Lời Chúa Tuần Thánh - câu truyện minh họa

 LỜI CHÚA TUẦN THÁNH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

LỄ LÁ năm A

LỄ LÁ năm B

LỄ LÁ năm C

THỨ HAI

THỨ BA

THỨ TƯ

THỨ NĂM

THỨ SÁU

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

 

LỄ LÁ năm A

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

C. Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phongxiô Philatô, và quan hỏi Người rằng:

S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"

C. Chúa Giêsu đáp:

LM: "Ông nói đúng!"

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy.”

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"

C. Họ thưa:

S. "Baraba!"

C. Philatô hỏi:

S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"

C. Họ đồng thanh đáp:

S. "Đóng đinh nó đi!"

C. Quan lại hỏi:

S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"

C. Chúng càng la to:

S. "Đóng đinh nó đi!"

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi.”

C. Toàn dân đáp:

S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi.”

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. "Tâu vua dân Do-thái!"

C. Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm.” Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: "Người này là Giêsu, vua dân Do-thái.” Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

LM: "Eli, Eli, lamma sabachtani!"

C. Nghĩa là:

LM: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. "Nó gọi tiên tri Elia.”

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"

C. Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. "Đúng người này là Con Thiên Chúa.” Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Chứng cớ của tình yêu

Thời Salômôn, có hai bà mẹ đem đến nhà vua một đứa bé để xin được phân xử. Bà nào cũng nhận đó là con mình mà chẳng có chứng cớ gì cả.

Để biết ai là người mẹ thật, nhà vua ra lệnh chia đứa trẻ còn sống ra làm hai, cho mỗi người một nửa. Bà mẹ thật của đứa trẻ liền thưa ngay với vua: "Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!”

Tình yêu sẵn lòng chịu thua thiệt đã cho biết ai là mẹ thật.

Còn Đức Kitô… Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,7-8).

Cái chết, và sự tự hạ đến tận cùng vì yêu là bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, một bằng chứng đầy sức thuyết phục cho tiếng nói và sự sống mãnh liệt của Thiên-Chúa-là-tình-yêu nơi Đức Kitô.

Thập giá là nơi ngôi vị Thiên Chúa trong Đức Kitô chia sẻ thân phận khốn cùng của con người cách triệt để nhất, và cũng là nơi bản tính con người sống cách mãnh liệt nhất sự sống của Thiên-Chúa-là-tình-yêu.

Chết vì yêu là sức mạnh của Đức Kitô. Ngày chịu đóng đinh cũng là ngày Đức Kitô bắt đầu vương quyền Nước Trời với lời tuyên tín của viên đại đội trưởng: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”

2. Ta là sự thật

Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng Lê Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc.”

Vua cho họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.

Đến khi Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc đến dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc.”

Vua lại cho họ Hoà nói dối, sai chặt nốt chân phải.

Đến khi Văn Vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối.”

Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hoà.” (Cổ học tinh hoa)

“Ngọc mà cho là đá” chỉ nói lên phần nào cái thực tại bóng tối che lấp sự thật trong lịch sử nhân loại! Đức Kitô bị đóng đinh bởi những người muốn chống lại sự thật, muốn lên án trước khi xét xử: “các thượng tế và toàn thể Thượng Hội đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình”; bởi những người không muốn tìm sự thật, chỉ biết làm theo những lời xúi giục của các thượng tế và kỳ mục: “Tổng trấn lại nói: ‘Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?’ Họ càng la to: Đóng đinh nó vào thập giá.”

3. Tình cảm nhất thời

Thủ tướng nước Anh, ông Winston Churchill là một nhà chính trị nổi tiếng thế giới. Ngày kia, sau khi đọc bài diễn văn trước một cử tọa khoảng mưới ngàn người, ông được mọi người hoan hô nhiệt liệt. Một người bạn đã hỏi ông: “Thưa thủ tướng, ngài có cảm động khi dân chúng hoan hô ngài không?” Thủ tướng Churchill trả lời: “Không, tôi không cảm động, vì không hẳn thực sự là như thế. Tôi biết rằng sẽ có một trăm ngàn người đến nhìn xem tôi khi tôi bị treo lên!”

Thủ tướng Churchill nhận ra được những lời tung hô của dân chúng chỉ là những tình cảm nhất thời. Họ hoan hô ông một cách cuồng nhiệt, nhưng một lúc nào đó, họ cũng có thể treo cổ ông lên!

Trong ngày Lễ Lá hôm nay, chúng ta có thể nhìn thấy sự thật phũ phàng đó ở nơi bản thân Chúa Giêsu. Khi Ngài tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng tung hô Ngài một cách tưng bừng: “Hoan hô Con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.” Cả thành phố náo động. Dân chúng trải áo xuống đường, chặt cành cây trải lối đi để đón rước Chúa. Người ta còn ca tụng Ngài là một vị tiên tri.

Tuy nhiên, chỉ ít ngày sau, lòng người đổi thay, cũng đám đông dân chúng ấy đã hô to lời kết án: “Đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá!” Thay vì trải áo xuống đường cho Chúa đi, quân lính đã lột áo Chúa. Thay vì trải cành cây xuống đường, họ đặt cây thập giá lên vai Chúa và đóng đinh Ngài như một tội phạm nguy hiểm. Thay vì ca tụng Chúa như một vị tiên tri, họ lên án Chúa như tên phản loạn.

4. Tôi bị treo lên

Cha thánh Piô Năm Dấu là vị linh mục được diễm phúc Chúa cho in năm dấu thánh trên thân thể: 2 dấu đinh nơi đôi tay, 2 dấu đinh nơi đôi chân và vết thương nơi cạnh sườn. Những vết thương ấy luôn rỉ máu và làm ngài đau đớn.

Một ngày nọ, có người hỏi ngài: “Mỗi khi cha dâng lễ, có lẽ cha rất đau đớn vì phải đứng trên đôi chân bị đóng đinh?” Ngài trả lời: “Khi tôi dâng lễ, không phải tôi đứng trên đôi chân mình, mà tôi đang bị treo lên.”

Trong Tuần Thánh, nhất là trong Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta có cơ hội đi lại con đường thương khó của Chúa, được hiệp thông với sự đau khổ của Ngài, được nhận ra Ngài thương chúng ta biết bao khi chịu chết vì chúng ta. Chúng ta hãy sẵn sàng “bị treo lên” thập giá cùng với Ngài, giữa đớn đau khổ cực đời thường. Chỉ khi nào ta “bị treo lên”, ta mới vươn lên tới đỉnh vinh quang đời đời.

5. Cánh lá phản bội

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như muốn nói rằng: không một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh họa Rembrandt, tác giả của bức tranh này.

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt, nhà danh họa lại chen vào khuôn mặt của mình?

Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

6. Trong đau khổ mà thấy tình yêu

Một thanh niên tuổi ngoài 20 bị ung thư gan. Chứng bệnh hiểm nghèo cùng với cơn đau đã nhiều lần làm anh hoảng loạn, những lúc ấy anh không tiếc lời kêu trách Thiên Chúa, nguyền rủa các bậc sinh thành và bản thân. Sau khi lãnh nhận bí tích xức dầu, anh sống thêm được gần ba tháng nữa, nhưng thái độ hoàn toàn đổi khác. Có người hỏi:

- Làm thế nào anh chịu được những cơn đau như thế?

Chỉ vào cây Thập Giá treo trước mặt, anh trả lời:

- Nhờ nhìn lên Đấng chịu chết treo trên kia.

Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chàng thanh niên được ơn đổi mới cõi lòng, nên cũng thay đổi cách đón nhận đau đớn, thử thách và cái chết. Hai ngàn năm qua, nhờ Đấng chịu đóng đinh trên khổ giá mà biết bao tâm hồn được nâng đỡ trong những cơn gian nan, và tìm ra lẽ sống giữa những bế tắc của cuộc đời. Điều ấy không lạ, vì đọc các trình thuật kể lại cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy nhiều người được ơn hoán cải nhờ gặp Đấng đã chết để muôn người được sống.

Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Đức Kitô, dù từng làm điều gian ác, nhưng anh sớm nhận ra thân phận tội lỗi của mình khi chịu cùng một cực hình với Đức Giêsu; chẳng những thế, vì cảm biết Người là bậc thánh nhân, anh lên tiếng bênh vực và tha thiết kêu xin: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người đã trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 23, 40-43)

7. Chuyện của chú lừa con

Có một câu chuyện ngụ ngôn cũ thú vị về chú lừa con chở Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem ngày đó.

Bữa đó, sau khi trở về nhà với mẹ, chú lừa con nghĩ: “Hôm nay, đúng là một ngày tuyệt vời. Mọi người đã reo hò vang dậy, trải áo xuống đường để đón chào mình. Mình thật oai vệ bước vào thành Giêrusalem, thành của những vị vua. Có lẽ, mình cũng là một vị vua. Vua của thế giới này.”

Tối hôm đó, chú tâm sự với mẹ: “Mẹ ơi! Mẹ biết hôm nay tuyệt vời thế nào không. Mẹ tưởng tượng xem, con bước vào thành và mọi người hò reo vang dậy để đón mừng con. Ít ngày nữa, con sẽ lại đi trên con phố ấy. Lần này, một mình con mà thôi. Và người ta sẽ lại chào đón con như hôm nay. Con thích cái cảm giác ấy”

Lừa mẹ mới nói với con: “Con sẽ chẳng là gì nếu không có Đấng cưỡi trên mình con.”

Năm ngày sau, chú lừa con lại nhìn thấy một đám đông khổng lồ tụ tập trong phố.

Và lần này là Thứ Sáu Tuần Thánh, và những người lính đang điệu Chúa Giêsu lên đồi Canvê.

Chú lừa con không thể quên cái buổi tuyệt vời hôm trước. Chú vẫn ao ước lại được người ta ca tụng, nên chú đã bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của lừa mẹ. Chú chạy vào phố, lao mình vào giữa đám đông. Nhưng lần này, chú phải bỏ chạy vì bị người ta đuổi đánh. Những người lính hung dữ cầm giáo đuổi theo và mọi người hai bên đường cầm đá ném đá chú. Chú đã phải chạy rất nhanh để thoát thân.

Ngày hôm đó, chú lừa con tội nghiệp đã học được bài học rằng: chú chỉ là một con lừa bình thường nếu không có Chúa Giê-su trên lưng.

Chúng ta đang bước vào Tuần Thánh, các bài đọc mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống của mình xem chúng ta có mang Chúa Giêsu trong mình và làm chứng cho Ngài qua suy nghĩ, lời nói, và việc làm của chúng ta hay chỉ là những Kitô hữu trên danh nghĩa.

Mọi vinh quang và danh dự thực sự không thuộc về chúng ta, nhưng thuộc về một mình Thiên Chúa.

Nguồn: Bảng tin CN Lễ Lá - Gx Công Lý.

P/s: Khoác lên chiếc áo, nhiều kẻ nghĩ mình là GIÊSU!


LỄ LÁ năm B

Lời Chúa:

TRUYỆN KỂ

1. A

LỄ LÁ năm C

Lời Chúa:

TRUYỆN KỂ

1. A

THỨ HAI

Lời Chúa: Ga 12, 1-11

Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.

Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?" Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu."

Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại.

Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.

TRUYỆN KỂ - YÊU LÀ CHO ĐI

1. Âm thầm giúp đỡ.

Du khách viếng thăm hành lang nổi tiếng của nhà thờ chính tòa Phaolô ở Luân đôn có thể nghe tiếng của người hướng dẫn đang thuật lại lịch sử của nhà thờ truyền đi khắp nơi chung quanh vòm mái tròn to lớn chính điện, nhờ các kiến trúc đặc biệt làm tiếng nói vang dội mang âm thanh đi rất xa.

Cũng vì thế, nên nếu áp tai vào tường người ta có thể nghe được những gì một người nói từ phía bên kia của vòm mái tròn, mặc dầu đó chỉ là một giọng nói thì thầm tâm sự.

Tại ngôi Nhà thờ chính tòa này, một người hành nghề đóng giầy than vãn với người yêu là chàng chưa thể tiến hành lễ cưới ngay bây giờ được. Hiện tại chàng không có cả tiền để mua da và các vật liệu cần thiết để có thể tiếp tục hành nghề, vì thế chàng đang phải thất nghiệp dài dài, đào đâu ra tiền để làm đám cưới. Nghe tin bất lành, ý trung nhân của anh chỉ biết sụt sùi khóc.

Đang lúc ấy, một người tình cờ đi qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện thương tâm và những lời cầu nguyện của anh thợ đóng giầy. Ông ta quyết định làm một cái gì để giúp đôi trai gái trở thành gia thất. Vì thế, khi chàng trai từ giã người bạn gái thất thểu ra về, ông ta cũng tiến bước theo sau để biết chỗ ở của anh ta và lập tức cho người mang đến tặng cho anh một số da. Chàng đóng giầy phấn khởi bắt tay vào việc và không bao lâu công việc làm ăn phát đạt tạo đủ điều kiện để anh có thể tiến hành hôn lễ với người yêu.

Mãi đến mấy năm sau, hai vợ chồng mới biết vị ân nhân của mình là ông William Gladston, vị thủ tướng Anh quốc thời ấy.

2. Tiền không mua được

George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được thì còn tốt hơn."

Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:

Tiền không mua được tình bạn chân thực.

Tiền không mua được lương tâm trong sạch.

Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.

3. Tình yêu lạ thường

Du khách viếng thăm hành lang nổi tiếng của nhà thờ chánh tòa thánh Phaolô ở Luân Ðôn có thể nghe tiếng của người hướng dẫn đang thuật lại lịch sử của nhà thờ truyền đi khắp nơi chung quanh vòm mái tròn to lớn ở chính điện, nhờ các kiến trúc đặc biệt làm tiếng nói vang dội mang âm thanh đi rất xa.

Cũng vì thế, nên nếu áp tai vào tường người ta có thể nghe được những gì một người nói từ phía bên kia của vòm mái tròn, mặc dù đó chỉ là một giọng nói thì thầm tâm sự.

Tại ngôi nhà thờ chánh tòa này, một người hành nghề đóng giày than vãn với người yêu là chàng chưa thể tiến hành lễ cưới ngay bây giờ được. Hiện tại chàng không có cả tiền để mua da và các vật liệu cần thiết để có thể tiếp tục hành nghề, vì thế chàng đang phải thất nghiệp dài dài, đào đâu ra tiền để làm đám cưới. Nghe tin bất lành, ý trung nhân của anh chỉ biết sụt sùi khóc.

Ðang lúc ấy, một người tình cờ đi qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện thương tâm và những lời cầu nguyện của anh thợ đóng giày. Ông ta quyết định làm một cái gì để giúp đôi trai gái được thành gia thất. Vì thế, khi chàng trai từ giã người bạn gái thất thểu ra về, ông ta cũng tiến bước theo sau để biết chỗ ở của anh ta và lập tức cho người mang đến tặng cho anh một số da. Chàng đóng giày phấn khởi bắt tay vào việc và không bao lâu công việc làm ăn phát đạt tạo đủ điều kiện để anh có thể tiến hành hôn lễ với người yêu. Mãi đến mấy năm sau, hai vợ chồng mới biết vị ân nhân của mình là ông William Gladston, vị thủ tướng Anh quốc thời ấy.

4. Tình yêu là cho đi

O. Henry, một bậc thầy về chuyện ngắn, đã viết một câu chuyện rất cảm động với tựa đề là “Món Quà Giáng Sinh."

Một cặp vợ chồng nọ tên là Della và Jim. Họ rất nghèo nhưng hết sức yêu nhau. Mỗi người chỉ có một tài sản duy nhất. Đối với Della thì mái tóc là vinh quang của nàng. Còn Jim hãnh diện với chiếc đồng hồ vàng nhưng lại không có dây đeo do cha chàng để lại.

Một ngày trước lễ Giáng sinh, Della muốn mua một món quà để tặng cho Jim nhưng nàng chỉ còn đúng một Mỹ kim tám mươi bảy xu. Della đã nghĩ ra cách để có thêm tiền. Cô đã bán mái tóc của mình với giá hai mươi Mỹ kim. Sau đó cô mua một chiếc dây bằng bạch kim để tặng Jim với ý muốn chiếc đồng hồ quí báu của chàng sẽ có dây đeo. Tối ấy, Jim về đến nhà, nhìn mái tóc bị cắt ngắn của Della, chàng đứng sững sờ. Không phải vì chàng không thích, hay không còn yêu nàng nữa, nàng vẫn đáng yêu hơn bao giờ hết. Dù sao thì đây cũng là dịp để nói lên tình yêu đối với nàng. Chậm rãi, chàng mở món quà ra và trao cho nàng. Đó là một chiếc trâm kẹp tóc bằng đồi mồi có viền những viên ngọc nhỏ lóng lánh được mua bằng tiền chàng đã bán chiếc đồng hồ đi. Còn nàng thì trao cho chàng chiếc dây đồng hồ nàng mua được bằng tiền bán đi mái tóc đẹp của mình.

Người nọ đã tặng cho người kia tất cả những gì mình có.

Tình yêu chân thật không thể nghĩ ra cách nào khác hơn để hiến dâng cho nhau.

5. Cơ hội tuyệt vời

Người ta kể, ngày xưa có một lần nữ hoàng Mary của Anh Quốc đi sang thăm Scotland, một nước rất quí mến nữ hoàng.

Để đáp lại tấm thịnh tình của dân Scotland, nhiều lần Nữ Hoàng đến với họ mà không cho những người hộ tống đi theo để dễ gần gũi với dân chúng.

Lần kia, nữ hoàng đi về vùng quê chơi. Hôm ấy bỗng trời đổ mưa. Nữ hoàng ghé vào nhà của một người ở trong vùng để mượn một cây dù. Nữ hoàng nói với chủ nhà:

- Chị làm ơn cho tôi mượn cây dù, ngày mai tôi sẽ trả lại chị.

Vì không biết người đến mượn dù là ai, nên lúc đầu chị chủ nhà tỏ vẻ ái ngại không muốn cho mượn. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị chủ nhà đã trở vào trong, lấy ra một chiếc dù cũ kỹ, đưa ra cho người lạ mặt mượn.

Ngày hôm sau, khi nghe tiếng gõ cửa, chị chạy ra mở cửa, thì thấy một người lính đứng ở trước cửa nhà, tay cầm chiếc dù cũ của chị. Người lính nói với chị:

- Thưa chị, nữ hoàng sai tôi đem cây dù này gởi trả lại chị. Nữ hoàng cũng gởi lời cám ơn chị rất nhiều.

Chị chủ nhà nghe vậy đứng lặng người một lát rồi òa lên khóc và nói:

- Thế là tôi đã đánh mất đi một cơ hội không bao giờ trở lại với tôi lần thứ hai nữa.

Có những cơ hội chỉ đến có một lần. Khi nó qua đi thì nó chẳng bao giờ trở lại. Maria đã biết rõ điều đó cho nên chị chụp ngay lấy cơ hội. Chị đem dầu thơm hảo hạng nhất xức cho Chúa.

6. Cho đi mới nhận lại

Cụ gìa kia mỗi khi đến bữa cơm, thường làm cho người con trai bực mình vì tuổi già sức yếu. Có lần, bàn ăn vừa mới dọn ra, cụ nhìn thấy tô canh ngon, liền bưng lên húp một hơi, con trai cụ nhìn thấy quát:

- Ông ăn uống thế, ai còn muốn ăn tô canh đó nữa!

Rồi anh cầm lấy tô canh hất ra ngoài vườn, và mỗi lần ông cụ cầm chén cơm, vì tay chân run rẩy, nên cụ thường làm vỡ chén, anh thấy thế gắt gỏng quát bố:

- Nhà có mấy cái chén đập hết rồi, từ nay ăn cơm lấy tay mà bốc!

Thế là anh có sáng kiến: làm một cái máng nhỏ bằng gỗ, giống như máng heo, để cho bố dùng thay chén, nếu có rớt xuống thì cũng không sao!

Khi cụ già qua đời, anh tỏ ra hiếu thảo với bố, nên mướn kèn trống thổi inh ỏi suốt cả ngày đêm!! Khi đã an táng bố xong, về nhà anh lấy “chén” gỗ ném ra vườn sau nhà. Con anh thấy vậy vội chạy ra nhặt vào. Anh quát bảo nó:

- Ông nội mày đã chết, tao vất chén đó đi, mày còn lấy vào làm gì!?

- Dạ, thưa ba, con nhặt về để khi ba già như ông nội, con sẽ đưa cho ba dùng, con khỏi phải đóng cái khác.

Hãy nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng đấu ấy!” (Mt 7,2).

THỨ BA

Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38

Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy."

Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó." Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?"

Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó." Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi." Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.

Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được", nay Thầy cũng nói với các con như vậy."

Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy."

Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy." Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần."

TRUYỆN KỂ

1. Trời đã tối

Người đời thường nói: “Hoàng kim hắc thế nhân tâm” có nghĩa là đồng tiền làm đen tối lòng người. Mắt đã bị đồng tiền che mờ đi rồi thì không con nhìn ra công lý, không còn nhìn ra công tình thương. Nói rõ ra, Giuđa đã đánh mất lương tâm.

Người da đỏ giải thích lương tâm như sau: Đó là một khối ba góc ở trong tim ta. Khi ta làm gì tốt thì nó nằm yên. Khi ta làm gì xấu, nó quay và đâm các góc nhọn vào ta. Nếu ta cứ làm điều xấu, các góc nhọn của nó mòn dần và không làm ta cảm thấy gì nữa cả.

 “Giuđa liền ra đi, lúc đó trời đã tối”: Trời đã tối, ở đây tượng trưng cho giờ của mãnh lực bóng tối hoành hành. Một hành vi xấu xa tội lỗi có thể làm u ám, hoen ố môi trường xã hội. Đó là những gương xấu, làm ảnh hưởng đến tha nhân và cộng đoàn.

2. Tội vô ơn của một đứa con.

Người con trai của một nhà truyền giáo bị bắt giữ, và bị qui cho tội phản động. Anh ta bị xét xử, kết án và cầm tù. Người cha già nua của anh, vốn nổi tiếng là người có học thức và là một Kitô hữu tốt lành, đã chạy đi khắp nơi tập hợp được hàng trăm chữ ký ký vào tờ đơn xin ân xá cho anh. Ông tìm đến tận Washington gặp Tổng thống Grant trình bầy tờ đơn đó và van xin tha thứ cho con trai ông, nhờ vào những công lao đóng góp của cha mẹ anh ta.

Được sự phê chuẩn của Tổng thống, người cha già nua đó vội vã đón xe lửa đến nhà tù gặp con trai. Cầm trên tay tờ giấy được ân xá, ông nói với con trai:

- John ạ, cha có một tin vui mang đến cho con đây. Tổng thống Grant đã chấp thuận ơn xin ân xá của cha. Con có thể trở về nhà với cha ngay bây giờ, và kịp gặp được mẹ con trước khi mẹ con qua đời!

Nhưng con trai ông không đáp lại một lời. Người cha nói tiếp:

- Con có hiểu cha nói gì không, John? Đây là tờ giấy chứng nhận con đã được ân xá.

Anh con trai vô ơn đó trả lời:

- Thưa cha, con rất tiếc đã làm buồn lòng cha, nhưng con đã quyết định không đi theo hệ thống chính trị này, và con sẽ sống theo chọn lựa của con.

Trái tim của người cha già hầu như tan nát. Ông ngã nhoài xuống hàng lưới sắt, và được một người gác ngục dìu đi.

3. Tương lai cho tội nhân

Một giáo sĩ trẻ được phân công giảng giải trong tù. Ngài cố gắng tìm những lời lẽ hoặc biện pháp mong hoán cải những kẻ cứng đầu.

Bước vào phòng, ngài rùng mình nhìn thấy những bộ mặt bướng bỉnh. Ngài cầu xin sự sáng suốt như khi ngài bước lên bục giảng. Ngài vấp chân và té nhào xuống khiến mọi người phải bật cười.

Linh mục cảm thấy đau và xấu hổ. Ngài nảy ra một ý nghĩ rồi nhảy mạnh liền hai bậc, cười với mọi người và nói: “Này các bạn, đó cũng là lý do tại sao hôm nay tôi đến đây: Tôi muốn cho các bạn thấy rằng một người có thể vươn lên sau những thất bại đáng xấu hổ."

4. Như Lòng Chúa khoan dung

Có một cặp vợ chồng cưới nhau đã lâu, sống đạo rất tử tế nhưng mong mãi vẫn chưa có được mụn con. Thế rồi cuối cùng người vợ cũng mang thai, họ vui mừng xác tín đây là một ân huệ Chúa ban.

Nhưng đến ngày sinh, mọi người đều bàng hoàng nhận ra đứa bé có dị tật, bàn tay phải của nó bị teo nhỏ không như bàn tay trái. Người cha đã ôm lấy đứa con trai sơ sinh mà khóc nức nở. Sau đó, bạn bè đến thăm gia đình, ai cũng tỏ ra lúng túng, không biết sẽ phải chúc mừng hay chia buồn ? Nhưng họ không ngờ, chính người mẹ của em bé lại khiến cho họ bỡ ngỡ thán phục khi bà tươi cười bảo họ:

“Suốt tuần qua, vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc cái lý tưởng hoàn hảo mà chúng tôi vẫn từng ấp ủ. Dù gì đi nữa, đã gọi là lý tưởng thì sẽ không bao giờ có. Trong hiện tại, chúng tôi đang có trong tay một đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ không phải là sống với lý tưởng của mình, nhưng là đón nhận Ý Chúa khi yêu thương và đùm bọc cháu bé như đó là một quà tặng vô giá của Người..."

Nếu ta chưa thấy việc làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa là một vinh dự, thì đó là dấu ta chưa yêu Chúa. Yêu mến Chúa thì phải sẵn sàng vui mừng vâng theo thánh ý của Người.

5. Xin vâng

Gahannes Sebastian Bach là một nhạc sĩ Công giáo lừng danh người Đức, khi về già, ông lâm phải căn bệnh trầm trọng có thể gây ra chứng mù lòa.

Một hôm, có người bạn đến báo tin có một bác sĩ giỏi về nhãn khoa mới tới thành phố, và ông ta sẵn sàng chữa đôi mắt cho nhạc sĩ bằng một cuộc giải phẫu. Nhạc sĩ thành tâm trả lời người bạn quý: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi nhận lời."

Công việc chữa trị được tiến hành, nhưng 4 ngày sau đó, khi mở băng gạc ra, trước sự hồi hộp đợi chờ của thân nhân chung quanh giường bệnh, nhạc sĩ đã bình thản trả lời: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi vẫn chẳng trông thấy gì cả!” Mọi người nghe vậy thì bật khóc vì thương cảm. Bản thân ông cũng không tránh khỏi xúc động. Bầu khí như chùng xuống trong sự buồn đau của mọi người.

Thế nhưng, thật bất ngờ, nhạc sĩ đã cố trấn tĩnh lại, cất tiếng cười vang tràn đầy lạc quan: “Ơ hay, tôi đã bảo là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa cơ mà. Nào, xin mọi người hãy hát lên cho tôi bản nhạc mà tôi thích nhất, đó là bài “Những Điều Chúa Làm, Ngài Đều Biết Rõ!"

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.

6. Bóng đêm

Khi mặt trời lặn, bóng đêm bao phủ không gian, thì cũng là dịp thuận tiện để cái ác lộ hiện hay những hành vi tội lỗi như trộm cướp, ăn chơi xuất hiện... Bóng đêm là “biểu tượng” của những âm mưu xấu xa. Bóng đêm còn “ám chỉ sự dữ”, bởi bóng đêm quay lưng lại với “ánh sáng” và bóng đêm “bóp chết tình yêu."

Cuối Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan có nhắc đến thời điểm đêm tối và kẻ bán Thầy bắt đầu ra đi. Hành vi Giuđa rời bàn ăn, tiến vào đêm tối gợi cho chúng ta cảm tưởng tội lỗi đã đối đầu với Ánh Sáng và tràn ngập nhân gian.

Bóng đêm chia cắt tình Thầy – trò; bóng đêm cũng làm cho tình huynh đệ bị rạn nứt; bóng đêm còn làm cho cái ác ngự trị thay cho tình yêu. Sự ra đi của Giuđa vào lúc trời tối cho thấy rõ bản chất của sự việc.

Thứ ba Tuần Thánh, Giáo Hội cho đọc lại Bài Tin Mừng hôm nay nói về âm mưu phản bội của Giuđa khi trời đã tối, Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng:

Chúng ta thuộc về “Ánh Sáng” chứ không thuộc về “đêm”, vì thế, mỗi người hãy tránh xa “đêm tối”, vì đêm tối dẫn đến diệt vong.

7. Chuyện cái lưỡi

Ngôn sứ Isaia nói: “Chúa đã cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, dưới bóng tay Người, Người cho tôi ẩn núp, Người làm cho tôi thành mũi tên nhọn và dấu tôi trong bao tên của Người” (Is 49, 2: Bài đọc).

* Cái lưỡi sinh sự sống.

Lần kia, một phụ huynh biết con mình học kém, điểm môn nào cũng dưới trung bình, nên dẫn con đến cô chủ nhiệm và nói: “Cháu có trí khôn kém quá học không được, xin phép cô cho cháu nghỉ học để về chăn bò”, nhưng cô giáo trả lời: “Em này tôi biết học kém nhất lớp, nhưng em lại có một nụ cười duyên dáng, khó ai bắt chước, mỗi lần em đến lớp là làm cho các bạn trong lớp rộ lên niềm vui. Nếu gia đình cho cháu nghỉ, tôi và các em trong lớp thật tiếc.”

Cậu bé nghe thế, lòng thầm vui, nên thưa với má: “Xin cho con tiếp tục học, con sẽ cố gắng.” Lạ thay, từ bấy giờ việc học của em tiến bộ, làm mọi người ngạc nhiên.

* Cái lưỡi sinh sự chết.

Buổi chiều nọ, một thiếu nữ đang đứng trước cửa nhà đợi chồng đi làm về, thình lình có một người bạn đi ngang qua muốn chọc ghẹo cô, đã dựng chuyện nói đùa: “Chị ơi, vào nhà ăn cơm đi, đừng đứng đợi anh nữa, tôi thấy anh ấy chở một cô nào đẹp lắm, ngồi sau xe ôm eo, trông hai người có vẻ thân mật lắm!”

Cô vợ sụ nét mặt đi vào nhà. Không may hôm đó anh chồng đi làm về trễ, vì hỏng xe giữa đường! Khi vào tới nhà hớn hở gọi vợ: “Em đâu, hôm nay xui anh quá, anh bị hư xe, nên về trễ.” Nhưng vợ không tin, cho rằng anh nói dối! Thế là cô vợ nổi sùng quát: “Ông đừng lấy vải thưa mà che mắt thánh. Chúa bảo mọi bí ẩn sẽ lộ ra ánh sáng. Ông đi với con nào?”

Chồng giải thích thế nào vợ cũng không chịu! Một cuộc khẩu chiến đôi bên như hai con gà đá nhau, lối xóm đến can không được. Hậu quả đưa nhau ra tòa ly dị!

8. Sức mạnh của tình yêu

Có một tên cướp đi vào ngôi làng nọ. Anh ta lẻn vào nhà vị bác sĩ duy nhất trong làng vì nghĩ rằng ông bác sĩ này hẳn là rất giàu có. Anh ta dự định sẽ khống chế vị bác sĩ, bắt ông ấy nói ra chỗ cất của cải, rồi sẽ giết ông để giữ bí mật.

Khi tên cướp định ra tay thì đột nhiên điện thoại trong nhà vị bác sĩ reo lên. Đó là cuộc gọi từ người thân của một đứa trẻ đang bệnh rất nặng từ ngôi làng bên cạnh, cầu xin bác sĩ hãy đến cứu đứa bé. Lúc ấy là vào mùa đông, tuyết rất lớn, và ngoài trời đang mưa gió bão bùng. Ngôi làng có đứa trẻ bị bệnh lại cách xa nơi này tận một quả núi.

Trời đã quá khuya và đường đi đến đó rất nguy hiểm. Từ chỗ ẩn nấp, tên cướp nhìn thấy vẻ mệt mỏi trên gương mặt của vị bác sĩ sau một ngày dài làm việc. Thế nhưng, sau khi gác điện thoại, hắn nghe thấy vị bác sĩ lẩm bẩm, "Mình không đi mà bệnh nó trở nặng thì sao, ai giúp được cho nó đây?" rồi ông vội mặc thêm áo, cầm theo cây đèn bão và mở cửa ra đi. Dáng ông liêu xiêu trong gió tuyết.

Sáng hôm sau khi vị bác sĩ về đến trước nhà, tên cướp đón ông và nói: "Ông có biết tôi đã chờ ông suốt từ đêm qua tới giờ không?"

Vị bác sĩ vội đáp: "Ồ, xin lỗi ông, tôi đã đi ngay trong đêm để kịp cứu sống một đứa bé. Bây giờ xin mời ông vào nhà để tôi khám bệnh cho ông."

Tên cướp quỳ sụp xuống đáp lại trong ràn rụa nước mắt: "Tôi là một tên cướp. Đêm qua tôi đã ẩn nấp trong nhà ông. Tôi muốn bắt ông khai ra chỗ giấu của cải và sẽ giết ông. Nhưng chứng kiến cảnh ông bất chấp nguy hiểm và ra đi giữa trời đêm gió tuyết để chữa bệnh cho một đứa trẻ, tôi đã rất xấu hổ vì định làm hại một người tốt như ông. Lòng tốt của ông đã cứu đứa trẻ làng bên, cứu mạng cho ông và còn cứu cả cho tâm hồn tôi nữa. Cám ơn ông thật nhiều."

Tiên tri Isaia đã nói với mọi người về tình yêu Chúa: "Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tên tôi khi tôi còn ở trong bụng mẹ."

Lời Chúa trong Tuần Thánh nói thật rõ cho tôi biết về tình yêu Chúa, một tình yêu đích thực, một tình yêu chỉ mong điều tốt cho người khác, bất kể mình được đáp trả như thế nào. Qua một lời chung chung, Chúa đã nhắc nhở Giuđa: "Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy.” và với Phêrô: "Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần.”

Tin vào Chúa là tin vào sức mạnh của tình yêu, cứ yêu đi bất kể chọn lựa của người mình yêu. Chúa đã bị bán, đã bị phản bội bởi hai người thân tín của mình, nhưng thánh giá Chúa ngày nay được dựng lên trên toàn thế giới.

Lời Chúa dạy và tấm gương Chúa để lại mời gọi tôi vững tin vào sức mạnh của tình yêu, như thánh Augustinô đã nói: "Cứ yêu đi rồi làm gì cũng được."

Điều quan trọng là tôi có dám để cho tình yêu đích thực điều khiển cuộc sống mình hay không?

THỨ TƯ

Lời Chúa: Mt 26, 14-25

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông." Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.

Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy." Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"

Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Ðúng như con nói."

TRUYỆN KỂ - Dung mạo kẻ phản bội.

1. Tội đi từ nhẹ đến nặng.

Có một câu truyện ngụ ngôn kể rằng: Lúc ông Noe trồng nho, Satan tò mò để ý và mon men đến gạ chuyện.

- Ông trồng gì đấy?

- Cây nho.

- Thế, trồng nho thì được cái gì?

- Trái nho trông rất đẹp mắt, ăn vào ngon tuyệt, còn nước ép lên men sẽ làm ngây ngất tâm hồn.

- Vậy thì tôi sẽ giúp ông.

Satan đi bắt một con chiên, giết đi và đổ máu nó vào gốc cây nho. Hắn cũng giết một con sư tử, một con khỉ và một con heo, rồi cũng đổ hết máu những con vật ấy vào gốc cây nho. Cây nho hút hết những thứ ấy mà lớn lên.

Từ khi đó, mỗi lần người ta uống một chút rượu, họ trở nên hiền lành và duyên dáng như con chiên. Nếu hăng “đô” lên, họ sẽ mạnh mẽ và thô kệch như sư tử. Nếu cứ thế tiếp tục, họ sẽ trở nên ngổ ngáo như con khỉ. Và nếu, chẳng may, không chịu dừng ở đó, kết cuộc họ sẽ không khác gì như con heo (French Legend).

2. Cái đồng hồ vô ích

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức giậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.

Ngày đầu tiên, anh quên vặn chiếc đồng hồ trước khi đi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm hki nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc.

Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp: Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con. Nó vô dụng là tại vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp. Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.

3. Đũa ngà voi

Thương Trụ dùng ngà voi làm đũa. Cơ Tử thấy vậy, sinh lòng lo lắng, sợ hãi. Bởi vì, khi dùng đũa bằng ngà voi thì tự nhiên sẽ không dùng chén bát bằng sành sứ nữa, nhưng đương nhiên sẽ dùng bằng ngọc quí cho tương xứng. Một khi đã dùng chén ngọc, đũa ngà, thì tự nhiên sẽ không dùng món ăn thanh đạm, trái lại dùng đuôi voi, thịt báo cho tương xứng. Khi lương thực toàn là cao lương mỹ vị, quần áo và nơi ở tất phải thay đổi, không còn là vải thô, nhà tranh vách đất, nhưng phải áo lụa là, nhà cao cửa rộng. Cứ suy cho đến cùng, thì thiên hạ phải cùng khổ. (Trích Hàn Phi Tử thuyết lâm, quyển thượng)

Và lịch sử đã chứng minh Thương Trụ đã sa đọa và thiên hạ đã phải cùng khổ vì con người ấy như thế nào.

Đã có lần tôi nói: từ một điếu thuốc đến tật nghiện ngập, con đường tưởng xa nhưng lại rất gần. Từ một ngụm rượu uống cho vui cho đến tật say sưa, con đường tưởng là xa nhưng lại rất gần.

4. Từ Dung mạo Chúa Giêsu đến Giuđa

Leonardo da Vinci vẽ bức tranh “Bữa tiệc ly” mất bảy năm liền. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 vị tông đồ trong bữa tiệc cuối cùng, trước khi Ngài bị Giuđa phản bội.

Leonardo phải mất rất nhiều thời gian và công sức trong việc tìm những người mẫu. Ông đã phải tìm trong số cả hàng ngàn thanh niên, mới chọn ra được một chàng trai với gương mặt thánh thiện, và với một phẩm cách thanh khiết tuyệt đối để làm mẫu vẽ Chúa Giêsu. Leonardo da Vinci đã làm việc không biết mệt mỏi suốt sáu tháng liền trước chàng trai, và hình ảnh Chúa Giêsu đã dần dần hiện lộ ra trên bức tranh.

Sáu năm tiếp theo, ông lần lượt vẽ xong 11 vị tông đồ, chỉ còn có Giuđa, tông đồ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Họa sĩ muốn tìm một người đàn ông tương xứng. Hắn phải có một khuôn mặt để lộ ra sự hám lợi, lừa lọc, và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…

Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất đã đi qua trước mắt nhưng ông vẫn chưa thấy đủ những biểu hiện cho một Giuđa độc ác. Thế rồi một hôm, Leonardo da Vinci được thông báo là có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Rôma. Hắn bị kết án tử hình vì giết người và nhiều tội ác tày trời khác…

 Leonardo da Vinci lập tức lên đường đến Rôma. Trước mặt ông là một gã đàn ông với nước da đen sạm, mái tóc dài bẩn thỉu xõa xuống gương mặt. Khuôn mặt hắn thật xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hóa. Đúng, đây là Giuđa!

 Với phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan nơi bức tranh “Bữa tiệc Ly” đang được vẽ dở dang. Mỗi ngày tên tù ngồi trước mắt Leonardo Da Vinci, và người họa sĩ thiên tài cần mẫn với công việc chuyển tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

 Khi nét vẽ cuối cùng đã hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Leonardo Da Vinci quay sang bảo lính gác:

- Các ngươi đem hắn đi đi …!

Lính canh túm lấy y, nhưng hắn đột nhiên vung ra và lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci, khóc nấc lên:

- Ôi, ngài da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư ?

Leonardo da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông liên tục nhìn mặt. Cuối cùng, ông đáp:

 - Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến từ hầm ngục Rôma…

Tên tử tù kêu lên:

- Ngài Vinci … Hãy nhìn kỹ con! Con chính là người mà bảy năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.

5. Mỗi người đều có Giuđa trong tâm hồn

Sáng thứ Tư 08/04, tại Nhà nguyện Thánh Marta, Đức Thánh Cha dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của đại dịch để trục lợi cho lợi ích cá nhân. (Ngọc Yến – Vatican)

“Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho những người lợi dụng đại dịch để buôn bán với người túng thiếu, nhằm mục đích chiếm đoạt của cải người khác. Chúng ta xin Chúa chạm đến con tim họ để họ biết quay trở về."

Đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão mà không thăm viếng là bán cha mẹ

Bài giảng của Đức Thánh Cha tập trung vào ông Giuđa, người đã bán Chúa. Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nhắc lại tên gọi của ngày thứ Tư, ngày cuối cùng của Mùa Chay: “Thứ Tư Thánh này cũng được gọi là thứ Tư phản bội. Ngày mà sự phản bội của Giuđa được nhấn mạnh trong Giáo hội. Khi chúng ta nghĩ đến hoạt động buôn người, ngay lập tức chúng ta nghĩ đến hoạt động buôn người từ châu Phi đến châu Mỹ, ngày nay điều này vẫn còn tiếp tục. Có những Giuđa bán anh chị em mình, khai thác anh chị em trong công việc, không trả lương xứng đáng. Thậm chí, có những người còn bán người thân của mình, tôi nghĩ đến trường hợp những người con, để tiện cho công việc mình đã đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão và không tới thăm viếng cha mẹ, điều này có thể được xem là họ đã bán cha mẹ."

Khuôn mặt của Giuđa ngày nay

Đức Thánh Cha tiếp tục giải thích khuôn mặt của Giuđa: “Hôm nay, việc buôn người cũng giống trước kia. Chúa Giêsu nói người ta không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền của. Mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phục vụ Thiên Chúa hoặc phục vụ tiền của. Có nhiều người vừa phục vụ Thiên Chúa vừa phục vụ tiền bạc, điều này không thể thực hiện được. Đó là những người khai thác giấu mặt, họ hoàn hảo về mặt xã hội, nhưng thực ra họ đang thực hiện việc buôn bán này."

Giuđa nhỏ ở trong tôi, ngươi đâu rồi?

Đức Thánh Cha kết luận: “Giuđa bị dằn vặt trong tâm hồn và đi gặp các thượng tế để trả lại số tiền đã nhận do bán Chúa, nhưng họ không quan tâm đến Giuđa. Đây là thái độ của ma quỷ, nó làm cho chúng ta thất vọng. Chúng ta hãy nghĩ đến trong thế giới ngày nay có nhiều Giuđa khai thác bóc lột dân chúng và một Giuđa nhỏ nào đó trong mỗi người chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể phản bội vì những lợi ích cho riêng mình. Giuđa nhỏ ở trong tôi, ngươi đâu rồi? Đây là câu tôi muốn hỏi mỗi người trong chúng ta."

6. Trả giá cho tình yêu

“Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý vị.” (Mt 26,15)

Đức Giê-su đã phải trả giá cho Tình Yêu dành cho con người bằng chính mạng sống của mình

Vào tháng 3/2011, một thảm họa kép động đất và sóng thần đã tàn phá một vùng rộng lớn tại vùng đông bắc Nhật Bản. Khi đội cứu hộ tiếp cận đống đổ nát của một ngôi nhà, họ phát hiện một người phụ nữ trẻ đã chết cơ thể cúi gập nghiêng về phía trước như đang cầu nguyện. Căn nhà đổ sập trên lưng chị, cơ thể đã cứng đờ của chị đang che chở cho một đứa bé ba tháng tuổi được quấn trong một chiếc chăn bông nằm trong lòng chị. Đứa bé được cứu sống.

Khi mở chiếc chăn quấn đứa bé, người ta tìm thấy chiếc điện thoại, trong đó có dòng tin nhắn “Nếu con có thể sống sót, con phải biết rằng mẹ rất yêu con.” Người mẹ trẻ đã trả giá cho tình yêu dành cho con bằng chính mạng sống của mình.

7. Lẽ phải và tình bạn

Một lá thư George Washington gửi cho vợ đề ngày 4-3-1797. Bức thư được viết ít lâu sau khi nhiệm kỳ tổng thống của ông kết thúc. Ông sắp xếp giấy tờ để quyết định xem loại nào giữ lại, và loại nào vứt đi. Ông viết cho vợ: “Em không thể tưởng tượng được cảm xúc của anh khi đọc lá thư cuối cùng của Thomas Paine. Anh ấy và anh đã từng là bạn của nhau. Nhưng chỉ vì anh nghĩ rằng anh ấy không đủ khả năng để làm tổng giám đốc ngành bưu chính, nên anh ấy đã buộc tội anh là “kẻ phản bội.”

Cũng như Chúa Giêsu, Washington đã rất đau khổ khi một người bạn quay lưng chống lại mình. Nhưng ông vẫn phải làm điều mà ông cho là đúng.

Tôi thường để cho tình bạn ngăn cản tôi làm theo lẽ phải như thế nào?

Bất cứ ai cũng có thể chống lại kẻ thù. Hãy cho tôi một người có thể chống lại một người bạn. (William Gladstone)

8. Nỗi đau tỏa sáng vẻ đẹp của tình yêu

Họa sĩ người Pháp Henri Matisse chết vào năm 1954, ở tuổi 86. Trong những năm cuối đời, chứng viêm khớp làm tay ông bại liệt, vì vậy ông rất đau đớn khi cầm cọ. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục vẽ bằng cách đặt miếng vải giữa những ngón tay để cho chiếc cọ khỏi bị trượt. Một hôm có người hỏi ông tại sao lại hiến thân vì chuyện đau đớn như vậy? Matisse trả lời: “Đau đớn qua mau, những vẻ đẹp vẫn còn.” Cũng vậy, nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu phải chịu trong thập hình sẽ qua đi, nhưng vẻ đẹp của những gì Ngài thực hiện sẽ tồn tại mãi mãi.

Tôi có nhớ lần nào đã hiến thân vì nỗi đau đớn để đạt được một điều tốt đẹp không?

Những đau khổ chúng ta phải chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta (Rm 8,18).

9. Nhân hậu với tội nhân

Giuđa có thể che dấu âm mưu của mình với người khác, nhưng không thể che giấu đối với Chúa Giêsu được. Và điều này cho chúng ta thấy Thiên Chúa xử lý nhẹ nhàng thế nào đối với kẻ tội lỗi. Một trong những huyền nhiệm của cuộc sống đó là sự tôn trọng khác thường. Thiên Chúa chiều theo ý muốn của con người, Ngài không buộc chúng ta phải thay đổi. Ngài mời gọi chúng ta thay đổi, tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để mở lòng trước sức mạnh của ân sủng. Chúa Giêsu cũng tôn trọng Giuđa như vậy. Ngài làm cho Giuđa trở nên quý giá trong nhóm. Ngài cho Giuđa một chỗ vinh dự trong Bữa Tiệc Ly.

Đâu là thí dụ về việc Thiên Chúa xử lý với tôi một cách nhẹ nhàng?

“Đây là người tôi trung của Ta… Ta cho thần khí Ta ngự trên Người… Cây lau bị dập Người không bẻ gẫy, tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi (Is 42,1.3)

10. Bệnh lùa dối chính mình

Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét xã hội Việt Nam hôm nay như sau: “Căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối.” (“Cần một cuộc tự vấn,” Tuổi Trẻ số 1-2012, ngày 01/01/ 2012: 12). Sự giả dối tràn lan khiến nhiều người tự hỏi, sống chân thật để làm gì? Căn bệnh giả dối này từng gây cho Giuđa mất khả năng nhìn nhận sự thật hoặc chỉ dám nhìn một nửa sự thật. Ông đã dám đối diện với Chúa để hỏi Chúa về chính mình như các môn đệ khác, nhưng ông lại không dám nhìn “mưu tính bán Chúa” bên trong mình. Sự giả dối nơi ông tinh vi đến độ, ngoại trừ Chúa Giêsu, không một ai trong các môn đệ biết những toan tính hạ cấp đó của ông, bởi sự gần gũi trong cử chỉ và lời nói của ông với Thầy Giêsu vẫn không khác gì với các môn đệ khác.

Bên cạnh một vài mặt nổi về kinh tế, những mặt “nổi cộm” khác cũng thật đáng lo ngại đang bùng phát: nạn nạo phá thai kỷ lục, tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng, tệ nạn tham nhũng lan tràn, trò đánh thầy, cô giáo đánh trẻ một cách bạo lực (Việt báo 17-1-08). Khi lửa tình yêu dành cho Thiên Chúa không còn, trái tim con người trở nên “chai cứng” để đối xử “lạnh lùng” với tha nhân. Hình ảnh Giuđa không thiếu trong trong xã hội ngày nay và, biết đâu, cả trong bạn, trong mỗi người chúng ta nữa!

Sống chân thật không chỉ nhìn về Chúa, mà còn nhìn vào chính bản thân khi đối diện với Chúa và đón nhận ơn hoán cải. Có quá nhiều lần chúng ta nhìn lên Chúa, ca tụng Chúa, cầu nguyện với Chúa; nhưng lại quá ít lần chúng mình nhìn nhận sự thật đang nhầy nhụa nơi bản thân để sám hối, trở về với Chúa. Thi sĩ Péguy từng nói: người ta đã thấy ân sủng xuyên qua một tâm hồn đồi bại và đã thấy cái bị hư mất nay được cứu thoát. Nhưng khó mà xuyên qua cái “không thẩm thấu” được.


THỨ NĂM

Lời Chúa: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.

Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu." Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con." Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy." Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa." Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu." Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu."

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con."

TRUYỆN KỂ

1. Bí tích của tình yêu.

Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Corintô nói: “Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con: các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23).

Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu. Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn: hễ mất cái này thì còn cái khác. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.

Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà." Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời, lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26,26-28).

2. Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.

Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ. Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin.

Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi! Bỗng Giới tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.

Trùng Nhĩ ăn ngon lành! Ăn xong, khỏe khoắn liền hỏi Giới tử Thôi:

- Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế?

Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa:

- Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng: nguời hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.

Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói:

- Ân này, biết bao giờ ta đáp được.

3. Bà có phải là Chúa không?

Một em bé mồ côi, đầu trần, đi chân đất và mặc chiếc áo không đủ ấm trước những cơn gió đông buốt giá. Em đứng và dán cặp mắt thèm thuồng vào tấm kiếng của một tiệm bán quần áo, dày dép đang giờ đông khách. Bỗng một bàn tay ấm áp nắm lấy tay em và nói:

- Con vào đây với cô.

Quá bất ngờ nên em bước theo như một cái máy, và người phụ nữ ấy đã mua cho tất cả những gì em cần. Trước khi chia tay, cậu bé nhìn người phụ nữ với lòng biết ơn và ngập ngừng hỏi:

- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?

Người phụ nữ cười hiền hậu:

- Không, cô chỉ là người môn đệ còn nhiều vụng về của Người.

Nói về yêu thương thì dễ, nhưng thực thi lòng mến đến độ chấp nhận phần thiệt về mình thì cần nhiều cố gắng. Nhưng khi dám hy sinh quyền lợi của bản thân vì thiện ích của tha nhân, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và qua đó giúp nhiều người nhận ra Đức Giêsu là Tình Yêu nhập thể đang ở giữa nhân loại.

Hôm nay chúng ta hợp với Giáo Hội tái diễn bữa tiệc ly của Đức Giêsu và các môn đệ, trong bữa ăn này Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể và Truyền Chức. Tham dự thánh lễ và quì bên Thánh Thể Chúa, mỗi người cần tự hỏi: có khi nào tôi là một tín hữu tốt ở nhà thờ, nhưng trong sinh hoạt hằng ngày, thường nhìn tha nhân bằng ánh mắt lạnh lùng và cư xử với mọi người bằng trái tim băng giá?

Nếu có như vậy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa và quyết tâm thay đổi cách sống. Chẳng những thế, cùng với lời cảm tạ vì được Chúa yêu thương, chúng ta xin cho các tín hữu siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để được thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô, biết yêu thương phục vụ lẫn nhau theo gương Đấng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ và hiến thân trên thập giá vì hạnh phúc của muôn người.

4. Ngọn đèn cũ

Ở châu Úc có một người thuộc thổ dân Aborigine sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo khi tuổi đã già nua. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông ta trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

5. Thế nào là một tình yêu tột đỉnh:

Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều hơn bạn kia không ai chịu thua ai. Sau cùng để xác định hơn thua, bướm đực đề nghị: “Ngoài vườn có một cây hoa hồng mỗi sáng đều có nở một bông hồng rất đẹp. Vậy sáng mai chúng ta sẽ thi nhau xem: ai sẽ đến ngồi vào trong bông hoa hồng trước, khi nó vừa nở ra sẽ chứng tỏ mình có tình yêu nhiều hơn." Bướm cái gật đầu đồng ý.

Hôm sau, ngay từ sáng sớm bướm đực đã bay đến đứng chờ ngay bên bông hoa sắp nở, chờ khi nó vừa nở ra là chú sẽ chui vào trước bướm cái. Có điều khi sắp tới lúc hoa nở mà vẫn chưa thấy bướm cái xuất hiện. Rồi cuối cùng thì cũng tới lúc hoa nở, chú bướm liền nhanh chân chui vào. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi thấy bướm cái đã có mặt trong bông hoa rồi. Có điều khi nhìn kỹ thì chú thấy bướm cái đã bị chết khô.

Thì ra để nắm chắc phần thắng, bướm cái đã bay đến cây hoa hồng ngay từ tối hôm trước. Cô bướm đã chui qua kẽ hở vào ngồi trong bông hoa. Cô định sáng sớm hôm sau khi hoa nở và gặp bướm đực cô sẽ chứng tỏ tình yêu cô dành cho chú thật lớn lao. Nhưng chẳng may cô lại bị chết ngạt trong bông hoa khi nó chưa nở!

6. Một ngôi thánh đường

Chân phước linh mục Antone Chevrier (Pháp) đã nói:

– Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.

Người ta ngạc nhiên bèn hỏi:

– Thưa Cha, ngôi thánh đường nào vậy?

Ngài nói tiếp:

– Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện.

Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc!

7. Đây là người cứu tôi

Một em bé gái mồ côi cha mẹ, sống với bà ngoại, hai bà cháu sống trong một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại bị thiệt mạng khi cứu đứa cháu. Láng giềng gọi cứu hỏa tới, còn họ chỉ biết bó tay đứng nhìn ngọn lửa đang án ngữ mọi lối ra vào.

Bổng em bé gái xuất hiện trên cánh cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa chưa đến, và cũng không ai dám liều mình đi vào căn nhà. Thình lình, có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông lao vào ngôi nhà và mất hút trong đó. Một lúc sau ông trở ra với bé gái trên tay, ông trao nó cho đám đông và biến mất.

Một tuần lễ sau, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp, để xem có ai nhận đứa bé về nuôi:

• Một cô giáo giơ tay xin nhận nuôi và dạy dỗ em nên người.

• Một chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận nuôi.

• Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý muốn.

• Cuối cùng người giàu có nhất khu phố nói: "Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quí vị vừa nêu, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được.

Trong khi đó , em bé gái lắng nghe, nhưng không để lộ một phản ứng nào, mắt em chỉ biết cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì buổi họp mới lên tiếng: "Còn ai muốn nói gì nữa không?"

Bấy giờ, từ cuối hội trường, có một người đàn ông tiến lên, dáng vẻ chậm chạp và nặng nề. Ông tiến đến gần đứa bé, ông dang cánh tay ra, mọi người đều thấy rõ vết cháy nám trên hai cánh tay ông.

Em bé gái nói như thét: "Đây là người đã cứu tôi." và em nhảy tới bá lấy cổ ông, áp mặt vào vai ông, khóc thổn thức. Rồi em lại ngước mắt nhìn ông mỉm cười, những giọt lệ lăn nhẹ trên đôi má ửng hồng của em.

8. Dấu hiệu môn đồ của Chúa

Một ngày nọ, chim thiên nga hỏi Chúa Tạo Vật (Đấng sáng tạo):

- Con có thể làm môn đồ của Ngài được chứ?

Chúa tạo vật vui vẻ trả lời: “Được, được."

Một lúc sau Chúa Tạo Vật nói với chim thiên nga:

- “Con nhìn xem con vịt mẹ đàng kia kìa, nó vừa kiếm ăn từ dưới bùn lầy đi lên đấy, chân nó quá dơ, con đến giúp rửa chân cho nó đi."

Chim thiên nga lắc đầu không chịu, nói to:

- “Làm môn đồ của Chúa Tạo Vật thì không thể nào đi rửa chân cho người khác."

Chúa Tạo Vật nói:

- “Này con, nếu con không rửa chân cho người khác, thì ai biết con là môn đồ của Ta chứ??” (1)

Câu chuyện nhỏ nhưng đạo lí thì lớn.

Phục vụ tha nhân không vì họ là anh em bà con của mình, nhưng vì họ là hình ảnh Đức Chúa Giê-su, là hình ảnh của Chúa Tạo Vật, bởi vì họ là anh em của mình trong đức ái.

9. Phép rửa bằng lửa

Michel Quoist đã diễn tả tình yêu vị tha Chúa đòi hỏi nơi mỗi linh mục, qua lời nguyện chiều Chúa nhật của một linh mục:

“Lạy Chúa, chiều nay con trơ trọi, những tiếng động trong nhà thờ lịm tắt dần. Những người đi chầu đi lễ đã về hết rồi và con cũng lủi thủi trở về nhà xứ, một thân, một bóng…

“Yên lặng làm con ngạt thở, cô đơn làm con bực dọc.

“Lạy Chúa, con cũng có một thân xác như bao nhiêu người khác, với những bàn tay để làm việc, với một quả tim được dành để yêu thương.”

Kỳ diệu làm sao cái tình yêu Chúa mang xuống trần gian! Với tình yêu, Chúa đã thực hiện một phép rửa không phải bằng nước, mà bằng lửa, một phép rửa thanh tẩy tôi sạch hẳn mọi vết nhơ tội lỗi: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11)

Chúa đã “mang lửa xuống trần gian” để thực hiện phép rửa đó. Ngọn lửa được trao cho tôi. Tôi có tiếp lửa đó, yêu như Chúa yêu, hay để lụi tàn?

10. Biết nhận và biết cho

Vậy Giới Răn Yêu của Chúa Giêsu dạy vừa biết nhận vừa biết cho. Vì khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, đến lượt ông Phêrô, ông hoảng hốt la lên: “Không đời nào Thầy rửa chân cho con”, Đức Giêsu đáp lại: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không có phần nào với Thầy” (Ga 13, 8: Tin Mừng). Nói cách khác, ở đâu có tình yêu, ở đó có quà tặng. quà tặng là dấu tình yêu chuyển lưu từ người này đến người khác.

Có một bà mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho bà trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì nghĩ đến đứa con ở nhà, nên bà bỏ trái cam vào túi.

Đứa con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, bà liền trao trái cam cho con. Em bé mừng quýnh cám ơn mẹ, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đạp xích lô nắng nôi thiêu cháy ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để tặng bố.

Khi ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói:

- Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt nè, để con phụ đem xích lô vào nhà cho.

Ông bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của con, ông cám ơn con và định không nhận, nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!

Cầm trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt nghĩ: con mình còn bé mà còn biết cách làm cho cha mẹ vui, sao mình không biết nghĩ đến vợ đang vất vả trong bếp? Vì ở đâu có tình yêu ở đấy có quà tặng! Thế là ông chồng cầm ngay trái cam vào bếp tươi cười chào vợ và nói:

- Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.

Như thế cả gia đình vợ chồng con cái đã biết sống lời thánh Gioan nói: “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thực sự!” (1Ga 3, 18). chỉ riêng Thiên Chúa cho chúng ta biết bao món quà quý giá, mà Ngài không nhận lại điều gì, vì sự giàu sang vinh quang của Ngài không bao giờ vơi cạn. Loài người không ai có thể cho người khác điều gì tốt nếu không biết nhận từ nơi Thiên Chúa. những ân lộc Chúa ban cho, không chỉ để ta hưởng dùng, mà còn để chia sẻ diễn tả tình yêu chân thật của ta, đó là cách tạ ơn Chúa, vì thế trong kinh Tiền Tụng Tạ Ơn, Hội Thánh cất lời chúc tụng: “Việc tạ ơn của chúng con không thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con.”

11. Rửa chân cho nhau

Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.

Ngày 07/4/2020, sau hơn 400 ngày tạm giam, ĐHY George Pell được trả tự do với phán quyết cuối cùng của Tối Cao Pháp Viện Australia khẳng định ngài vô tội với tỷ số tuyệt đối 7/7.

Đức Hồng Y Pell mắc vào vụ án oan tháng 12 năm 2018, khi bị cáo buộc đã tấn công tình dục một bé trai 13 tuổi và lạm dụng đứa bạn của bé trai này ngay trong phòng thánh sau buổi lễ Chúa nhật năm 1996 tại nhà thờ Chính tòa St Patrick.

Cha Raymond de Souza, chủ bút tập san Convivium của Canada đã viết: “Đức Hồng Y George Pell, một người quyết liệt chống đồng tính. Vì thế, người ta gán cho ngài vào chính cái tội khốn nạn mà ngài lên án gay gắt nhất.”

Ngay khi nhận quyết định trả tự do của Tòa Tối cao Pháp viện Hồng Y Pell ra tuyên bố, trong đó ngài viết: “Tôi vẫn luôn xác định là mình vô tội, ngay khi phải chịu phán quyết vô cùng bất công, hôm nay, sự bất công đã được giải bày qua quyết định của Tòa án Tối Cao. Tôi mong được đọc bản án và lý do cho quyết định một cách chi tiết.

“Tôi không nghĩ xấu cho người tố cáo tôi, tôi cũng không muốn quyết định tha bổng tôi gây thêm tổn thương và cay đắng, mà nhiều người cảm thấy, chắc chắn đã có quá nhiều tổn thương và cay đắng.”

12. Tắm rửa cho Chúa

Ngày kia, Mẹ Têrêxa Calcutta hỏi một chị nữ tu thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ:

- Suốt buổi sáng con đã làm gì?

Chị nữ tu thưa:

- Thưa Mẹ con đã tắm rửa cho Chúa Giêsu.

Thì ra, chị nữ tu đó mới bước ra từ nhà hấp hối, một căn phòng dành cho các bệnh nhân sắp qua đời. Chị mới tắm rửa cho một bệnh nhân phong cùi đang hấp hối. Chị gọi việc tắm rửa cho người ấy là tắm rửa cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã yêu thương đến cùng, đến nỗi đã cúi xuống để phục vụ chúng ta, phục vụ đến hy sinh mạng sống vì chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước Ngài để cũng biết phục vụ Chúa trong anh chị em mình, phục vụ như Chúa đã phục vụ.

13. Hai chiều kích của bữa tiệc ly

Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính:

– Đó là một bữa ăn gia đình: mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.

– Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết va sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.

Khi dâng Thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy: vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.

14. Đôi tay cầu nguyện

Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.

Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:

– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:

– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…

Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện.”

15. Tình yêu hiến dâng

Tình yêu cao đẹp là tình yêu dám hy sinh cho người mình yêu. Yêu là cho đi. Yêu là dâng hiến. Yêu là chấp nhận phần thiệt thòi về mình để cho người mình yêu được hạnh phúc.

Trong bộ phim “Tôi là người đàn ông” đã diễn tả một tình yêu đầy hy sinh nơi chàng trai. Có thể nói tình cảm và sự hy sinh cao cả của chàng nhiếp ảnh gia dành cho cô gái xinh xắn trong bộ phim này khiến người xem thật ngưỡng mộ.

Trong lúc anh ta vui vẻ chụp ảnh cho bạn gái thì máy ảnh hết pin. Cô gái liền vội vã đi lấy tìm pin cho anh nhưng vô tình bị chai nước rửa phim đổ vào mắt và không nhìn thấy được nữa. Vô cùng ân hận và dằn vặt vì gián tiếp làm người yêu thương mình hỏng mắt, nhiếp ảnh gia này đã quyết định hiến tặng đôi mắt của mình cho cô gái, sau đó bỏ đi thật xa.

Một hôm cô ta tình cờ gặp lại anh đang ngồi với chú cún, trên tay vẫn cầm tấm ảnh của cô nhưng không còn thấy đường nữa. Nhìn cảnh chàng nhiếp ảnh gia dắt chú cún đi ngang qua người yêu cũ nhưng không hề hay biết, nhiều bạn nữ đã không cầm được nước mắt.

Tình yêu của Đức Ky-tô yêu nhân loại không phải cho đi một phần thân thể mà là cho đi chính bản thân mình hiến tế vì người mình yêu. Khi Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy.” Đó là một hình ảnh trao ban trọn vẹn tình yêu. Ngài không giữ lại điều gì cho riêng mình. Ngài không toan tính cho riêng mình. Ngài làm tất cả để người mình yêu được hạnh phúc.

16. Cầu nguyện cho linh mục

Các linh mục được lãnh nhận những sứ mạng cao cả, nhưng linh mục cũng là con người với những yếu đuối của họ. Nói theo kiểu Thánh Phaolô, những sứ mạng cao cả ấy lại chứa đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Chính vì vậy, ngoài việc cố gắng nỗ lực của bản thân, linh mục cần lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của mọi thành phần dân Chúa. Cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng của mình. Cầu nguyện cho các linh mục thực sự là những linh mục thánh thiện. Chân phước linh mục Antone Chevrier (Pháp) đã nói:

- Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.

Người ta ngạc nhiên bèn hỏi:

- Thưa Cha, ngôi thánh đường nào vậy?

Ngài nói tiếp:

- Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện.

Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc!

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã thiết lập chức linh mục để ở lại với chúng con. Xin cho các linh mục biết chu toàn các sứ mạng của mình, trở thành những linh mục thánh thiện, hầu mưu ích cho dân Chúa. Amen!

17. Rửa chân cho nhau thật khó hiểu

Sau ba năm theo Thầy, môn đệ Phê-rô vẫn cứ là người đi bên lề, không hiểu được đường lối của Thầy. Điều hệ trọng nhất Thầy sắp nói, lời cuối của Thầy trước lúc đi xa, thật quá sức tưởng tượng của ông. Lần thứ nhất, ông không muốn Thầy rửa chân, vì lý do rất đơn giản: không đời nào môn đệ lại được Thầy hầu hạ! Ông phải là người phục vụ, bảo vệ Thầy. Lần thứ hai, vì muốn dự phần cùng Thầy từ đầu đến cuối, Phê-rô năn nỉ xin Thầy rửa cả tay và đầu nữa. Lần này cũng vậy, ông lại càng không biết phần mà Thầy muốn mình chia sẻ là gì. Ông chưa hình dung ra rằng Thầy sẽ chịu đau khổ, xét xử, đóng đinh và chết tức tưởi trên thập giá. Trước mắt Phê-rô, chỉ có một viễn cảnh mà thôi: vinh quang mà ông sắp được Thầy mình chia sẻ.

Rất nhiều khi chúng ta đi sai đường, mà tưởng rằng mình đang làm theo ý Chúa. Thành công, vinh dự, thuận lợi là những dấu cảnh báo…

Người mải mê cho đi, mỗi lần phải nhận là một lần đau khổ; người chỉ biết nhận thì mỗi lần phải cho đi là một lần ray rứt. Hoặc chúng ta chỉ muốn làm “người trên”: thi ân cho người, hoặc chúng ta chỉ biết nhận. Theo bạn, làm thế nào để sống lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” trong cộng đoàn con cái Chúa?

18. Giải Nghĩa Yêu

Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, thường nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu... nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì.

Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:

"Làm sao giải nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt..."

Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta - trong bài "Ðà Lạt trăng mờ" - như sau:

"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,

Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo

Ðể nghe tơ liễu run trong gió

Và để xem Trời giải nghĩa yêu."

"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!" Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu.”

Chúa Giê-su "giải nghĩa yêu" khi Ngài ngỏ lời với ông Nicôđêmô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).

Chúa Giê-su cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)

19. Lơi kinh thắp sáng cuộc đời

Trong cuốn “Lời kinh thắp sáng cuộc đời”, cha Michel Quoist đã diễn tả tình yêu vị tha Chúa đòi hỏi nơi mỗi linh mục, qua lời nguyện chiều Chúa nhật của một linh mục:

“Lạy Chúa, chiều nay con trơ trọi, những tiếng động trong nhà thờ lịm tắt dần. Những người đi chầu đi lễ đã về hết rồi và con cũng lủi thủi trở về nhà xứ, một thân, một bóng…

“Yên lặng làm con ngạt thở, cô đơn làm con bực dọc.

“Lạy Chúa, con cũng có một thân xác như bao nhiêu người khác, với những bàn tay để làm việc, với một quả tim được dành để yêu thương.”

Kỳ diệu làm sao cái tình yêu Chúa mang xuống trần gian! Với tình yêu, Chúa đã thực hiện một phép rửa không phải bằng nước, mà bằng lửa, một phép rửa thanh tẩy tôi sạch hẳn mọi vết nhơ tội lỗi: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11)

20. Người bạn thân nhất

Năm 1985, tất cả các chương trình tin tức truyền hình đều đưa tin về một phụ nữ bị kẹt dưới một cần trục bị rớt ở Nữu ước. Các bác sĩ cố gắng giữ cho bà ta sống đến khi một cần trục được đưa đến để nhấc cần trục bị rớt lên. Họ truyền dịch, máu và hàng tá thuốc giảm đau. Rồi giây phút bi kịch đến, người phụ nữ xin được rước lễ. Các máy quay phim cũng quay cảnh này. Cuối cùng, người phụ nữ được cứu thoát và được chuyển đến bệnh viện, tại đây đội ngũ bác sĩ đã cứu sống bà ta.

Khi tưởng tượng mình là người phụ nữ bị thương dưới cần trục đó, tôi suy nghĩ gì lúc Rước Mình Thánh Chúa?

Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. (Ga 6,51)

21. Có tình yêu mới có giá trị

Trong cuốn sách “Vị tướng đáng mến” Donald Hankey kế về một vị tướng quan tâm thế nào đến đôi chân của những người lính. Sau cuộc hành quân dài, ông ngồi xuống và xem xét những trường hợp tệ nhất, nếu vết sưng nơi chân cần mổ, đôi khi ông tự tay làm lấy. Hankey nói: “Chẳng có gì giả tạo trong việc làm này. Dường như có Chúa Kitô trợ giúp, và chúng tôi càng tỏ ra yêu mến và kính trọng Ngài hơn vì điều đó.”

Dường như có Chúa Kitô trợ giúp ra sao trong sự quan tâm của tôi đối với người cùng sống và làm việc với tôi?

Đừng thỏa mãn với việc cho đi tiền bạc. Tiền bạc mà thôi chưa đủ, còn cần tấm lòng yêu thương nữa (Mẹ Têrêsa)

22. Tình yêu phục vụ luôn gây ấn tượng

Một nhóm kitô hữu Trung Hoa mời một học giả Kinh thánh người Mỹ đến Trung Hoa để thực hiện một cuộc hội thảo về Kinh thánh. Trong quá trình hội thảo, vị học giả yêu cầu các học viên chọn một đoạn Tin Mừng _ suy niệm gây ấn tượng cho mình nhất. Ông ta ngạc nhiên, vì các kitô hữu Trung Hoa không chọn Bài giảng trên núi, Bài tường thuật về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng họ chọn đoạn Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.

Hành động “rửa chân” nói với tôi điều gì về Chúa Giêsu? Tôi có thể bắt chước hành động “rửa chân” của Chúa Giêsu như thế nào?

Niềm tin của tôi có thể dời núi chuyển non, nhưng nếu không có tình yêu, tôi chẳng là gì cả (1Cr 13,2)


THỨ SÁU

Lời Chúa: Ga 18, 1 - 19, 42

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét." C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây." C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét." C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi." C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con." Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu."

C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói." C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư." C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu." C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì." C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan." C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông." C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả." C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này." C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi." C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba." C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án." C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người." C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông." C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa." C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"

C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn." C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa." C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi." C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa." C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái." Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'." C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết." C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy." C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta." Chính quân lính đã làm điều đó.

Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà." C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con." C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất." C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người." Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua."

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

TRUYỆN KỂ - Thủ phạm giết Chúa.

1. Một Đấng khác đã nghĩ đến tôi

Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có 3 người bạn của ông đi viếng thánh điạ. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy.

Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói: “Chúng tôi muốn Ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghỉ tới ngài."

Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi”

2. Dấu hiệu của Đức Kitô

Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh kinh: “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài? Nhiều người bải không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài”

3. Người đã chết vì tôi

Người ta kể rằng:có một người khách du lịch, một lần kia vào xem một nghĩa địa nhà binh ở Nashville. Người ấy thấy một người đàn ông đang lấy hoa đặt trên một nấm mộ. Người du lịch thấy thế, mới hỏi:

- Đây là mộ của con ông, phải không?

- Thưa ngài, không.

- Của một người bà con ông, phải không?

- Thưa ngài, không.

- Thế sao ông đặt hoa lên mộ?

Người kia cảm động, bỏ hoa xuống kể cho người du lịch nghe. Đó là khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ bắt tôi phải đi động viên. Mà nhà tôi nghèo không thể có tiền để thuê người khác đi giúp. Nên tôi đành phải tuân lệnh chính phủ chuẩn bị lên đường. Đang khi tôi thu dọn đồ đạc và từ giã vợ con, thì một người bạn đến bảo: “Anh còn vợ và nhiều cháu dại, nếu anh đi sẽ không có ai làm ăn để nuôi chúng, nên anh hãy ở lại nhà, để tôi đi thay cho." Tôi vui mừng sung sướng để người bạn đi thay.

Chẳng may sau ít lâu bạn tôi bị thương nặng ở một mặt trận rồi chết. Người ta chôn bạn tôi ở nghĩa địa này. Được tin, tôi đã vội vã đi tìm mộ bạn tôi và ngày hôm qua tôi đã tới đây tìm được mộ của bạn tôi.."

Rồi người đó lấy một mảnh ván viết chữ: “Người đã chết vì tôi” để đặt trên mộ người bạn.

Kể lại câu chuyện anh hùng của một người đi lính để chết thay cho bạn, tôi muốn nhắc cho anh chị em biết tới cái chết thê thảm của Chúa Giêsu, Đấng đã liều mạng sống, Đấng đã hy sinh thịt máu mình, Đấng đã chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để cứu chuộc không những một người, một gia đình, một dân tộc, mà còn để cứu chuộc tất cả nhân loại, không những Ngài chết thay tội cho một thế hệ, mà cho mọi thế hệ, mọi thời đại. Chúa Giêsu chính là Đấng chăn chiên nhân lành, hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.

4. Cái giá của tình yêu

Một người lính Rôma bị đưa ra trước tòa án, anh ta xin yết kiến hoàng đế César và xin hoàng đế đến tòa án bênh vực và bầu chữa cho mình.

Hoàng đế César hết sức bỡ ngỡ vì thấy anh lính kia dám táo bạo như thế. Nhưng tỏ ra mình là người đại độ, cao thượng, ngài bèn phán với anh: “Ta sẽ cho một vị quan đi thay."

Tức thì người lính đó cởi áo ra, chỉ vào vết thương mà tâu: “Tâu ngài César, khi đánh trận, lúc tôi thấy một mũi tên sắp bắn tới ngài, chính tôi đã đứng ra đỡ mũi tên cho ngài."

Chúng ta cũng vậy, nếu Chúa Giêsu đã không tìm người khác chịu đòn, chịu xỉ vả, đội mạo gai, vác thánh giá và chịu đóng đinh thay cho Ngài, thì chúng ta cũng đừng ngại chịu đau khổ, hy sinh vì Chúa. Chúa đã chết cho ta thì chúng ta cũng phải chết cho Chúa. Mọi tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu, và cái chết chỉ có thể trả bằng cái chết.

5. Chết mà vẫn sống

Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng thọ 87 tuổi.

Ngay sau cái chết của mẹ, báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi"

- "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa"

- "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi."

Không phải chỉ thế giới đau buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới."

Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này."

Thủ tướng Tony Blair của nước Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi."

Nước Albani, quê hương thứ nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày."

Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi theo nghi thức quốc táng.

Vâng, đó là một cái chết, cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến như thế.

Mẹ Têresa đã chết.

Và gần 2000 năm trước Chúa Giêsu cũng đã chết.

Ngài đã chết, một cái chết mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người."

6. Yêu đến cùng

Noel năm 1944, quân đội đồng minh đã chiếm lại được nước Pháp. Tại ngôi làng Baccarat, các phụ nữ đứng xếp hàng lãnh khẩu phần. Một bà già yếu quá, đứng không nổi, nên phải ngồi ra ngoài hàng, tay cầm một cái lon. Thấy thế, anh lính Mỹ James Kilpatrick bước tới tặng cho bà khẩu phần của anh, rồi sau đó, trong thời gian còn đóng quân ở Baccarat, anh thường đến thăm và an ủi bà trong cảnh lẻ loi.

Sau khi hồi hương, một hôm người ta báo cho anh biết có một phụ nữ Pháp tên là Marchal qua đời, để lại cho anh 50 ngàn đôla. Thế là anh có đủ tiền để thực hiện giấc mộng đóng vai ca sĩ trong phim của mình, và trở thành nghệ sĩ Jimmy nổi tiếng đã hát trong nhiều phim có giá trị.

Jimmy thành đạt trong mơ ước trở nên một tài tử phần lớn nhờ vào một hành động nhỏ bé mà quí giá của ơn gọi làm người, là sống bác ái.

Đến cứu độ trần gian, Đức Kitô đã không làm gì khác hơn là sống và rao giảng một tình yêu tuyệt đối, yêu đến cùng: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).

7. Chiến thắng của thập giá

Có một thiếu nữ nô lệ da đen đạo đức và trung thành nên được chủ quí mến. Mỗi khi chọn thêm đầy tớ mới, ông để cô chọn lựa giùm ông. Một hôm cô lại chọn một ông già có tật. Ông chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc gì, nhưng cô nữ tì đó nài nỉ mãi nên buộc lòng ông phải mua người nô lệ già cả tật nguyền đó.

Ít lâu sau, người nô lệ già này bị bệnh nặng và được cô nữ tì đó tận tình săn sóc như một người con thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:

- Ông ấy là cha cháu hay sao mà cháu chăm sóc kỹ như thế.

- Thưa ông, đó không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, mà còn là kẻ thù của cháu nữa. Khi cháu còn nhỏ, ông ta đã bắt cóc cháu để bán như một đứa nô lệ. Cháu làm thế, vì cháu tin vào chiến thắng sau cùng của tình yêu Đức Kitô.

Tình yêu Đức Kitô đã chiến thắng, và cây thập giá được dựng lên khắp nơi. Ở đâu có cây thập giá ở đó vang lên lời ca “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian - chúng ta hãy đến thờ lạy.”

8. Đau khổ là con đường

... Cha Anselm Gruen là đan sĩ Biển-đức của đan viện Muensterschwarzach thuộc bang Bavière ở miền Nam nước Đức. Cha là Linh Mục trị liệu tâm linh và là vị đồng hành thiêng liêng vô cùng cao quý. Cha cũng là tác giả của nhiều sách báo rất được độc giả yêu thích. Tác phẩm mới nhất của Cha mang tựa đề: ”Trời Cao nơi chính bạn. Hành Trình tự do nội tâm." Xin nhường lời cho Cha nói về cách thức sống mầu nhiệm đau khổ trong cuộc đời tín hữu Công Giáo.

Mùa Chay rồi đến Tuần Thánh không ngừng đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Đức Chúa Giêsu Kitô chịu đau khổ. Và cứ mỗi lần chúng ta tuyên xưng Đức Tin chúng ta lập lại rằng chính Người cứu chuộc chúng ta bằng cái chết của Người trên Thánh Giá. Thế nhưng chúng ta vẫn luôn luôn nêu thắc mắc:

- Tại sao lại phải cứu chuộc bằng đau khổ?

Ban đầu, hai môn đệ trên đường Emmau cũng không hiểu tại sao Đức Chúa Giêsu - vị đại tiên tri mà họ từng mong đợi cứu thoát và giải phóng - đã bị đóng đinh trên Thánh Giá! Nhưng Đức Chúa Giêsu giải thích cho họ hiểu rằng: ”Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Luca 24,26).

Câu giải thích của Đức Chúa Giêsu như muốn chỉ cho chúng ta thấy một hướng đi. Thật vậy, đau khổ đập vào Người đến từ bên ngoài, không thể tiêu diệt Người. Trái lại, đau khổ chỉ là cuộc vượt qua đưa Người vào vinh quang.

9. Sức mạnh của thập giá

Vào năm 1856, các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino ở Rôma.

Khi đào bới lớp đất bao phủ một trại lính Rôma cổ, trên vách một bức tường họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao cắt một cách vụng về trên tường. Bên cạnh thập giá là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính thập giá. Trên thập giá có vẽ hình một người nhưng đầu ấy là hình một con lừa.

Dưới hai bức hình người ta thấy có viết hàng chữ: "Alexandre Menos thờ lạy Chúa của hắn." Các nhà khảo cổ cho rằng có thể bức tranh đã được thực hiện khoảng giữa những năm 123 và 126 sau công nguyên. Nếu sự phỏng đoán về niên biểu này đúng thì đây có lẽ là hình vẽ về thập giá cổ xưa nhất và đồng thời cũng là một thập giá bị nhạo báng. Người ta có thể đọc được ý tưởng đàng sau hình vẽ ấy như sau: "Nếu Thiên Chúa mà chết trên thập giá thì đây là một hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa. Và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng là những kẻ ngu dại như lừa."

Vào năm 1870, các nhà khảo cổ đã tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin kitô tên là Alexandre Menos. Ở một cột trụ bằng đá dựng hình một vị thần vốn là thần của chiến tranh, người ta lại đọc được dòng chữ như sau: "Alexandre Menos vẫn vững tin."

THỨ BẢY – CÙNG MẸ CUNG CHIÊM

“Ngài không có ở đây!”

Tại các Giáo Phận, phần lớn các họ đạo truyền thống có thói quen ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu vào Mùa Chay. Riêng Huế, kinh nguyện quý báu này được ngắm vào Tuần Thánh; đặc biệt, sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy vốn được gọi là Kinh Lễ Đèn, vì có đến 15 ngọn nến hoặc đèn, được đốt lên trên cùng một giá. Cách thức đọc được hướng dẫn đến từng chi tiết; ngắm một chặng, đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, tắt một ngọn nến. Tuy nhiên, ở Lễ Đèn 3, tức sáng thứ Bảy, ngọn nến 15 sẽ không được tắt! Thật thú vị, nó được đem vào phòng thánh một chốc, đang khi cộng đoàn quỳ gối ngắm “Thánh Mẫu Thống Khổ Kinh”; sau đó, nến này được đem ra, đặt trên bàn thờ. Nó tượng trưng cho Chúa Giêsu! Ngài đã chết, nhưng thực ra, cái chết của Ngài chỉ như một sự nghỉ ngơi trong mồ. Vì thế, thứ Bảy Tuần Thánh được coi như ngày - với Maria mẹ của mình - Kitô hữu ‘cùng Mẹ cung chiêm’, lặng yên đợi ngày Con Chúa phục sinh!

Kính thưa Anh Chị em,

Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội không có một nghi lễ nào, mãi cho đến buổi cử hành cực trọng Đêm Vọng Phục Sinh. Hôm nay, Giáo Hội trầm tư suy gẫm chậm rãi với Mẹ. Cầm tay Mẹ Maria, mỗi tín hữu tìm một ‘nơi vắng vẻ’, dành cả một ngày để suy ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu; và nhất là, ‘cùng Mẹ cung chiêm’ và trải nghiệm các mầu nhiệm!

VỌNG PHỤC SINH (năm A)

PHÚC ÂM (NĂM A): Mt 28, 1-10

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Đây Ta đã báo trước cho các bà hay."

Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà." Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta." Đó là lời Chúa.

PHÚC ÂM (NĂM B): Mc 16, 1-8

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?" Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galilêa trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước." Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. Đó là lời Chúa.

PHÚC ÂM (NĂM C): Lc 24, 1-12

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu. Đang khi các bà còn ngơ ngác không hiểu việc đó, thì có hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói. Các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất, thì hai người lên tiếng bảo: "Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại, các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa. Người đã nói: Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại." Và các bà nhớ lại những lời Người đã nói.

Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác. Các bà đó là Maria Mađalêna, Gioanna, Maria mẹ Giacôbê; và những người nữ khác cùng đi với họ cũng nói như vậy với các tông đồ. Nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin. Dầu vậy Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng khi cúi xuống nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự đã xảy ra. Đó là lời Chúa.  

TRUYỆN KỂ

1. Niềm hy vọng Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm lại sáng, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lầy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khoẻ: các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còn đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.

2. Lửa và Ánh sáng --Lm Giuse Đinh Tất Quý

Trong nghi thức Phụng vụ Vọng Phục Sinh đêm nay, Giáo Hội hướng chúng ta về Lửa và Ánh sáng. Lửa và ánh sáng là hai yếu tố rất quan trọng và rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Cách đây hơn 8.000 năm, con người chưa khám phá ra lửa. Không có lửa, cuộc sống con người thật tăm tối và bấp bênh.

Đầu thập niên 80, bên Mỹ người ta trình chiếu rộng rãi một bộ phim dị thường mang tựa đề là “Săn tìm lửa”(Quest for fire). Trong bộ phim này, nhà sản xuất đã cho người xem được chứng kiến một cảnh hết sức vui mừng khi người ta khám phá ra lửa lần đầu tiên trên trái đất này. Chính lửa đã giúp cho những con người trên hành tinh này khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nếu không có lửa không biết cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao.

Bên cạnh ngọn lửa, trong đêm cực thánh này Giáo Hội còn đề cao Ánh sáng.

Không có Ánh sáng, thế giới sẽ sống trong tăm tối. Ánh sáng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển của tất cả các tạo vật có sự sống trên trái đất này.

3. Niềm vui phục sinh

Một thương gia theo Ấn giáo sống tại Ấn Độ, một lần kia đã hỏi một nhà truyền giáo Kitô Giáo:

- Ông có thoa cái gì trên mặt ông không mà lúc nào tôi thấy mặt ông cũng rạng rỡ thế ?

Ngạc nhiên quá, vị giáo sĩ trả lời:

- Tôi có thoa gì đâu!

Ông nhà buôn nhấn mạnh:

- Có, chắc chắn mà! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng tương tự như Ngài. Tôi đã thấy những người đó tại thành phố Agra và Surat và ngay cả thành phố Bombay này nữa.

Thình lình vị giáo sĩ hiểu ra và hối hả trả lời: “Bây giờ tôi hiểu ông nói gì rồi và tôi xin cho ông biết bí quyết của chúng tôi. Đây không phải là những gì chúng tôi thoa từ bên ngoài, nhưng là những gì phát xuất từ bên trong. Đó là sự phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa trong lòng của chúng tôi."

Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy thanh thản bước đi an bình giữa một thế giới đầy dẫy những cạm bẫy và bất trắc này, vì Chúa Phục Sinh đang đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống này. Amen.

4. Khi tôi yếu đó là lúc tôi mạnh

Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống; rèn luyện cho mình khả năng chịu đựng để trở thành một con người có bản lĩnh với một ý chí mạnh mẽ đã được tôi luyện qua thử thách, khó khăn, bất hạnh và có khi cả thất bại. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác - tùy vào cách họ đón nhận một cách dũng cảm để vượt qua hay tự thương thân trách phận mình mà gục ngã.

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình có mỗi một thể võ duy nhất.

Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:

- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học thêm được một thể võ nào khác nữa sao?

Ông trả lời:

- Đây là thể võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.

Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.

Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đi tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn một chút nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.

Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm hơn. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:

- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.

Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.

Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra cái điều ám ảnh trong đầu mình bẩy lâu nay:

- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thể võ như thế?

- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con có thể phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.

Vâng! Đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Hãy tin vào chính mình, chúng ta có thể làm được tất cả!

Martha Washington: "Phần lớn hạnh phúc hay bất hạnh được quyết định bởi tính cách của chúng ta chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh."

Lạy Chúa Giêsu Chúa đã làm người và sống cuộc sống làm người của chúng con. Nhìn vào cuộc sống làm người của Chúa trên trần gian, chúng con thấy Chúa đã gặp quá nhiều bất hạnh, khó khăn, đau khổ và cả sự chết nữa nhưng Chúa đã vượt qua tất cả… vượt qua để bước vào vinh quang.

5. Người đã sống lại thật--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.

2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.

6. Cái nhìn của mẹ

Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Isumo, Nhật bản, trong một gia đình có năm anh em theo đạo Shinto. Sau khi vào trường thuốc Nagasaki năm 1928, anh đã bị mê hoặc bởi chủ nghĩa vô thần. Khi mổ xẻ các tử thi, anh thấy cấu trúc cơ thể của con người kỳ diệu đến từng chi tiết nhỏ, nhưng tất cả những điều kỳ diệu đó, anh chỉ thấy là vật chất. Còn linh hồn? Đối với Nagai, đó chỉ là một trò lừa bịp không hơn không kém.

Năm 1930, được điện tín của cha: “Về nhà!”, anh về ngay với linh cảm có chuyện không lành. Anh đờ người ra khi biết mẹ bị bệnh nặng, không còn nói được nữa. Nagai ngồi bên mẹ và đọc được lời tạm biệt trong mắt mẹ. Sự ra đi của người mẹ làm đời anh thay đổi: “Với cái nhìn sau cùng đó, mẹ tôi đã phá đổ cái khung tư tưởng tôi đã xây nên. Cái nhìn đó cho tôi biết tinh thần con người vẫn còn sau cái chết.”

Rồi Takashi Nagai bắt đầu đọc cuốn Pensées của Pascal, một thi sĩ và học giả nổi danh của Pháp trong thế kỷ 17.

“Linh hồn, cõi vĩnh hằng, … Thiên Chúa. Bậc tiền bối lỗi lạc của chúng ta, nhà vật lý Pascal đã cân nhắc kỹ những điều này”, Nagai nói, “kẻ tài trí hơn người đó đã thực sự tin những điều này! Pascal giải thích rằng chúng ta có thể gặp được Chúa trong niềm tin và cầu nguyện, và ông ta đã nói là cả khi chưa tin, anh cũng đừng coi thường việc cầu nguyện và tham dự thánh lễ”

7. Chọn sự sống

Trong thời gian bị giam, một hôm qua tuần phủ nói với thánh Khoan (tử đạo ngày 28. 4. 1840, 69 tuổi): “Tôi muốn kết nghĩa với cụ, tôi chỉ muốn tìm cách cứu sống cụ thôi. Xin cụ chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá.”

Cha trả lời: “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức Tin cho đến chết.”

- Thế ông không muốn sống ư?

- Bẩm quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống hồ là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham. Thế nhưng với những người Kitô Hữu, chết là bước đường đi đến cuộc sống muôn đời trên Thiên Đàng.

- Ai bảo ông là có Thiên Đàng?

- Đó là điều cố nhiên phải có. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa Trời Đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung của Người sao? Nơi ban thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng

- Vậy ai dậy cho ông biết là có Chúa Trời Đất?

- Bẩm quan, không cần phải ai dậy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên, tức khắc phải nhận ra có Đấng tạo Thành và giữ gìn nó. Chúng tôi gọi Đấng ấy là Chúa Trời và tôn Thờ Người.

8. Con người cũ phải chết đi, nhường chỗ cho con người mới

Sau ba tháng tập luyện ở trường bơi Bolles danh tiếng ở Florida (Mỹ) chuẩn bị cho thế vận hội sắp tới, đội tuyển bơi lội Việt Nam nay phải rời trường đi lang thang và thầy trò ta tập tành với nhau trong các hồ bơi hạng xoàng tại xứ người. Kinh phí tập huấn hàng tỉ đồng đem đổ biển cũng vì các huấn luyện viên nội cứ đeo bám học trò cũ của mình và can thiệp sâu vào chuyên môn của chuyên gia nước ngoài. Ta chưa học được bài từ bỏ nên phải “trả giá cho sự lạc hậu”! (x. Tuổi Trẻ 19.3.2012, tr. 14).

Khi ngôi mộ đã an táng Chúa Giêsu trở thành ngôi mộ trống cũng là lúc các môn đệ Chúa Giêsu phải làm trống rỗng tâm hồn mình để tiếp nhận và sống với sự kiện Chúa đã sống lại. Nếu họ cứ cố thủ với những ý nghĩ về Chúa của họ trước đây, họ sẽ trở thành người lạc hậu và mầu nhiệm phục sinh không còn ý nghĩa gì với họ.

Chúa phục sinh muốn chiếm hữu trọn vẹn con người bất toàn tội lỗi, lo sợ của ta để biến đổi nên những con người mới. Ngài muốn ban cho ta ánh sáng chân lý, niềm hạnh phúc và tự do trong Thánh Thần. Chúng ta có sẵn sàng để từ bỏ con người cũ, ích kỷ nhỏ nhen để mặc lấy người mới không?

9. Nến sáng phải xóa tan bóng tối

Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.

Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.

10. Sự chết dạy sống

Tại Chile, vào thập niên 1920, có Elena Frings là một thiếu nữ còn trẻ mà đã mắc bệnh tim. Các bác sĩ cho biết cô chỉ sống được chừng sáu tháng nữa. Cô quyết định nghỉ sở làm ở Santiago để tham gia một tổ chức thiện nguyện giúp đỡ những người trong khu ổ chuột của thành phố. Cô tâm sự với một người bạn: “Tôi làm như thế để chết hạnh phúc.”

Bởi việc làm đắc lực và có hiệu quả, cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại đó, cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông giải phẫu và chữa cô khỏi bệnh tim.

Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm cũ mà tiếp tục tích cực tham gia công việc từ thiện giúp đỡ những người khốn khổ đang sống bên lề xã hội. Chính cảm nghiệm về cái chết gần kề đã mang lại cho cô một định hướng đầy ý nghĩa cho cuộc sống của mình. Cái chết dạy cô sống. (Christopher Notes)

11. Thánh giá là chìa khóa cho nhiều vấn nạn

Sự biến đổi diệu kỳ đó được thiên thần Chúa nói với các phụ nữ đi viếng mộ từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói.”

ĐGH Gioan 23, nhân tĩnh tâm dịp Tuần Thánh năm 1903, đã viết trong nhật ký: “Thánh giá sẽ là quyển sách to hằng ngày con sẽ ân cần yêu mến tìm những bài học cao siêu của Chúa. Sẽ phải quen suy luận các biến cố và mọi khoa học loài người theo nguyên tắc của quyển sách này. Dễ bị lầm vì vẻ hào nhoáng bên ngoài để rồi quên nguồn sự thực.

“Nhìn thánh giá, tôi thấy các thứ sự khó đều tiêu tan, những vấn đề thời đại, văn hoá, lý thuyết, thực hành tất cả đều được giải quyết. Vì “Chúa Kitô chính là câu đáp giải quyết mọi khó khăn.”

Tôi cũng hãy giải quyết mọi khó khăn bằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.” (Rm 6,8)

12. Nếu Chúa không sống lại

Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.

Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu.”

Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây.”

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:

- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

- Chuông các thánh đường im tiếng.

- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.

- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.

 - Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này.”

13. Ý nghĩa của biến cố phục sinh

Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền.” Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?

14. Trở nên con người mới

Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.

Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:

Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.

Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.

Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.

Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.

Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.

15. Phục sinh mang lại hy vọng

Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài.” Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.

Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.

Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Nhưng Chúa đã phục sinh và mọi chuyện đã đổi khác. Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày…

16. Niềm vui phục sinh

Trong thế chiến 1, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”

Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.

Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.

12 ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.

Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”

Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.

17. Quên bài kèn rút lui.

Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: ”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều.”

Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: ”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi.”

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa.

Lời Chúa Tuần Thánh
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch