). Bạn cũng được mời gọi đi theo con đường thập giá với Ngài. Những “kiếp
nạn” trong cuộc đời bạn có thể được “hoá giải” trở thành ân phúc cho bạn và mọi
người khi bạn “vác” lấy chúng bằng tâm tình kết hợp với Chúa Giê-su.
Bạn
phản ứng thế nào trước đau khổ của bạn (nhẫn nại, bất nhẫn…) và của tha nhân (cảm
thông, vô cảm…)?
Trước
những đau khổ của bản thân, tôi giữ thái độ bình an, vui tươi; trước đau khổ của
tha nhân, tôi cảm thông và sẵn sàng chia sẻ.
8. Phải
tin khi không hiểu nổi thế sự
Có
một câu nói nổi tiếng: “Hãy làm cho thế giới dừng lại! Tôi muốn thoát khỏi nó.”
Đôi khi chúng ta cũng cảm thấy điều đó và muốn thốt lên: “Thế giới đảo điên lộn
xộn quá, làm sao phục hồi nó về với trật tự Thiên Chúa đã dự định?” Nhiều người
Do thái cũng cảm nhận tương tự sau sự tàn phá của Giêrusalem, sau những năm lưu
đầy ở Babylon, và sau những năm tái thiết thành thánh và Đền thờ.
Khi
tôi cảm thấy hoang mang bởi thế giới điên đảo lộn xộn này, tôi có thực hiện một
hành động đức tin vì lời Thiên Chúa hứa như trong bài đọc hôm nay không? Tôi có
tin rằng cho dù thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động trong thế giới
không?
Đấng
Tạo Hóa đang chuẩn bị xây dựng một thế giới hòa bình, nơi không cần quân đội và
chiến hạm nữa theo chương trình của Ngài. (Tướng Ulysees S. Grant)
9.
Sống theo ý Chúa hay theo thế gian
Nếu tôi bị xét xử từng điểm theo
“Lời cầu nguyện của Ani”, tôi sẽ ở trong tình trạng nào?
Cuối
cùng, việc chúng ta chiến đấu bằng gì không quan trọng cho bằng chúng ta chiến
đấu chống lại điều gì. (Gibert Keith Chesterton).
10.
Sự sống đòi phải có đau khổ
Những chuyên viên làm vườn nói với chúng ta rằng có một số hạt
giống và mầm chồi cần phải chịu băng giá trước khi có thể đâm chồi nảy lộc. Chẳng
hạn, Joseph W. K. Sloane nói: “Đem một nhánh cây liên kiều vào nhà vào mùa thu,
chồi sẽ không bao giờ nảy lộc. Đem chúng vào nhà khoảng tháng giêng hay tháng
hai, sau khi mầm chồi đã chịu lạnh giá, nó sẽ nảy lộc.” Những người không chuyên
nghiệp cho đó là chuyện khó tin, cũng như các môn đệ đã khó tin khi Chúa Giêsu
nói về nỗi đau khổ và cái chết của Ngài. Thế nhưng, mầu nhiệm lớn lao của đức
tin vẫn là không có đau khổ và không phải chết, sẽ chẳng có sự sống lại của
Chúa Giêsu và của chúng ta.
Tôi có nhớ đã bao giờ đau khổ và “cái chết” cho bản thân lại là
phương cứu rỗi đối với tôi không?
Chúa Kitô đã biến cánh cửa đen tối của sự chết thành cửa sáng ngời
dẫn vào sự sống.
Lời Chúa Tuần 25 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch