LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm
khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm
Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng:
"Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để
Thầy ở đâu."
Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy,
nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy
những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng
tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu
Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một
chỗ.
Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.
Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì
Người phải sống lại từ cõi chết.
TRUYỆN KỂ
1. Chúa Giêsu đâu rồi?
Đoạn Tin Mừng này đã được cải biên thành một vở tuồng
do một nhóm học sinh công giáo trình diễn. Vở tuồng như sau:
- Một học sinh chạy tới hỏi một nhóm bạn học sinh
khác: “Chúa Giêsu đâu rồi? Ai đã đem Chúa
Giêsu đi đâu rồi?"
Mọi người ngơ ngác, sau đó ai nấy đều lần lượt trả lời
“Tôi không có! Tôi không biết!"
Rồi cả nhóm cặm cụi tìm kiếm trong và quanh ngôi mộ của Ngài.
- Từ một góc sân khấu, một học sinh lên tiếng: “Đừng tìm ở đó vô ích. Chúa Giêsu đang ở với
mẹ tôi ở nhà tôi đấy. Mỗi khi tôi giúp mẹ một tay thì khuôn mặt rạng rỡ của
Chúa Giêsu hiện lên trong nụ cười của mẹ."
- Từ một góc khác, một học sinh khác cũng lên tiếng:
“Chúa Giêsu đang ở trong Nhà thờ đấy. Mỗi
khi tôi dự lễ, tôi được nghe Ngài nói trong Tin Mừng và được ấp ủ Ngài trong
lòng lúc rước lễ."
- Từ góc thứ ba, học sinh thứ ba tiếp lời: “Chúa Giêsu ở trong lớp học. Mỗi khi tôi
giúp chỉ bài cho một bạn chưa hiểu là tôi gặp Ngài."
- Phía dưới sân khấu, nhiều khán giả dần dần cũng bị
cuốn hút, mỗi người chỉ ra địa chỉ của Chúa Giêsu phục sinh mà họ khám phá được....
2. Đừng sợ thất bại
Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi
người: “Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ
nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có
thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người...,
anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa."
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu
biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt
được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng
va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những
bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại
mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang? (Sđd, trang 27)
Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: “Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải
là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không."
Ông Henry Ford cũng khuyên: “Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn
ngoan hơn."
3. Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của
hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:
Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng
bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt
đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó
nghe có tiếng thì thầm:
- Nếu ngươi muốn, ngươi
có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ:
- Nhưng ta có phải là
gió đâu?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn,
nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
- Gió sẽ mang ngươi đi.
Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn
chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính
mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản
thân một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
- Ngươi chỉ cần tin tưởng
nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:
- Đồng ý, nhưng ta không
thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích:
- Ngươi không thể băng
qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác
nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc,
thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng
suối thắc mắc:
- Vẫn một dòng suối như
cũ ư?
Giọng nói giải thích:
- Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm
gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh
mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để
cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn
núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối
gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn.
4. Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của
Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần
dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc
dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon
biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá
nhiều."
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh
ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của
Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện
binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn
mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn
thắng bất ngờ.
Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn
kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính
bình tĩnh tâu: “Muôn tâu đức vua, từ khi
được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng
cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi."
5. Tin là biết Chúa
Một nhà khoa học muốn đi thực tế trong rừng nên nhờ
anh thợ săn dẫn đường. Trên đường đi họ trao đổi với nhau nhiều điều, có lúc họ
tranh luận gay gắt về vấn đề tôn giáo. Muốn kết thúc đề tài này, nhà khoa học
nói:
- Bao giờ anh chỉ cho
tôi thấy Thiên Chúa của anh tôi mới tin.
Trước đề nghị đó, người thợ săn im lặng. Đêm ấy, cả
hai đã tìm một nhánh cây to trong rừng làm chỗ ngủ cho an toàn. Hôm sau vừa thức
dậy, vị khách reo lên:
- Đêm qua có đàn voi đi
qua đây.
Anh bạn dẫn đường trả lời:
- Khi nào ông chỉ cho thấy
đàn voi đó, tôi mới tin.
Nhà khoa học chỉ dấu chân voi và nói với sự xác tín:
- Những dấu chân này chứng
tỏ đàn voi ấy có khoảng 10 con.
Người thợ săn nói:
- Ông không thấy đàn
voi, nhưng nhờ dấu chân, ông biết chúng đi qua đây. Tôi không gặp Thiên Chúa, nhưng
nhờ dấu chỉ là những điều kỳ diệu trong vũ trụ, tôi nhận biết Người.
Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, thánh Gioan đã kể lại
trải nghiệm của ngài. Khi thấy nơi an táng Đức Giêsu chỉ còn là ngôi mộ trống,
các khăn liệm và vải che mặt Người được xếp lại cẩn thận, ông tin rằng Đấng chết
trên thập giá và được an táng, đã sống lại. (Ga 20, 1-9)
6. Đức ái là hoa trái của đức
tin
Một hôm, Mẹ Têrêxa xuống phố, chợt thấy một vật gì động
đậy trong rãnh nước, Mẹ gạt bùn đi và thấy đó là một người, ông ta bị sâu bọ rúc
rỉa. Mẹ đưa ông về nhà, cả nhà phải mất ba giờ lau lọt cho ông.
Sau cùng, ông đã nói: “Tôi đã sống như một con vật trên đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một
thiên thần, được yêu mến và được săn sóc.” Rồi ông chết, trên mặt ông nở một
nụ cười mà Mẹ nói: “Tôi chưa hề thấy một nụ cười nào giống như thế”…
Không ai mà không được Thiên Chúa yêu mến và săn
sóc. Đó là Tin Mừng Đức Kitô tử nạn và phục sinh loan báo.
“Tảng đá thợ xây nhà loại
bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình
kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118,22-23)
7. Dấu hiệu của Chúa
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn
giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của
tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều
khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi
tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ
tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì
leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ…
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân
nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn
bảo:
- Tội của cộng đoàn đó
là tội vô tình.
Và ông giải thích:
- Đấng Cứu Thế đã cải
trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế.
Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và
niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu
nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
8. Ơn Phục Sinh
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng
ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật
bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng
tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị
cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị
đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc
ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ
điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ,
đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời
Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi
chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ,
bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng
bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều
mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn
nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và
trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ
bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui
tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa
cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại
tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì
trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ
biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm
cách chỉ điểm lẫn nhau.
9. Biến đổi trở thành con
người mới
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị
gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ
định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện
của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại
là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng
mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận
nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng
đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng
riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng
Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của
mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức
tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu
trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy
ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật
sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
10. Con cá nhỏ đang tung
tăng bơi lội.
Chợt nhiên, chú hỏi cá mẹ: “Mẹ ơi! Thế đại dương là đâu vậy Mẹ?” Cá mẹ trả lời đại dương là
nơi mà chú đang tung tăng bơi lội. “Nhưng
đây chỉ là ‘nước’thôi mà,” chú cá bé vùng vằng trả lời, rồi hối hả bơi đi
nơi khác tìm kiếm đại dương.
Đôi khi chúng ta đã lãng phí qúa nhiều thời gian về
một vài vấn nạn trong đời sống mà câu trả lời, phương thức giải quyết nằm ngay
trước mặt chúng ta. Thậm chí, thường khi chúng ta nhìn sự vật nhưng lãng quên
đi ý nghĩa đích thực của nó. Như chú cá nhỏ kia bơi đi tìm đại dương mà không
thể hiểu rằng đại dương chính là khối nước nó đang bơi sống chung quanh.
Hay như Mai Đệ Liên -người đầu tiên (phụ nữ đầu
tiên)- đến ngôi mộ trống nhưng không thể nào hiểu đựợc sự kiện lịch sử mà mình
vừa đươc diễm phúc và vinh hạnh chứng kiến. Người thiếu phụ họ Mai đã run rẫy
vì sợ hãi: “Người ta đã lấy xác Thầy ra
khỏi mồ và tôi không biết xác Thầy để đâu?”
Nghe như thế, cả Phêrô và Gioan, một già một trẻ, chạy
ngay đến ngôi mộ trống. Họ hiểu điều Mai Đệ Liên không thể hiểu; thấy được điều
Mai Đệ Liên không tài nào thấy: Chúa đã sống lại từ cỏi chết ngay trong ngôi mồ
trống…
Nói một cách khác, Mai Đệ Liên, Phêrô và Gioan cùng
chứng kiến chung một sự kiện, nhưng cả ba phản ứng khá khác biêt nhau.
Cũng thế, hạnh phúc đời sống chúng ta tùy thuộc cách
chúng ta nhìn sự việc. Như hai người lính già nhìn qua khung cửa bệnh viện. Một
người chỉ thấy những bức tường trắng lạnh câm. Người kia lại nhìn thấy trăng
sao hoa lá. Và còn nghe được cả tiếng chim ca.
11. Điều quý nhất
Hoàng tử của một vương quốc giàu có, đem lòng yêu
thương một cô gái đẹp, con một người làm bánh mì. Tuy bị hoàng gia phản đối,
nhưng hoàng tử nhất mực cưới nàng làm vợ. Lễ thành hôn được tổ chức rất kín đáo
và đơn giản trong đền vua, không có chư khách vị vọng nào, cũng không có đại diện
các nước lân cận.
Nhiều năm trôi qua, hoàng tử và cô gái đẹp sống những
ngày rất êm đềm hạnh phúc. Đến ngày vua băng hà, hoàng tử được lên ngôi thay
vua cha cai trị dân nước. Bấy giờ, các quan cận thần triều đình mới cho hoàng tử
biết, vì hạnh phúc của dân nước, ngài phải chọn một trong hai điều: hoặc là từ
khước ngai vàng, hoặc là phải bỏ người vợ đẹp để chính thức thành hôn với công
chúa của nước láng giềng.
Hoàng tử phân vân do dự giữa hạnh phúc cá nhân và an
ninh trật tự của cả dân tộc. Trong khi đó các quan cận thần thuyết phục hoàng tử
rằng cô vợ đẹp ấy cũng chỉ là cô con gái nhà nghèo.
Cuối cùng hoàng tử xiêu lòng và phải ngậm ngùi tâm sự
với vợ: “vì an bình và hạnh phúc của cả
dân nước, anh đành phải từ bỏ em, em hãy trở về gia đình cha mẹ em, và có thể
đem theo cái gì quí giá nhất đối với em."
Tối hôm ấy, hoàng tử và người vợ đẹp dùng bữa tối cuối
cùng tại hoàng cung. Bữa cơm chia ly thật buồn thảm, hoàng tử ăn trong nước mắt,
lòng buồn rười rượi không nói nên lời. Tuy nhiên, người vợ vẫn thản nhiên chuốc
rượu cho chồng, cạn ly này rồi lại đầy ly khác, trong khi hoàng tử lại cố uống
cho quên sầu.
Sau bữa ăn thì hoàng tử say mê mệt không còn biết gì
nữa. Lúc ấy nàng mới lấy cái mền chùm kín hoàng tử, rồi vác lên vai, kín đáo đi
lối sau, ra khỏi hoàng cung, đi về nhà cha mẹ.
Sáng hôm sau, khi đã tỉnh rượu, hoàng tử mở mắt ra
thấy mình đang ở trong căn nhà nghèo nàn của người làm bánh mì. Hoàng tử ngạc
nhiên hỏi: “Làm sao thế này? Anh đang ở
đâu đây?”
Cô vợ mỉm cười đáp: “Không phải là anh đã nói với em là phải trở về nhà cha mẹ và có thể
đem theo cái gì quí nhất đối với em sao? Mà điều quí nhất đối với em không còn
cái gì khác hơn là chính anh, hoàng đế của lòng em."
12. Người không còn ở đây
Kim tự tháp ở Ai Cập là một trong bảy kỳ quan của thế
giới cổ đại. Nhưng nó thực sự chỉ là những ngôi mộ khổng lồ chứa xác ướp của
các Pharaô Ai Cập. Tu viện Westminster, Anh quốc cũng nổi tiếng, hàng ngàn người
đến thăm nó mỗi năm, vì ở đó xác chết của các nhà văn, triết gia và chính trị
gia nổi tiếng được chôn cất.
Có một Đền thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem, cũng rất nổi
tiếng. Tuy nhiên những người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng
ngôi mộ đó, thì gặp dòng chữ ở lối vào ghi rằng: “Người không còn ở đây.”
Nó nổi tiếng vì Chúa Giêsu, Đấng đã từng được chôn cất
ở đó, đã sống lại từ cõi chết, để lại ngôi mộ trống như Người đã báo trước với
các môn đệ. Chúa Giêsu đã làm phép lạ quan trọng nhất trong cuộc đời Người, để
chúng ta nhận biết Người là Thiên Chúa. Chúng ta vui mừng trước biến cố trọng đại
và độc đáo này bằng lễ mừng Phục Sinh.
13. Chim phượng hoàng
Cố Tổng Giám mục Công giáo của bang Hartford, John
Whealon, (mất ngày 2 tháng 8 năm 1991), đã trải qua cuộc phẫu thuật ung thư dẫn
đến cắt bỏ ruột già vĩnh viễn. Trước biến cố cuộc đời này ngài đã viết những lời
rất tâm tư trong sứ điệp Phục sinh cuối cùng của mình: “Bây giờ tôi là thành viên của hiệp hội những người ung thư. Hiệp hội
đó có biểu tượng là chim phượng hoàng, một loài chim trong thần thoại Ai Cập.
Nhà thơ Hy Lạp Hesiod, người sống tám thế kỷ trước Chúa Giêsu ra đời, đã viết về
loài chim huyền thoại này trong bài thơ của mình. Khi con chim cảm thấy cái chết
gần kề (cứ sau 500 đến 1461 năm), nó sẽ bay đến Phoenicia, xây một cái tổ bằng
gỗ thơm và tự thiêu. Khi con chim bị ngọn lửa thiêu rụi, một con phượng hoàng mới
bay ra từ đống tro tàn. Vì vậy, phượng hoàng tượng trưng cho sự bất tử, sự phục
sinh và cuộc sống sau khi chết. Nó tóm tắt sứ điệp Phục sinh một cách hoàn hảo.
"Chúa Giêsu đã từ bỏ
mạng sống của Người, và từ ngôi mồ niêm kín Người đã sống lại vào ngày thứ ba.
Cuộc sống mới trỗi dậy từ đống tro tàn của cái chết. Hôm nay, chúng ta đang kỷ
niệm chiến thắng của Đức Kitô trên nấm mồ và sự chết, hồng ân của sự sống đời đời
cho tất cả những ai tin vào Người. Đó là lý do tại sao chim phượng hoàng là một
trong những biểu tượng sớm nhất của Chúa Kitô Phục Sinh.
"Phượng hoàng cũng
tượng trưng cho sự vươn lên hàng ngày của chúng ta trong cuộc sống mới. Mỗi
ngày, giống như chim phượng hoàng, chúng ta trỗi dậy từ đống tro tàn của tội lỗi
để được Chúa hằng sống và Đấng Cứu Thế phục hồi và đổi mới bằng sự tha thứ của
Người và sự bảo đảm rằng Người vẫn yêu thương chúng ta và sẽ tiếp tục ban cho
chúng ta sức mạnh mà chúng ta cần.”
* Đức Tổng Giám mục John Whealon có thể đã sống
trong một ngôi mộ u ám của sự cô đơn, đau đớn nơi thân xác và nỗi buồn tinh thần,
nhưng đức tin vào Chúa Phục sinh đã mở ra cho ngài tầm nhìn mới về cuộc sống.
14. Mũi hảo vọng
Chúng ta có thể nhớ một bài học địa lý từ trường tiểu
học, khi đó chúng ta biết rằng điểm cực phía nam của châu Phi là một khu vực mà
trong nhiều thế kỷ đã trải qua những cơn bão lớn. Trong nhiều năm, không ai biết
điều gì nằm ngoài cái mũi đó, vì không có con tàu nào đi vòng qua điểm đen đó
mà có thể quay trở lại để kể câu chuyện của nó.
Theo lời kể của người xưa, nó được gọi là “Mũi Bão”
chính vì lý do để nhắc nhở cho các thủy thủ và thuyền trưởng. Nhưng một thời
gian sau đó, một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha vào thế kỷ XVI, Vasco De Gama,
đã du hành thành công về phía Đông, quanh chính tử điểm đó và ông nhận thấy
ngoài những cơn bão dữ dội hoành hành, có một vùng biển êm đềm trải dài đến khu
vực xa hơn nữa là bờ biển Ấn Độ. Tên của mũi đất đó đã được đổi từ “Mũi Bão”
thành “Mũi Hảo Vọng."
* Cho đến khi Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết,
cái chết đã là “Mũi Bão” đối với nhân loại. Không ai biết điều gì về thế giới
mai sau cho đến khi vào buổi sáng phục sinh, Chúa Giêsu xuất hiện. Người nói:
“Vì Ta sống, nên các con cũng sẽ được sống.”
15. Chọn cái chết bằng tuổi
già
Cách đây khá lâu, có một tên hề cực kỳ thông minh phục
vụ trong hoàng cung, bị đem xử tại tòa án của vua Hồi giáo tại Baghdad. Trong
nhiều năm, anh ta chưa bao giờ làm triều đình thất vọng bất cứ khi nào họ gọi
anh ta đến. Nhưng một ngày nọ, trong một tích tắc bất cẩn, anh ta đã tỏ thái độ
xúc phạm đến nhà vua, và ông đã ra lệnh xử tử anh.
Nhà vua nói: “Tuy
nhiên, vì nhận thấy nhiều năm anh phục vụ tốt đẹp và trung thành, tôi sẽ cho
phép anh chọn cách anh muốn chết.”
“Ồ, muôn tâu đức vua”, gã hề đáp. “Tôi cảm ơn
lòng tốt của ngài. Tôi chọn cái chết…bằng tuổi già."
* Ai trong chúng ta cũng muốn sống! Nhưng điều đó chỉ
làm trì hoãn câu hỏi lớn: sau đó nữa thì sao? Chỉ có Chúa Giêsu mới có câu trả
lời, Người nói: “Tôi là sự sống lại và sự
sống. Ai tin Tôi, thì dù có chết, cũng sẽ được sống.”
16. Anh ấy luôn huýt sáo
Bạn đã nghe câu chuyện về một người đàn ông có sở
thích trồng hoa hồng chưa? Khi làm việc trong vườn hồng của mình, anh ấy luôn
huýt sáo. Đối với mọi người, dường như anh ta đang huýt sáo to hơn nhiều so với
mức cần thiết để làm cho anh ta thích thú.
Một ngày nọ, một người hàng xóm hỏi anh tại sao anh
luôn huýt sáo rất to. Người đàn ông sau đó đưa người hàng xóm vào nhà để gặp
người vợ. Người phụ nữ đó không chỉ là một người tàn tật mà còn hoàn toàn bị
mù. Bạn thấy đấy, người đàn ông huýt sáo, không phải vì khoái cảm của mình, mà
là vì lợi ích của vợ anh ta. Anh muốn người vợ mù của mình biết rằng anh đang ở
gần đây, và cô ấy không đơn độc.
* Lời loan báo “Chúa Kitô đã sống lại!” nhắc nhở
chúng ta rằng Chúa luôn gần gũi chúng ta. Kinh nghiệm về sự hiện diện của Người
củng cố con người yếu đuối của chúng ta trong cuộc đời.
17. Tôi muốn thấy sự phục
sinh của bạn
Cha Basil Pennington, một tu sĩ Công giáo, kể về cuộc
gặp gỡ mà ngài từng có với một thiền sư. Cha Pennington đang thực hiện thời
gian linh thao.
Theo chương trình, mỗi người có thể gặp vị thiền sư
là một phần cuộc cuộc tĩnh tâm. Cha Pennington nói rằng trong cuộc gặp gỡ của
mình, vị thiền sư đã ngồi đó trước mặt ngài, ông ta mỉm cười chào đón, nói khá
nhỏ và vui vẻ lắc người qua lại… Cuối cùng, vị thiền sư nói: “Tôi yêu mến Kitô giáo. Nhưng tôi sẽ không
thích Kitô giáo nếu không có sự Phục sinh. Tôi muốn nhìn thấy sự Phục sinh của
chính ngài!”
* Cha Pennington muốn nói rằng: “Với tính bộc trực của mình, vị thiền sư đã nói điều mà mọi người khác
ngầm nói với các Kitô hữu: Bạn là một Kitô hữu, bạn đã sống lại với Đức Kitô,
hãy chỉ cho tôi thấy điều này có ý nghĩa thế nào đối với bạn trong cuộc sống của
bạn để tôi có thể tin Chúa."
18. Có hi vọng
Khi Thế chiến thứ hai mới bùng nổ, một tàu ngầm Hải
quân Mỹ bị đánh chìm dưới đáy bến cảng ở Thành phố New York. Dường như tất cả
thủy thủ đã chết. Bởi không có điện và oxy lại nhanh chóng cạn kiệt.
Trong một nỗ lực cuối cùng để giải cứu các thủy thủ
khỏi chiếc quan tài thép khổng lồ này, Hải quân Hoa Kỳ đã gửi gấp một con tàu
được trang bị các thợ lặn thiện nghệ tới vị trí chiếc tàu ngầm bị chìm. Một số
thợ lặn Hải quân đã bơi qua mạn tàu xuống một độ sâu nguy hiểm trong nỗ lực cứu
hộ cuối cùng.
Các thủy thủ bị mắc kẹt nghe thấy tiếng ủng kim loại
của thợ lặn trên bề mặt bên ngoài, và họ mau mắn di chuyển đến nơi mà họ nghĩ rằng
sẽ có người cứu hộ. Trong bóng tối, họ gõ vào bản mã Morse: “Có hy vọng nào không?” Người thợ lặn ở
bên ngoài nhận ra thông báo, báo hiệu lại bằng cách gõ mạnh vào mạn ngoài con
tàu: “Có, có hy vọng.”
* Đây là bức tranh về tình cảnh thế giới của chúng
ta. Nhân loại đang bị chìm đắm trong một hoàn cảnh vô vọng, đầy đe dọa. Xung
quanh chúng ta đang cạn kiệt niềm hy vọng; chỉ một Đấng từ bên ngoài mới có thể
giải cứu chúng ta. Đó chính là Chúa Kitô phục sinh.
19. Trứng phục sinh
Một chú gà con bắt đầu hành trình dài để chào đời.
Con gà chỉ nặng hơn không khí một chút; mỏ và móng của nó hầu như không có gai.
Chú gà sắp chào đời đang ở trong thế giới nhỏ bé của riêng nó: được bảo vệ bởi
lớp vỏ cứng, được sưởi ấm bởi cơ thể của gà mái mẹ, được nuôi dưỡng bởi các chất
dinh dưỡng trong màng trứng. Nhưng rồi chú gà con bắt đầu công việc của cuộc sống.
Trong vài ngày, con gà con tiếp tục mổ và mổ cho đến khi nó có thể thoát ra khỏi
thế giới chật hẹp của mình, và bước vào một thế giới rộng lớn hơn vô song.
Nhưng để điều này xảy ra, quả trứng phải vỡ ra từng
mảnh. Cuộc sống mới đòi đập tan cái cũ. - Đó là quả trứng Phục sinh thực sự.
Không phải là một quả trứng đẹp được nhuộm và sơn với rất nhiều kiểu dáng và
màu sắc. Không phải là một quả trứng đã được luộc kỹ, không thể vỡ. Không phải
là một quả trứng làm bằng sô cô la. Quả trứng Phục sinh thực sự bị vỡ và bị phá
hủy. Quả trứng Phục sinh thực sự tồn tại trong những mảnh vỡ. Quả trứng Phục
sinh thực sự bị nứt và mở ra, mang lại sự sống mới di chuyển ra bên ngoài.
Trong nhiều thế kỷ, thế giới đã đánh dấu biến cố Phục
sinh của Chúa bằng những quả trứng. Nhưng ý nghĩa Phục sinh của quả trứng được
tìm thấy trong cuộc đấu tranh của chú gà con để giải phóng bản thân khỏi giới hạn
của nó để chuyển sang thế giới rộng lớn hơn nhiều bên ngoài nó.
Chúng ta đấu tranh để thoát ra khỏi một thế giới mà
chúng ta cho rằng đang tan rã; chúng ta bỏ qua một sự tồn tại khiến chúng ta
không hài lòng và không thỏa mãn. Lời hứa của Chúa Kitô Phục Sinh là chúng ta
có thể thoát ra khỏi thế giới nhỏ bé khép kín của mình và bước vào một thế giới
nơi hòa bình và công lý ngự trị, một thế giới được thắp sáng bởi hy vọng và được
sưởi ấm bởi tình yêu, một thế giới vượt thời gian và không gian đi vào nơi ở của
Thiên Chúa. [Từ một bài suy niệm của Tu huynh David Steindl-Rast, O.S.B.]
20. Mượn đến cuối tuần
(Chuyện vui)
Ông Giuse thành Arimathê là một người Pharisêu rất
giàu có, thành viên của Thượng Hội đồng, và là một môn đệ bí mật của Chúa
Giêsu. Chính ông đã đến gặp Philatô và xin hạ xác Chúa Giêsu xuống sau khi Người
chết. Và cũng chính Giuse là người cung cấp ngôi mộ để chôn cất Chúa Giêsu.
Có ai đó đã kéo riêng ông ấy ra một nơi và hỏi: “Giuse, đó là ngôi mộ đục bằng tay quá đẹp
và đắt tiền. Tại sao anh lại để nó cho người ta mượn chôn?” Ông Giuse đã trả
lời. “Tại sao không nhỉ? Ngài chỉ cần nó
vào tới cuối tuần thôi mà!”
THỨ HAI
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở
vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà,
Người nói: "Chào các bà." Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy.
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta
phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta."
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh
vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng
tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn
và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì
môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ
thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu."
Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn
chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
TRUYỆN KỂ
1. Phép lạ Phục Sinh
Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội
tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất
nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận
một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường
để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:
- Thầy của anh đã làm được
bao nhiêu phép lạ rồi?
Người đệ tử trả lời:
- Không thể đếm xuể được.
Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn
của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người
thực thi thánh ý Chúa.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó
có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay.
2. Hãy Về Báo Tin Cho Các
Anh Em Ta
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay
có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức
những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ
công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống
vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt
chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc
tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những
đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.
Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai
nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn
vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa,
thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở
đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế."
Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis
Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt
là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một
sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi
khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.
3. Phản ứng khác nhau về
Chúa Phục Sinh.
Một câu chuyện dụ ngôn cổ kể lại rằng: Có bốn người
đàn ông cùng đi xuyên qua một khu rừng. Bất thình lình có một bức tường cao cản
bước đường của họ. Tò mò, họ làm một cái thang để nhìn xem cái gì ở sau bức tường
đó.
Người thứ nhất trèo lên tới đỉnh thang nhìn qua, bỗng
anh la lên thích thú… Cũng giống như vậy với phản ứng của người thứ hai và ba…
Còn người thứ tư khi lên đến đỉnh thang, anh mỉm cười vì nhìn thấy những khung
cảnh thật tuyệt vời: một khu vườn xanh tươi phì nhiêu, với những cây trĩu quả đủ
các loại, dòng suối trong mát đầy cá bơi lội, và những thú hoang dã cùng những
súc vật nuôi dạo chung quanh suối và khu vườn xanh tươi. Đứng trước cảnh xuân
xanh tuyệt vời đó, anh bị cám dỗ không nói ra với ai, chỉ muốn hưởng thụ một
mình như ba người bạn trước.
Nhưng anh nghĩ đến gia đình, bạn bè, hàng xóm và
quay trở về để chia sẻ với họ niềm vui mà anh đã khám phá…
4. “Lính đã nhận tiền và làm
theo lời họ dạy...."
Nhà cầm quyền Do thái giáo đã mua chuộc lính canh mồ,
khiến họ chối bỏ sự kiện Chúa đã sống lại mà chính họ đã chứng kiến. Dĩ nhiên –
trong hôm nay – tin đồn lệch lạc này vẫn được loan truyền khắp thế giới con người...
Sự kiện đưa chúng ta đến hai vấn đề: đó là Hối lộ là chuyện muôn thuở và Tham
nhũng luôn nhằm bóp méo sự thật,
Kho tàng truyện cổ dân gian có câu chuyện của hai
nhân vật Cải và Ngò...
Hai người nông dân cục mịch có chuyện với nhau
nên... ục nhau...
Cả hai đem chuyện kiện nơi ông Lý. Cải sợ kém thế
nên lót tay ông Lý 5 đồng... Ngò thì lót 10 đồng... Xử kiện, ông Lý vẫn phạt Cải
một chục roi... Cải giơ 5 ngón tay... ý nhắc là Cải đã đưa trước 5 đồng. Thầy
Lý lấy năm ngón bàn tay trái úp lên năm ngón bàn tay phải và phán:Tao biết mày “phải”,
nhưng nó “phải” bằng hai mày...
5. Niềm vui Phục Sinh.
Vậy là đã qua ngày sinh nhật vui vẻ với nhiều lời
chúc, hoa và quả. Tôi trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm
giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực.
... Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan
biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một
ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.
Bởi lẽ:
Tình yêu đã chiến thắng.
Sự thật đã lên ngôi.
Bạn và tôi hãy xóa bỏ hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh
mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được phục sinh nơi Ngài.
Ước gì niềm vui của Đấng Phục Sinh tràn ngập hồn
con, để con đem sinh khí cho người tuyệt vọng; đem nụ cười cho kẻ khóc than;
làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa; dọi ánh sáng vào nơi tối tăm; đem niềm vui
và hạnh phúc đến mọi người; xây Thiên đàng ngay trần thế hôm nay
6. Nỗi sợ lớn nhất
Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom
củi trong rừng. Ong nghĩ về phận mình và cảm thấy chán trường. Ông ném bó củi
xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá,
không thể chịu nổi nữa! Ươc gì thần chết rước tôi đi!"
Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong
chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta
nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì?" Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai
không?”
7. Con nuôi và con ruột
Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới
chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như
nhau nên hỏi:
- Hai anh em sinh đôi phải
không?
- Không.
Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ
cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:
- Hai anh em họ phải
không?
- Không, chúng em là anh
em ruột.
- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm
lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh
của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé?
- Tại sao vậy?
- Bởi vì nếu hai anh em
không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu
tháng.
Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với
cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn
hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết
ai là con nuôi.”
8. Chiến thắng nỗi sợ
Khi con người thực sự tin vào quyền năng Chúa, thì họ
sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí họ còn có thể “vui mừng hớn
hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
Một tu sĩ dòng tên thuật lại câu trả lời đầy xúc động
sau đây của một thủy thủ sắp chết. Anh luôn sống đạo đức. Đây là điều hiếm ở
nơi các thủy thủ, và trong buổi sáng hôm đó, anh nhận của ăn đàng. Buổi chiều,
khi linh mục đến để gặp lại anh và thấy anh rất yếu, bèn hỏi:
- Con đã sẵn sàng cho
chuyến đi lớn lao chưa?
- Thưa Cha, hoàn toàn sẵn
sàng.
- Con không sợ ư?
- Sợ? Con sợ ư? Nhưng tại
sao lại sợ?
Và đặt tay lên ngực, nơi Chúa ngự đến buổi sáng, anh
nói thêm:
- Hoa tiêu đã xuống thuyền,
vậy con còn sợ gì nữa chứ?
9. Đời sống mới
Một người hát thánh ca rất nổi tiếng của Mỹ được mời
lên một con tàu chở khách, để hát cho những hành khách trên tàu nghe.
Đêm đó, tất cả những hành khách tập hợp trên boong
tàu để thưởng thức tiếng hát rất hay của anh.
Tiếng hát của anh ta làm tất cả khán giả rung động
tâm hồn. Khi anh ta vừa hát xong, thì một ông khách cao to, da đen bước đến bên
cạnh anh hỏi:
- Xin hỏi, trước đây anh
đã từng đầu quân ở Bắc Mỹ phải không? Anh có còn nhớ vào một đêm trăng sáng năm
1862, anh đứng gác trên một vọng gác không?
- Tôi nhớ. Anh ta đáp. Nhưng trong lòng hơi lo lắng vì không hiểu ý của ông
ta muốn gì.
- Phần tôi, tôi còn nhớ
rất rõ. Người đó nói. Lúc đó tôi đang ở bên đối địch với anh. Tôi nhìn thấy anh
đứng trên vọng gác. Anh ở chỗ sáng. Tôi ở trong tối, nhất cử nhất động của anh
tôi đều thấy rõ. Khi tôi định lên đạn, thì nhìn thấy anh đang chuẩn bị cất tiếng
hát. Thật lòng tôi muốn bắn anh ngay nhưng tự nhiên có cái gì đó cản lại, chờ
cho đến khi anh hát xong thì tôi sẽ bắn. Bài hát hôm đó cũng chính là bài hát
anh vừa mới hát. Những lời trong bài hát ấy đã khiến tôi rất xúc động. Thế là
tôi không còn can đảm để có thể bắn anh nữa."
Nghe tới đây, người hát thánh ca không cầm được nước
mắt. Anh giang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy ông khách.
Một bài hát đã đánh đổi được một mạng người, làm cho
kẻ thù trở thành bạn bè. Việc đó quả là một điều kì diệu.
Trên chiến trường trước kia, họ là kẻ thù của nhau,
nhưng bây giờ họ đã trở thành bạn bè.
Việc Chúa Phục sinh đã làm cho các môn đệ và cả
chúng ta trở thành anh em của Ngài. Đây là một hồng ân. Hãy tạ ơn Thiên Chúa và
Chúa Giêsu muôn đời.
10. Yêu đến cùng trong bí tích Thánh Thể
Đôi
vợ chồng kia, sau ngày mới cưới, rủ nhau vào Vườn Bách Thú dạo chơi. Cô cậu tới
một gốc cây ngồi nghỉ chân, chàng nói với nàng:
- Có anh đây đời em không còn gì phải sợ.
- Anh đã hứa thì luôn phải giữ lời, đừng khi nào bỏ
em nhé, em chỉ sợ mất anh thôi.
- Không đời nào.
Anh
vừa dứt lời thì nghe tiếng từ máy phóng thanh trong Sở Thú: “Alô, Alô, bà con nghe cho rõ: có con cọp mới
đưa vào vườn thú, vì nó quá mạnh, nên xổng chuồng chạy ra ngoài. Bà con phải liệu
mà tìm chỗ tránh an toàn.” Thế là anh chàng vọt lên cây cao để cô nàng dưới
gốc cây run rẩy mặt tái mét, và kêu lên:
- Anh ơi kéo em lên với.
- Anh sợ lắm không xuống được, cọp đến gần rồi kìa,
anh mà xuống nó chộp mất!!?
Chúa
Giêsu yêu ta thì khác hẳn, Ngài nói: “Thầy
đã yêu là yêu đến cùng!” (Ga 13,1). Lời hứa này Ngài nói trước lúc lập Bí
tích Thánh Thể, để cho tất cả những ai khi được tham dự Tiệc này thì không còn
gì phải sợ hãi!
THỨ BA
Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than
khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt
xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi:
"Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi
và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?"
Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu
đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao
mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông,
nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để
tôi đến lấy xác Người." Chúa Giêsu gọi: "Maria." Quay mặt lại,
bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa
Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi
báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha
các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con."
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng:
"Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy."
TRUYỆN KỂ
1. Giêsu, mục đích cuộc đời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su hỏi Ma-đa-lê-na: “Chị tìm gì?" Xác định mục đích cuộc đời là rất quan trọng. Nếu
không có mục đích, ta không biết mình đi đâu, làm gì. Thánh Bê-na-đô ngày nào
cũng tự hỏi mình: “Bê-na-đô, ngươi là ai?
Ngươi đến đây làm gì?"
Chúa Giê-su luôn hỏi ta câu đó. Người đã hỏi hai môn
đệ đầu tiên: “Các anh tìm gì?"(x.
Ga 1, 35-39) Hôm nay Người lại hỏi Mađalêna: “Chị tìm gì?" Người hỏi ta hằng ngày: “Con tìm gì?" Ta có trả lời được không?
Xác định được mục đích ta sẽ không lẫn lộn, dừng lại
ở những gì không phải mục đích. Ma-đa-lê-na chỉ đi tìm Chúa. Bà nhất quyết phải
gặp được Chúa. Dù gặp thiên thần sáng láng tốt lành bà cũng không vui nên vẫn
khóc và đi tìm. Vì Chúa mới là mục đích duy nhất. Vì Chúa mới là sự thiện tuyệt
hảo. Vì Chúa mới là sự mỹ tuyệt đối. Chỉ có Chúa mới thỏa mãn mọi khát khao sâu
thẳm trong tâm hồn.
2. Niềm tin Phục Sinh
Trong một đêm tao ngộ do một nhóm thân hữu tổ chức tại
Sydney, Australia, vào một tối Chúa Nhật cuối tháng 4/2001, nhạc sĩ Vũ Thành
An, tác giả của những bài ca không tên bất hủ, đã xuất hiện không như một nhạc
sĩ, mà như một nhà truyền đạo.
Ở cao điểm của đêm tao ngộ, nhạc sĩ Vũ Thành An đã
giới thiệu và trình bày những tác phẩm mà ông gọi là Những bài ca nhân bản và
thánh ca. Như ông đã giải thích, những bài ca nhân bản đề cao tình người và những
bài thánh ca ca tụng tình yêu Chúa này nói lên chính cuộc đổi đời của ông. Những
dòng tâm sự và giọng hát của tác giả đã được khán thính giả đón nhận như một
bài giảng thuyết về mầu nhiệm Phục Sinh.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục
Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn
ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng
cũ, họ gặp Ngài.
Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở
về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ
giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng
khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
3. Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục
Sinh
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Trong thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ
Viler Maria thường có thói quen đi bách bộ vào mỗi buổi chiều. Dọc theo lối đi
của thi sĩ có một bà già ngày ngày ngồi ăn xin. Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín,
dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ
một dấu hiệu biết ơn nào.
Ngày kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ,
cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn
xin mà chẳng cho bà chút gì. Ðọc được tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ
không phải chỉ đưa bằng đôi tay."
Qua ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa
hé nở trên tay. Dĩ nhiên cô gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng
cô rộn lên với tư tưởng: "Ôi! Thi sĩ
quá quan tâm đến mình biết bao." Nhưng không. Thi sĩ đã đến trao đóa hồng
đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra là bà già bấy
lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh. Bà vội vàng đứng dậy, bước tới cầm
tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ. Rồi với cử chỉ nâng niu, bà ôm chặt lấy
đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.
Suốt một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin
hằng ngày cùng với vẻ câm nín và vô hồn như trước kia. Người bạn gái hỏi thi sĩ
xem suốt tuần qua không xin ăn thì bà sống bằng gì. Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng."
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật
lại cho chúng ta câu truyện của một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng
bỗng nhiên nhận được món quà trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường
được, đó là niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh.
4. Yêu để tin và làm chứng
Chuyện kể rằng: sau khi Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y
Fx. Nguyễn Văn Thuận bị bắt một thời gian, người ta không còn cách nào liên lạc
được với ngài. Ngài đã đi vào cõi biệt vô âm tín. Vì thế, giáo dân nghĩ là ngài
đã chết trong tù, nên nhiều người có lòng quý trọng, yêu mến và cảm phục ngài bởi
nhân đức anh hùng, nhất là lòng đạo đức, nhân từ, hiền hậu và yêu thương, vì thế
họ đã diễn tả lòng biết ơn và kính trọng của họ với ngài bằng cách: cầu nguyện
và xin lễ cầu hồn cho ngài.
Tuy nhiên, một thời gian sau, ngài được trả tự do và
xuất hiện trước công chúng... Tin vui mừng này loan đi cách nhanh chóng, vì thế,
chẳng mấy chốc, nhiều người đã biết được tin và họ không ngừng tạ ơn Chúa,
trong số những người vui mừng nhất, có lẽ phải kể đến, đó chính là thân mẫu Đức
Hồng Y.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy cảnh
tang tóc, sầu thương, u buồn, tuyệt vọng đang bao phủ tâm trạng Maria Madalena!
Bà buồn vì tình cảm mà bà dành cho Đấng đã yêu thương và cứu thoát bà khỏi chết,
thoát ra khỏi con đường tội lỗi, ban những lời dạy tuyệt vời..., hơn nữa, sự hy
vọng của bà vào Đấng đã chữa lành mọi bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại, hóa
bánh ra nhiều... sẽ đem lại cho bà một chỗ dựa vững chắc... Nhưng sau những trận
đòn chí mạng, những mệt nhọc của chặng đường lên Gôngôtha, và cuối cùng là cái
chết trên thập giá và được an táng trong mộ như bao nhiêu người khác... đã làm
cho bà thất vọng. Sự tuyệt vọng ấy đi đến đỉnh điểm là ngay cả xác chết rồi mà
cũng còn bị mất... Như thế, đặt mình vào tâm trạng của bà, chúng ta mới thấy được
sự xót xa buồn tủi là dường nào!
Tuy nhiên, giữa cảnh sầu thương tang tóc ấy, đã bừng
lên một niềm vui vô đối, không gì có thể sánh bằng, đó là Tin Mừng Phục Sinh.
Phần thưởng của Đức Giêsu dành cho bà chính là cho bà thấy Ngài và Ngài đã gọi
tên bà một cách thân mật, ngọt ngào: “Maria."
5. Chúa gọi tên
Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để
chúng ta biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ
giúp chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa Sống
lại cùng đi...
Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố mẹ rất lo...
Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn
con... Xe đạp của bạn con bị hỏng.
- Nhưng con đâu có biết
sửa xe?
- Đúng ạ! Nhưng con dừng
lại để cùng khóc với bạn ấy.
6. Cần biết tên từng người.
Dù bà Maria không còn thấy gì và không nhận ra ai nữa
cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại, “Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng
Ta...." Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên
chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không?
Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến thực tập tại một
trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi
từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại
trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh tụ tập xung quanh.
Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà
anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. Tên người
thật quan trọng.
7. Chỉ cần ba ngày
Người ta kể khi thấy chồng gần đất xa trời, bà De
Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, nhờ ông tìm cho người chồng sắp quá
cố của bà là Tổng Thống Charles De Gaulle đã về hưu một nơi an nghỉ cuối cùng.
Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi. Trước mặt là một thung lũng tuyệt
đẹp. Ông nói:
- Đây là nơi an nghỉ rất
xứng đáng cho người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs. (Một số tiền rất lớn...nếu tính theo thời giá hôm nay thì khoảng
gần 5 tỷ đồng VN)
Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:
- Ông nhà thật xứng đáng
được hưởng sự ưu đãi đó.
Vừa nghe tới đó bà vội vàng đáp lại một lời làm cho
ông cụt hứng:
- Nhưng ông ấy chỉ cần 3
ngày thôi mà!
(Ý bà muốn nói Chúa Giêsu chỉ cần ngôi mộ có ba ngày
thôi cho nên đâu cần phải quá tốn phí cho một thi hài, dù thi hài đó là thi hài
của một vị tổng thống!)
8. Chúa là tất cả
Đối với Maria, Chúa Giêsu là tất cả. Mất Chúa Giêsu
cả thế giới như sụp đổ. Gặp lại Chúa là có lại tất cả.
Người ta kể lại vào hồi Đức Quốc xã giam giữ những
người có đạo, có một người đàn bà rất nổi tiếng tên là Archengette. Bà
Archengette bị giam cùng với hàng trăm ngàn người khác. Có lần bà đã kể lại: Một
buổi chiều kia, một cô bạn tù ghé vào tai tôi se sẽ hỏi:
- Chị có biết ngày mai
là ngày gì không? Mai là lễ Phục Sinh đấy chị ạ.
Tôi ngạc nhiên nói bâng quơ:
- Đã đến lễ Phục Sinh rồi
sao?
Lễ Phục Sinh là ngày lễ trọng, và là ngày vui của
toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã sống lại, để mở cánh cửa cuộc sống trường
sinh cho con người, thế mà chúng tôi lại bị giam giữ trong căn nhà tù này, xa
cách mọi người thân yêu, cô đơn, đau khổ...Tôi đi đi lại lại trong căn nhà chật
hẹp, hôi hám. Đầu óc thì còn đang theo đuổi những ý tưởng vừa mới xuất hiện. Mặt
mũi buồn so.
Bỗng tôi nghe thấy có tiếng kêu lớn, phá tan bầu
không khí im lặng đang nặng nề đè trên chúng tôi. Tiếng kêu ấy thế này: “Chúa Kitô đã sống lại."
Tôi kinh ngạc nhìn cô bạn tù. Đôi mắt cô long lanh.
Hai hàng giọt lệ đang từ từ chảy ra, để cho chúng lăn trên đôi gò má cao nhô
lên giữa khuôn mặt xanh xao gầy ốm của cô. Thế rồi bỗng khuôn mặt ấy tươi hẳn
lên.
Tiếp đó từ trong các phòng khác của nhà tù, tôi đều
nghe thấy tiếng trả lời, tưởng như tiếng vang vọng không ngừng:
“Chúa Kitô đã sống lại...
Chúa Kitô đã sống lại."
Những tiếng phát ra từ trong các phòng nhà tù đó, đã
trở thành một điệp khúc như của một bài ca chiến thắng.
Bọn lính canh
tù bực tức đến tột độ. Gương mặt của chúng hằm hằm giận dữ. Rồi chúng mở cửa
phòng chúng tôi đang ở, nhào vào, lôi cô gái bạn tù ốm yếu của chúng tôi đi.
Bốn ngày sau, cô được trả trở về phòng với chúng
tôi. Cô bé của chúng tôi thật là đáng thương. Đôi má của cô đã hóp, sau 4 ngày
lại càng hóp thêm. Gương mặt xanh như tầu lá. Lúc sau nhờ cô kể lại chúng tôi mới
biết, cô đã bị nhốt trong một căn phòng chật hẹp tối tăm và phải nhịn đói suốt
4 ngày nay. Tôi còn nhớ thật rõ lúc chạy ra cửa để dìu cô vào phòng, cô thều
thào nói với tôi:
- Chị ơi, em đã loan báo
sứ điệp Phục Sinh trong nhà tù này. Tất cả mọi chuyện khác đều không quan trọng.
Nếu ngày xưa đã có những người như Mađalêna, đã có
cô bé can đảm dám loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người thì ngày nay cũng
phải có những người can đảm như Maria Mađalêna, như cô bé trong nhà tù! Thế giới
hôm nay, một thế giới càng ngày càng trở nên xa lạ với Chúa Giêsu đang cần những
con người như thế.
THỨ TƯ
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến
một làng tên là Em-mau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói
với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với
nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên
không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi
với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ
ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa
xảy ra trong thành mấy ngày nay." Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các
ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một
vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và
toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp
Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn
hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi.
Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến
mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện
ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy
mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp."
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin
các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi
mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên
tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến
làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép
Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp
tàn." Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc
lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn
Người biến mất.
Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng
sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho
chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một
tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã
sống lại, và đã hiện ra với Simon." Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy
ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
TRUYỆN KỂ
1. Cộng đoàn Emmau của cha
Phêrô.
Cộng đoàn Emmau khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở
vòng đai của thánh phố Paris trong đệ nhị thế chiến. Ban đầu qui tụ những người
đầu tiên là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc
các tù nhân vừa được phóng thích, nói chung là tất cả những người thiếu thốn khốn
khổ trong cuộc sống hằng ngày...
Đấng sáng lập là cha Phêrô (Pierre), là một nhân vật
sau này đầu thế kỷ XXI được nhân dân Pháp yêu mến nhất trong các nhân vật nổi bật
của nước Pháp. Cha Phêrô thường nói với những người vừa đặt chân đến cộng đoàn:
“Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn
để giúp đỡ những người khác...." Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người
khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn mình trở nên hữu ích cho người
khác. Đó là sự khích lệ mà cha Phêrô luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả
hy vọng, một cái nhìn rất nhân bản, khuyến khích mọi người bất hạnh luôn vươn
lên trong cuộc sống.
Hơn cả một ý nghĩa nhân bản, khi cha Phêrô đặt tên
Emmau cho cộng đoàn, ngài và cộng đoàn nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Đức
Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Nhận ra Chúa đồng hành với môn sinh trên đường
Emmau. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Đức Giêsu đã
hiện đến mang lại niềm tin cho họ trong con đường Emmau cuộc đời. Cha Phêrô và
các anh em cộng sự đã tìm gặp Đấng Phục Sinh trong lữ hành cuộc đời, như hai
môn đệ trên đường Emmau, đó là tất cả hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất
mát ê chề của cuộc sống, nhưng vẫn tiến bước về Giêrusalem với niềm hân hoan
Chúa Phục Sinh hiện diện.
2. Chúa hiện diện hôm nay
Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt
sắng. Khi được hỏi tại sao bà dùng một thí dụ để giải thích:
Một hôm tôi nhận được một
bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất kỹ và đọc đi đọc lại 5 lần.
Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng là vì tôi biết
đó là lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyrian).
“Để làm sống lại đức tin
đã bị lung lay, người môn đệ cần có 3 yếu tố: Thánh kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng
đoàn sống đức tin…Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta
cần kiểm điểm lại xem chúng ta có thái độ nào đối với Lời Chúa. chúng ta sống
Bí tích Thánh thể ra sao, chúng ta hiệp nhất với cộng đoàn tin xưng đức tin thế
nào”
3. Linh mục thợ
Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách,
chúng ta hãy chạy đến với Thánh Kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin
để xây dựng lại. Thánh Kinh, Thánh Thể và cộng đoàn đức tin là ba cột trụ vững
chắc để nâng đỡ niềm tin của chúng ta.
Jacques Loew là người phu khuân vác ở bến tàu. Anh
là đảng viên của đảng Lao Động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm anh nảy ra ý định thử đi
tìm hiểu điều mà những người Công giáo vẫn tin tưởng là có thực đó là “có một
Thiên Chúa." Anh muốn biết điều đó có thực hay không ? Muốn là làm. Anh
tìm đến một dòng khổ tu và nói rõ ý định của mình với cha bề trên của dòng. Với
nụ cưới thật tươi trên môi, cha bề trên rất cảm động nói với anh những lời này:
- Anh đã đi đúng đường rồi
đó, anh cứ tiếp tục đi đi. Anh hãy coi tu viện đây như là nhà của anh.
Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện và nói:
- Đây là nhà nguyện, nếu
anh muốn xin mời anh vào.
Lúc ấy nhà nguyện đang có Thánh lễ. Jacques Loew đi
vào. Anh quì xuống như bao người khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người
khác đã thay đổi vị thế, khi ngồi, khi đứng. Đến lúc đã mỏi gối, anh ngồi lên
thì lúc đó lại là lúc mọi người khác trong nhà nguyện đều quì sụp xuống vì đó
là lúc truyền phép Mình Máu Thánh Chúa.
Đến lúc rước lễ, hầu như tất cả đều lên rước lễ, trừ
anh thì cứ ngồi lại tại chỗ. Anh nghĩ thầm trong lòng: Mình thật không giống
ai.
Ngồi ngó những người lên rước lễ đi xuống, anh nhận
ra có rất nhiều khuôn mặt khác nhau: người học thức, kẻ có địa vị cao ngoài xã
hội, và dĩ nhiên cũng có cả những người bình dân nữa. Jacques Loew tự hỏi: Sao
những người này mê tín thế ? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu kia để làm gì ? Họ
có điên không ?
Nhưng rồi ý tưởng trên đây của Loew đã bị một tư tưởng
khác tấn công: không lẽ tất cả những người học thức, có địa vị ngoài xã hội hơn
mình, họ lại điên, còn mình thì lại khôn sao ? Hay là ngược lại, tôi điên ?
Thế rồi, Jacques Loew bắt đầu đi tìm hiểu về phép
Thánh Thể với cha bề trên. Sau một thời gian, anh đã tâm sự: “Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ
Emmau: “Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh." Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới
biết là chúng tôi là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Có những người mà trước
đó gặp ở ngoài đường, chúng tôi dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc
thánh, chúng tôi thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp
Chúa Kitô nơi tôi, bởi chúng tôi cùng tin Tin Mừng, cùng lãnh nhận một của ăn
là Mình và Máu Chúa Kitô."
Sau này Jacques Loew đã trở thành một linh mục. Ngài
đã hoạt động rất tốt trong phong trào Linh Mục thợ.
4. Cà rốt, trứng hay cà phê?
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ
vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống
thế nào. Có những lúc quá mệt mỏi vì vật lộn với cuộc sống, cô đã muốn chối bỏ
cuộc đời đầy trắc trở này.
Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái
than thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to.
Khi ba nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi
riêng ra và đun lại để chúng tiếp tục sôi, không nói một lời.
Người con gái sốt ruột không biết cha cô đang định
làm gì. Lòng cô đầy phiền muộn mà ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha
tắt bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng tô khác nhau.
Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. “Mềm lắm cha ạ”, cô gái đáp. Sau đó, ông
lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.
- Điều này nghĩa là gì vậy
cha – cô gái hỏi.
- Ba loại thức uống này
đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ
lại phản ứng thật khác.
Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc,
nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm.
Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ
mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên
trong trở nên đặc và chắc hơn.
Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của
chúng trở nên rất đậm đà.
Người cha quay sang hỏi cô gái: “Còn con? Con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.”
- Con sẽ như cà rốt, bề
ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu
đuối chẳng còn chút nghị lực?
- Con sẽ là quả trứng,
khởi đầu với trái tim mỏng manh và tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan
vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín chắn và cứng cáp hơn.
- Hay con sẽ giống hạt
cà phê? Loại hạt này không thể có hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ.
Khi nước nóng nhất thì cà phê mới ngon.
Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi
tệ nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những
thử thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Nhờ sống Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, ta sẽ nhận
ra Chúa phục sinh hiện diện nơi những người anh em mà chúng ta gặp gỡ hàng
ngày, như hai môn đệ Em-mau xưa.
Nhờ Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có
cái nhìn lạc quan trước những biến cố dưới con mắt người đời bị coi là xui xẻo,
mất mát, đau thương, bất hạnh…, bởi chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh hiện diện
qua các biến cố ấy.
Xin cho chúng ta biết gắn bó với Lời Chúa và kết hiệp
mật thiết với Bí Tích Thánh Thể. Nhờ đó chúng ta đủ sức mạnh vượt qua mọi thử
thách trong cuộc đời.
5. Điều khinh điều trọng
Nước Hàn, nước Nguỵ muốn lấn đất của nhau, Tử Hoa tử
đến ra mắt vua Chiêu Hy nước Nguỵ, thấy vua có dáng lo buồn, mới hỏi rằng: “Giá bây giờ, cả bao nhiêu nước họp nhau, đính
ước một câu và khắc câu ấy ở trước mặt vua rằng: “Tay trái lấy được thiên hạ
thì hỏng mất tay phải; tay phải lấy được thiên hạ thì hỏng mất tay trái.” Hỏng mất một tay mới lấy được thiên hạ, thế
thì nhà vua có bằng lòng lấy thiên hạ không?”
Vua Chiêu Hy nói: “Như thế ta chẳng lấy thiên hạ làm gì.”
Tử Hoa Tử thưa: “Nhà
vua nói phải lắm. Cứ xem như thế, hai cánh tay ta trọng hơn cả thiên hạ, thì
cái thân ta trọng hơn hai cánh tay ta lại đáng trọng hơn biết là bao! Nước Hàn
so với cả thiên hạ bé nhỏ thấm vào đâu! Thế mà sao chỉ vì lo không tranh được một
miếng đất nhỏ ấy mà nhà vua đến nỗi ủ dột, buồn rầu, mất ăn mất ngủ, thương
sinh quá như vậy?”
Vua Chiêu Hy nói: “Phải lắm. Người dạy bảo quả nhân cũng nhiều, nhưng chưa từng thấy ai dạy
bảo quả nhân được những lời như thế.”
Tử Hoa Tử bàn như thế mới thực là người biết điều
khinh, điều trọng ở đời vậy. (Cổ học tinh hoa)
Được dựng nên theo hình ảnh Chúa nên tự đáy sâu tâm
hồn người ta luôn hướng về sự sống Thiên Chúa, một sự sống siêu vượt trên mọi
giá trị trần tục mà chỉ nơi đó người ta mới tìm được sự no thoả.
6. Ôi kẻ khờ dại chậm tin
Các xung đột trong tâm hồn hai môn đệ Emau có thể đọc
thấy trong cuộc sống con người hôm nay mà ĐHY Fulton Sheen khéo léo trình bày
trong “Con đường về trời”:
“… Họ thay đổi triết lý
sống như thay áo. Ngày thứ hai, họ phác hoạ vài nét duy vật. Ngày thứ ba, họ đọc
một cuốn sách bán chạy nhất tuần, rồi vất vả bỏ chủ thuyết cũ vẽ ra chủ thuyết
mới, chủ thuyết duy tâm. Ngày thứ tư, chủ thuyết quốc xã điên khùng. Ngày thứ
năm, căn bản mới của bến bờ tự do. Ngày thứ sáu, thay đổi ý kiến, sau khi nghe
phát thanh một chương trình tâm lý, họ quyết định chọn ông Freud làm thầy dậy.
Ngày thứ bảy, họ uống rượu thật nhiều để quên đi mọi hướng đi đã phác hoạ. Và
ngày chủ nhật, họ lấy làm ngạc nhiên và suy nghĩ tại sao lại còn có những con
người ngu xuẩn rủ nhau tới nhà thờ?” (bản
dịch của lm. Thomas Tuý O.P.)
Phải chăng tôi cũng đang loay hoay, vất vả với chính
mình?
Được dựng nên theo hình ảnh Chúa, ngoài Chúa ra tôi
muốn tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác? Ôi kẻ khờ dại chậm tin!
7. Chúa đồng hành cùng ta
Sau thánh lễ an táng ĐGC Gioan Phaolo 2, Báo Tuổi Trẻ
đã trích lại lời bình luận của đài BBC: “Đức
Giáo Hoàng đã từng chu du một đoạn đường dài gấp 30 lần chu vi trái đất, nhưng
chuyến đi cuối cùng của ngài lại ngắn nhất.”
Mặc dù chuyến đi cuối cùng của ngài thật ngắn, nhưng
ngài vẫn tiếp tục đồng hành với hàng triệu người đang có mặt tiễn đưa ngài, và
đồng hành với hàng tỉ người trên thế giới đang khóc thương ngài.
Vì thế, trong bài giảng lễ an táng, Đức Hồng Y
Ratzinger đã nói: “Vào ngày Chúa Nhật Phục
Sinh, tại quảng trường, nơi khung cửa sổ thư phòng, Đức Giáo Hoàng đã ban phép
lành lần cuối cho thành Rôma và toàn thể thế giới, thì ngay lúc này, ngài cũng
đang đứng bên cửa sổ trên thiên quốc, bên cạnh Thiên Chúa, và đang chúc lành
cho chúng ta.”
Chúa Kitô cũng luôn đồng hành với chúng ta trên mọi
nẻo đường cuộc sống và tiếp tục chúc lành cho chúng ta trên cuộc hành trình tiến
về thiên quốc.
8. Bức họa của Rembrandt
Trong các tác phẩm của danh họa Rembrandt, có một bức
rất ấn tượng vẽ cảnh Đức Giêsu đang ngồi cùng bàn với hai môn đệ Emmau. Điều
gây ấn tượng là vẻ mặt sung sướng vô ngần của hai môn đệ lúc họ nhận ra Chúa. Bức
họa nổi tiếng này được đặt trong một nhà bảo tàng, và có một chuyên viên phụ
trách giải thích ý nghĩa của nó cho các khách tham quan.
Lần kia một cặp vợ chồng vừa có đứa con duy nhất bị
chết vì tai nạn. Họ buồn quá không biết làm gì nên cùng nhau đến nhà bảo tàng ấy
để giải khuây. Họ cũng được người hướng dẫn ấy dẫn đến bức họa này. Ban đầu,
hai vợ chồng chẳng buồn để ý tới những lời giải thích. Nhưng dần dần họ bị cuốn
hút vào. Và cuối cùng, khi người hướng dẫn dứt lời thì họ tâm sự với người hướng
dẫn: "Chúng tôi đã nghe nói về bức họa
này nhiều lần, nhưng chưa lần nào chúng tôi được nghe người nào trình bày một
cách hấp dẫn như ông. Chúng tôi thực sự xúc động."
Người hướng dẫn đáp: "Thực ra, không phải lần nào tôi cũng trình bày một cách xác tín
như vậy đâu. Có lần tôi đã nói một cách rất hời hợt qua loa."
Rồi ông ta kể:
"Ba năm trước, vợ tôi bị ung thư, sức khoẻ cạn kiệt dần, rồi nàng chết một
cách hết sức đau đớn. Tôi không thể nào chấp nhận nỗi các chết này, vì nàng là
một người rất tốt, không đáng bị chết như thế. Tôi tưởng như cả thế giới sụp đổ.
Tim tôi như vỡ tan. Nhưng vì bổn phận, tôi vẫn phải đến làm việc ở nhà bảo tàng
này. Tôi giải thích ý nghĩa các bức họa một cách hết sức máy móc, vô hồn. Thế rồi
một hôm, tôi chợt hiểu ra rằng bức họa này không chỉ liên can đến hai người môn
đệ tuyệt vọng này, mà cả đến tôi nữa. Cũng như hai ông ấy, tôi đã tuyệt vọng và
trở thành một người lữ hành cô đơn. Dù tôi là một người tín hữu, nhưng đối với
tôi Đức Giêsu chỉ là một nhân vật mờ mịt trong những trang sách Tin Mừng. Tuy
nhiên hôm đó tôi cảm thấy Ngài đang hiện diện thực sự bên cạnh tôi, Ngài ở bên
tôi như một người bạn hiểu rất rõ mọi nỗi khổ đau của loài người. Từ lúc đó
"mắt tôi mở ra, lòng tôi cháy bừng lên" như hai môn đệ ấy. Tôi đã tìm
lại được hy vọng và lẽ sống cho đời mình. Bởi vậy từ đó trở đi, mỗi khi tôi kể
câu chuyện Emmau là tôi kể về chính cảm nghiệm của mình."
Cặp vợ chồng không cầm được nước mắt: "Chúng tôi cũng thế. Chúng tôi đã ‘mở
mắt ra và thấy lòng mình cháy bừng lên’. Hôm nay chúng tôi cũng tìm lại được hy
vọng và lẽ sống cho đời mình, vì biết rằng Đức Giêsu phục sinh đang thực sự ở
bên cạnh chúng tôi." (Flor McCarthy)
Hồi
giáo Mật tông có một câu chuyện kể về một đêm kia, một người đánh mất chùm chìa
khóa ở phía đoạn đường tối om trên phố. Anh ta băng qua đường đến tận cột đèn đối
diện, và dưới ánh đèn bắt đầu đi tìm chùm chìa khóa.
Khi
một người bạn hỏi, tại sao lại tìm chìa khóa quanh cột đèn mà không tìm ngay
chính nơi anh ta đánh mất.
Anh
ta đáp: “Tôi tìm nơi đây vì có nhiều ánh
sáng hơn."
Hai
môn đệ trên đường đi Emau, vừa đi vừa nói chuyện với nhau cách buồn bã, Chúa
Giêsu bước tới, cùng đi với họ, và hỏi: "Các
ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?"
Họ thưa:
"Sự việc liên can đến ông Giêsu quê
thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ,
trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của
chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng
tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel."
Bấy
giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm
tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy
rồi mới được vinh quang sao?"
THỨ NĂM
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc
đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng
bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các
con! Này Thầy đây, đừng sợ." Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma.
Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các
con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma
đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây." Nói xong, Người đưa tay
chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi:
"Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và
một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn
Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các
con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong
sách tiên tri và thánh vịnh." Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh
Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ
phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải
nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn
dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những
điều ấy."
TRUYỆN KỂ
1. Giêsu, điểm tới của Thánh
Kinh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu có ai đưa cho ta một bản đồ bí mật chỉ chỗ cất
giấu kho tàng, chắc chắn ta không ngần ngại bỏ công sức nghiên cứu tìm tòi cho
ra con đường dẫn đến kho tàng đó. Thánh Kinh chính là tấm bản đồ chỉ cho ta chỗ
kho tàng chôn giấu trong ruộng. Thánh Kinh cho ta biết kho tàng cao quí nhất là
Chúa Giê-su. Sao ta không cất công nghiên cứu kỹ lưỡng tấm bản đồ quí giá này để
tìm cho ra kho tàng Giê-su?
Nếu có ai bảo ta Chúa hiện ra ở chỗ này, Mẹ hiện ra ở
chỗ nọ, chắc chắn ta không ngại bỏ công sức, thời giờ và tiền bạc để đến kính
viếng nơi linh thiêng in dấu chân Chúa, thấp thoáng tà áo Mẹ. Thánh Kinh là nơi
Chúa tỏ mình, sao ta không chịu đến chiêm ngưỡng dung nhan thực sự của Chúa?
Thánh Giê-rô-ni-mô quả quyết: Ai không biết Thánh
Kinh là không biết Chúa Giê-su.
2. Ðau khổ là một hồng ân
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong ánh sáng Phục Sinh, chúng ta được mời gọi để
nhìn vào nỗi cay cực khốn khổ hiện tại của chúng ta. Trong huấn thị về việc làm
cho chết êm dịu công bố năm 1990, Bộ Giáo Lý Ðức Tin đã viết:
"Sự đau khổ, nhất
là trong những giây phút cuối đời, mang một ý nghĩa đặc biệt trong chương trình
cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thực, đau khổ là tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa
Kitô và kết hợp với Hy Tế cứu rỗi của Ngài. Hy Tế mà Ngài đã dâng hiến như của
lễ đẹp lòng Chúa Cha."
Mẹ Têrêsa Calcutta thì coi đau khổ như một hồng ân của
Chúa, Mẹ nói:
"Tôi tự hỏi thế giới
này sẽ ra sao, nếu không có những người vô tội đang đền bù cho tất cả chúng ta.
Mỗi ngày, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được lặp lại trong cuộc sống của những người
đau khổ. Ðau khổ không phải là một trừng phạt. Ðau khổ là một hồng ân. Chính vì
thế cần có tâm hồn trong sạch để nhận ra bàn tay Chúa, để cảm nhận tình yêu của
Ngài trong đau khổ của chúng ta."
Ước gì ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu dọi
vào tăm tối của những đau khổ thử thách của chúng ta, để trong mọi sự chúng ta
luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa và làm chứng cho tình yêu ấy bằng thái độ
phó thác và yêu thương.
3. Thầy Ðây Ðừng Sợ
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Vào một ngày nọ, từ mảnh vườn nhỏ nằm phía sau nhà, bỗng
có một tiếng khóc của cậu con trai duy nhất mới 5 tuổi khiến cho cha mẹ cậu lo
lắng. Họ vội vàng bỏ dở công việc chạy ra ẵm lấy cậu bé. Tiếng khóc của cậu nức
nở đầy tức tối và tiếc nuối. Vừa khóc, cậu vừa chỉ vào con rùa nằm bật ngửa bất
động: con rùa thân yêu của cậu bé đã chết, làm cho cậu bé khóc một hồi rồi mới
dỗ dành được. Họ hứa sẽ cử hành đám tang con rùa thật trọng thể. Cha cậu sẽ lấy
chiếc hộp sắt đẹp nhất mà bấy lâu nay gia đình đựng bánh kẹo để làm hòm đựng
con rùa. Sau khi chôn cất xong, mẹ cậu sẽ làm một bữa tiệc để mời bạn bè của cậu
và những người đã dự đám tang con rùa.
Tiếng khóc đã biến mất, thay vào đó là một nụ cười.
Ðể trấn an cậu, người cha lại hứa hẹn thêm: "Ba
sẽ dẫn con ra phố và mua cho con chùm bong bóng và những quả bóng tròn to tướng,
mặc sức con vui đùa với chúng bạn" Ðang khi cậu mỉm cười sung sướng với
giấc mơ của mình, thì trước sự ngạc nhiên của mọi người, chú rùa đã lật sấp trở
lại rồi từ từ bò đi. Thấy chú rùa như vậy, cậu bé vội hét lên: "Ba ơi, chúng ta giết quách con rùa đi
cho rồi."
4. Chúa Phục Sinh ban bình
an
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Có lần người ta hỏi đại thi hào Dante của nước
Italia rằng: “Đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống."
Ông đã trả lời như sau: “Tôi vẫn luôn đi
tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: Đó là sự bình an."
Ðó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố:
trên bia mộ nào, chúng ta cũng luôn ghi lời cầu: xin cho họ được an nghỉ nghìn
thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được
hòa bình và an nghỉ? Trong những phút giây cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với
chúng ta: “Ta ban bình an cho các con. Ta
ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con”
5. Làm chứng bằng đời sống.
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ
về đề tài “Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị sử dụng tối đa các
phương tiện truyền thông tân tiến của những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm
sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi
tầng lớp và mọi lứa tuổi.
Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và
bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những
bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hòa hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những
chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu
giơ tay xin phát biểu: “Tại Phi châu
nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn, không
có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở báo
chí, phim ảnh... chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình Công giáo tốt, để dân
làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng,
tr 208).
6. Đâu có tình yêu, có Thiên
Chúa
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm vị ẩn sỹ ấn
giáo tại chân núi Hy Mã Lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện của
ông:
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều
khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắo nơi
đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế
mà tu viện bây giờ chẳng khác nào ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ
thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sỹ Ấn giáo cho biết nguyên nhân
nào hay tình trạng nào đưa tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn
đó là tội vô tình." Và ông giải thích: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong qúi vị, mà qúi vị
không nhận ra Ngài."
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu
viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải
trang thành một người trong nhà. Các Tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau.
Ai là Đấng Cứu Thế đang cải trang vậy? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài
đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể
là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đối xử với nhau như là đối xử
với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại
với tu viện. Từ khắn\p nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện.
Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn
7. Chúa ban bình an
Ngày nay mỗi khi Hội Thánh cử hành Bí tích Thánh Thể,
cũng chỉ có ba lần chủ tế chúc bình an cho cộng đoàn: Lần I bắt đầu Thánh Lễ, lần
II trước khi rước Lễ, và lần III trước khi cộng đoàn ra về, là lập lại Chúa
Giêsu Phục Sinh chính thức ba lần ban bình an cho cộng đoàn dân Chúa đang cử
hành Phụng Vụ vào ngày Chúa nhật (x Ga 20,19. 21. 26).
Để minh xác Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ muốn ban bình
an cho ai tích cực và ý thức tham dự Thánh Lễ: Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng
của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về
Gia Đình trích dẫn trong tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989
như sau:
- Trong 100 gia đình không theo đạo Công Giáo, thì
có khoảng 50 gia đình ly dị (50%).
- Trong 100 gia đình theo Công Giáo, chỉ đi dự Lễ
Chúa nhật thì có khoảng 10 gia đình ly dị (10%).
- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ và rước
Chúa hằng ngày, gia đình còn có giờ cầu nguyện riêng, thì ly dị xuống thấp nhất,
tối đa chỉ còn khoảng 1% gia đình ly dị.
Vậy gia đình nên năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện
chung với nhau. Vì nơi đó được Chúa Giêsu ban bình an cho.
8. Marcelino
Một trong những bộ phim được nhiều người Công Giáo
biết đến và yêu thích là bộ phim của Ý mang tựa đề “Chú Bé Marcelino.”
Chú bé Marcelino mồ côi cha mẹ, được các thầy dòng
Phanxicô nuôi dưỡng trong tu viện. Một ngày kia, khi được 5 tuổi, chú bé phát
hiện ra một tượng Chúa chịu nạn thật lớn bị bỏ phế trong nhà kho. Khởi đầu, chú
bé rất sợ khi nhìn thấy tượng Chúa. Nhưng về sau, chú bé thấy “Bác Giêsu” rất
hiền và có vẻ đói, nên đã lén lấy trộm bánh và rượu của các thầy cho “Bác
Giêsu.” Thấy mất nhiều đồ ăn, các thầy theo dõi và chứng kiến cảnh Chúa Giêsu
hiện ra, trò chuyện và ăn uống trước mặt chú bé Marcelino.
Một lần kia, Chúa Giêsu hiện ra, Ngài hỏi chú bé muốn
điều gì, chú bé trả lời muốn được gặp mẹ chú ở thiên đàng. Chúa đã nhận lời và
bảo chú đi ngủ.
Đoạn cuối của bộ phim thật cảm động: các thầy dòng
đã tìm thấy chú bé Marcelino ngồi nghiêng đầu trên chiếc ghế dựa, bên cạnh tượng
Chúa chịu nạn trong nhà kho. Chú đã chết, cái chết êm ái dịu dàng như một giấc
ngủ.
Câu chuyện về chú bé Marcelino thật xúc động! Với một
lòng tin vừa ngây thơ, vừa đơn sơ, nhưng thật mạnh mẽ, chú bé đã được nhìn thấy
Chúa Giêsu hiện ra và được gặp gỡ Chúa. Câu chuyện gợi lên cho chúng ta những lần
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Nhưng thật ra, các môn đệ vẫn chưa
có lòng tin đủ mạnh để nhận ra Ngài.
9. Tình yêu mang lại sự sống
Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau
tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được sáu tháng. Cô bỏ việc làm ở
sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ.
Bởi những việc làm đắc lực và có hiệu quả, cô được mời
đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi đã chữa
cô khỏi bệnh tim.
Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm mà đến
Nam Mỹ với công việc hằng ngày là phục vụ những người khốn khổ. Cảm nghiệm về một
cái chết gần kề đã giúp cô có một định hướng mới cho cuộc đời và sẵn sàng hy
sinh tất cả cho một lẽ sống.
Ai cũng muốn sống, nhưng Lời Chúa cho biết có không
ít người đã chết mà không hề biết: “Ta biết
các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết. Hãy
tỉnh thức!” (Kh 3,1-2).
Khi phạm tội, người ta giết hại chính mình, nuôi kẻ
sát nhân mà vẫn tưởng là phục vụ sự sống: “Anh
em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân.
Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3,14-15).
10. Gặp Chúa
Noreen Towers đang làm công tác từ thiện nhưng không
có dấu hiệu thành công. Một đêm nọ, cô đi ngủ trong chán nản. Sáng hôm sau, sau
khi thức giấc một lát, dường như Chúa Giêsu nói với cô: “Con không tin vào chương trình Ta sắp đặt cho con sao?” Cảm nghiệm
trong nháy mắt đó đã biến đổi cô từ một người chán nản thành một người có niềm
tin không gì lay chuyển được.
Tôi đã học được gì từ những giây phút chán nản trong
đời mình?
Xuyên qua một trái tim bị
dập nát, Chúa Kitô có thể bước vào
(Oscar Wilde).
11. Hoa trái của đau khổ
Văn sĩ nổi danh Chateaubiand, nhờ cái chết của mẹ, mà ông đã được Chúa đột ngột xuất hiện trong tâm hồn và đã bỏ cuộc sống xa hoa đồi bại, trở lại với Chúa. Ông đã viết những cuốn minh đạo thật giá trị.
Bà Pauline Jaricot, nhờ cơn bệnh kéo dài của người mẹ, đã bỏ cách sống phù phiếm của tuổi trẻ, trở về sống âm thầm kết hợp với Chúa, và đã trở thành vị sáng lập hội truyền bá Phúc Âm: Hội này đã phát triển khắp thế giới. Ba được phong chân phước vào ngày 22/5/2022.
Văn hào Paul Claudel: Ngày 25 tháng 12 năm 1806 vào nhà thờ Notre Dame de Paris, dự buổi kinh chiều do tiểu chủng sinh chủng viện Saint nicolas đảm nhiệm. Tới bài kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” (Mangificat), tiếng hát du dương của ca đoàn chủng sinh đã làm ông xúc động đối với tình yêu Chúa, tình yêu Đức Mẹ gợi lại trong ký ức những cảm tình nồng nhiệt của tuổi thơ. Ông không cầm được dòng lệ, và rồi từ giây phút đó ông đã sống cuộc đời tha thiết gắn bó với Chúa.
Francois Coppée sinh năm 1842 và mất năm 1908 tại Balê. Ông là một văn sĩ nổi danh. Năm 1884, ông được tuyển chọn làm viện sĩ hàn lâm viện Pháp. Trong các tác phẩm nổi danh của ông, ta phải nhắc tới cuốn Le Passant, cuốn Severo Torelli, cuốn Pour la couronne… Chúa đã xuất hiện với ông đang lúc ông bệnh nặng, nằm điều trị tại một bệnh viện. Ông đã may mắn gặp một linh mục, và linh mục này đã trao cho ông cuốn phúc âm. Mấy tháng sau ông có viết:
“Qua nhiều tuần lễ, nhiều tháng trời, nằm trong bệnh viện, tôi đã sống với cuốn phúc âm, rồi dần dần, mỗi dòng chữ của cuốn phúc âm trở thành sống động trong tâm hồn tôi, và cho tôi thấy rõ sự thật… Thực vậy: trong bất cứ câu nào của cuốn phúc âm, tôi cũng thấy sáng lấp lánh một chân lý như một vì sao tỏa sáng. Trước đây tâm hồn tôi mù quáng đối với đức tin, thì bây giờ tôi cảm nghiệm được đức tin đó một cách rực rỡ… Vì tôi đọc và suy gẫm những lời của phúc âm, nên hiện nay chẳng những tôi biết sống nhẫn nhục, mà còn thấy tâm hồn tràn đầy bình an và cam đảm. Cách đây hai năm, tôi sợ tuổi già đến với tôi quá sớm, nhưng bây giờ tôi cương quyết và sẵn sàng đón nhận tuổi già đó. Nếu bây giờ tôi chưa dám ước mong được chịu đau khổ, thì ít ra tôi không sợ đau khổ, vì tôi đã học được trong phúc âm, nghệ thuật biết chịu đau khổ, và nghệ thuật biết sẵn sàng bỏ cõi đời này.”
THỨ SÁU
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa
Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là
Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa
đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông kia
nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông." Mọi người ra đi xuống thuyền.
Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.
Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển,
nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con,
có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không." Chúa Giêsu bảo:
"Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được." Các ông liền thả lưới và hầu
không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với
Phêrô: "Chính Chúa đó." Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo
vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và
kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá
và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây."
Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một
trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo
rằng: "Các con hãy lại ăn." Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi:
"Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy
bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế.
Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ
khi Người từ cõi chết sống lại.
TRUYỆN KỂ - Tìm lại được bản thân.
1. Tìm lại được bản thân
Tiền của, quyền bính, danh vọng, không đương nhiên
mang lại cho con người hạnh phúc. Một lần nữa thế giới lại học biết chân lý ấy
qua kinh nghiệm con người giàu có và danh tiếng nhất nước Mỹ hiện nay, là ông
Tonner, nhà tỉ phú sáng lập hệ thống truyền hình CNN.
Trong một phỏng vấn mới đây dành cho tạp chí The New
York, nhà tỉ phú này cho biết rằng mình thất vọng đến nỗi đã có lúc nghĩ tới việc
tự tử. Con người đã từng được xem là một trong những người quyền thế nhất nước
Mỹ, nhất là sau khi ông đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho tổ chức Liên Hiệp Quốc, giờ
đây tự nhận mình là nạn nhân của một cuộc chiến tranh đủ mọi mặt, từ công việc
kinh doanh, đời sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo.
Thất bại trong đời sống gia đình là điều thê thảm nhất
đối với ông. Ông và nữ tài tử Folda đã ly dị nhau sau tám năm chung sống. Lý do
chính khiến cho hai người chia tay nhau là vì Folda đã trở thành một tín hữu
Kitô. Tonner đã có lần nói rằng Kitô giáo là tôn giáo dành cho những người thua
cuộc và gọi Ðức Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc.
Với tất cả những gì mình đang có trong tay, ông đã
có lý khi gọi các tín hữu Kitô là những người thua cuộc. Nhưng cái nghịch lý lớn
nhất của Kitô giáo mà con người giàu có và quyền thế này không thể hiểu được
chính là thua để thắng, mất để được, chết để sống. Lẽ ra, trong nỗi thất vọng ê
chề khiến ông chỉ còn nghĩ tới một lối thoát duy nhất là tự tử, Tonner phải hiểu
được lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: "Chiếm
được cả thế gian mà đánh mất chính bản thân, nào được ích gì?"
2. Gặp được Chúa
Một người da đỏ rời bỏ nơi cư trú ở thôn quê để về
thành phố thăm lại người bạn da trắng. Anh nhìn thấy cuộc sống náo nhiệt và xô
bồ của thành phố đã tạo cho anh không ít ngạc nhiên và thích thú. Lúc hai người
đang dạo chơi trên đường phố, thình lình người da đỏ chợt dừng lại và đập nhẹ
vào vai người bạn da trắng và nói nhỏ: "Chúng
ta hãy dừng lại tí chút, anh có nghe thấy gì không?"
Người da trắng quay lại và mỉm cười nói với bạn: "Tiếng máy nổ, tiếng còi, tiếng gầm của
xe buýt, tiếng bước của người qua lại. Còn anh, anh nghe thấy gì?"
"Tôi nghe thấy tiếng
kêu của một chú dế mèn gần đâu đây đang gáy."
Anh bạn da trắng đứng lại, lắng tai và chăm chú nghe
kỹ hơn, nhưng rồi lắc đầu đáp: "Tôi
nghĩ là anh đang đùa, làm gì mà có dế mèn ở đây. Mà dù cho có đi nữa thì làm
sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa muôn vàn náo động của thành phố sầm
uất nhộn nhịp này."
Người da đỏ nghiêm trang trả lời: "Có mà. Tôi nghe tiếng nó gáy chỉ đâu
đây thôi."
Nói rồi anh bước lại gần bức tường cách đó vài thước,
một dây nho dại đang bò trên vách tường, dưới gốc nho là một bụi cỏ và vài chiếc
lá khô đủ để cho một chú dế ẩn nấp và đang cất tiếng gáy.
Cuối cùng anh bạn da trắng cũng thấy được con dế. Bấy
giờ anh gật đầu thán phục: "Lỗ tai của
người da đỏ các anh quả thật là thính hơn bọn da trắng chúng tôi nhiều."
Thế nhưng, người da đỏ lắc đầu đáp lại: "Chẳng phải vậy đâu. Tôi sẽ chứng minh
cho anh thấy."
Ðoạn anh ấy rút trong túi ra một đồng tiền và cho
lăn nhẹ trên vệ đường, tiếng va chạm leng keng của đồng tiền cũng thật nhỏ, tưởng
chừng như mất hút giữa những tiếng động ồn ào của thành phố. Vậy mà như có một
hiệu lệnh, đồng tiền lăn trên đây thì mọi chiếc đầu, mọi cặp mắt đều quay về
đó. Lượm đồng tiền lên và cho vào túi, người da đỏ mỉm cười với bạn mình. Vì thế,
lỗ tai của người nào cũng nghe rõ như nhau, nhưng có khác chăng là nó chỉ nghe
quen với âm thanh và những điều người ta lưu tâm đến.
3. Tiếp tục ra khơi, dù cả
đêm vất vả
Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận kể lại một chứng
từ:
Một buổi sáng tháng 10 năm 1975, tôi ra dấu cho một
cậu bé 7 tuổi tên là Quang, đi dự lễ 5 giờ về, khi trời chưa sáng: “Con nói với mẹ mua cho cha mấy bloc lịch
cũ!”
Chiều tối, khi mặt trời bắt đầu lặn, Quang đem lại
cho tôi các cuốn lịch bloc. Từ khi ấy, trong tháng 10 và tháng 11 năm 1975, hằng
đêm tôi viết cho dân tôi thông điệp từ cảnh tù đày. Mỗi sáng, cậu bé tới lấy
các tờ lịch, đem về nhà cho các anh chị chép lại thông điệp…
Và ngài đã viết tác phẩm Đường hy vọng của ngài như
vậy đó… Tư tưởng này được chia sẻ với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Giáo
triều Rôma Mùa chay năm 2000 và khắp thế giới khi ngài giảng thuyết...
4. Ngài đi đâu đó?
Câu chuyện “Quo vadis” được kể như sau: Phêrô đến
Rôma giữa lúc hoàng đế Nêrông đang bắt bớ đạo. Nhiều người đã chịu tử đạo. Tình
thế nguy kịch, các tín hữu khuyên Phêrô chạy trốn ra khỏi thành, để còn người
duy trì và giữ vững đạo Thánh.
Khi ra khỏi cổng, Phêrô gặp Chúa vác thập giá đi vào
thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quo
vadis?”, nghĩa là Ngài đi đâu đó? Chúa trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa." Ông
chợt hiểu và quay lại Rôma. Ông an ủi và giúp đỡ các tín hữu sắp chịu cực hình
giữ vững niềm tin.
Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ
ăn thịt, bị hỏa thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh
ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì ông nghĩ mình không xứng đáng
được đóng đinh như Thầy.
5. Ta đặt Chúa ở đâu?
Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị
trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: số “một” càng bị
nhiều số “không” ngăn cách nó xa với dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng
thấp. Thí dụ: 0,000.001.
Tuy nhiên nếu số “một” đứng đầu thì sau nó càng nhiều
số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng ấy. Thí dụ: 1.000.000.
Chính Chúa là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước
những công việc của ta. Thì càng làm nhiều chừng nào thì giá trị của chúng càng
cao chừng đó. Ngược lại Chúa càng xa tâm trí chừng nào thì công việc ta làm
càng ít chùng ấy. (Frank Mihalic).
6. Gặp Chúa trong đời
Nhà văn Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một
cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến
được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon
nước cho vào cái túi nhỏ rồi lên đường.
Khi cậu đi được
vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt đăm
đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp
đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà
lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà
đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon
nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.
Hai bà cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều,
ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai nói lời nào.
Trời tối, đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được
một bước, cậu quay lại, chạy về phía bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ
cười đẹp chưa từng thấy.
Một lát sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ
cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm vui rạng rỡ trên con mình.
Mẹ cậu hỏi:
- Hôm nay có chuyện gì
mà con hạnh phúc thế?
Cậu trả lời:
- Con đã ăn bữa trưa với
Chúa!
Bà chưa kịp nói gì thì cậu bé thêm:
- Mẹ biết không, Chúa có
nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!
Trong khi đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm
hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên
khuôn mặt mẹ, anh hỏi:
- Mẹ ơi, hôm nay con có
điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?
Bà lão đáp:
- Mẹ ăn bánh trong công
viên với Chúa!
Trước khi cậu con trai kịp nói thì bà thêm:
- Con biết không, Chúa
trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!
7. Chúa cần người cộng tác
Vì yêu thương mà Chúa muốn ta cộng tác với Ngài cho
thắm tình cha con. Như người cha nói với con: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha nhé” (Mt 21,28b)
Họa sĩ lừng danh thế giới Leonado Da Vinci khi về
già, khả năng cũng đi theo với tuổi tác, ông không còn linh hoạt như lúc còn trẻ,
vẽ một bức tranh cả ngày cũng chưa đi tới đâu. Vì mệt mỏi, ông thiếp ngủ lúc
nào không biết. Sáng hôm sau, khi thức dậy, ông thấy bức tranh đã hoàn tất tuyệt
vời! Ông hỏi ra thì mới biết chính con trai ông đã vẽ trong lúc ông ngủ. Ông
sung sướng ôm lấy con và hôn lấy hôn để!
8. Chúa đó
Một đứa trẻ mới mười tuổi đầu đã phải đi làm việc
trong một nhà máy tại thành phố Naples, nước Ý. Mẹ cậu tin rằng cậu có một giọng
ca thiên phú nên cho con đi làm trong nhà máy để có đủ tiền cho con mình trả học
phí âm nhạc.
Ông thầy dạy nhạc đầu tiên xác quyết với đứa trẻ là
nó không hề có giọng ca tốt, và khuyên nó đừng phí tiền để chạy theo ảo tưởng.
Nhưng bà mẹ của cậu, một nông dân nghèo nàn, không dễ
dàng bỏ cuộc. Bà khuyến khích, và tỏ ra niềm tin vào tài năng của con. Bà sẵn
lòng không đi giày dép, chịu đi chân không để tằn tiện đủ tiền cho con học nhạc.
Công lao và niềm tin của bà mẹ đã sinh hoa kết trái.
Và Enrico Caruso, cậu con trai của bà, đã trở thành
một trong những ca sĩ tenor vĩ đại nhất thế giới.
Đức Kitô đã phục sinh, đã chiến thắng, và sự hiện diện
của Ngài là bảo chứng cho kết quả tốt đẹp sau cùng của mọi công việc tông đồ mà
người ta thực hiện với khả năng hạn hẹp của mình: “Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày
càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó
nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.” (1Cr 15,58)
Chúa đó! Đấng
chiến thắng ở bên tôi. Tôi còn sợ chi?
9. Sức mạnh của Đức Kitô
Trong bài viết về nỗi khổ của người cùi, đăng trên
Báo Lâm Đồng số ra ngày 16/5/1997, phóng viên Kim Anh đã phải thốt lên lời thán
phục Đức Cha Cassaigne: “Cách đây hơn nửa
thế kỷ, khi bệnh phong được xem là bất trị và dễ lây lan nhưng vẫn có một số
người tự nguyện chăm sóc, giúp đỡ bệnh nhân. Chẳng nói đâu xa, trại phong này
được tạo dựng vào năm 1927 bởi con người có tấm lòng nhân hậu (Giám mục
Cassaigne) để cưu mang những người cùi đang sống lẩn khuất, đói khổ trong rừng
sâu. Và cha đã gắn bó với người cùi suốt 48 năm ròng cho đến lúc mất (1973).”
Tình yêu hiến thân tuy phải gánh chịu nhiều đau khổ,
nhưng ngoài Đức Cha Cassaigne, còn có rất nhiều người để mình chịu lôi cuốn vào
cuộc sống hiến thân như Đức Kitô. Bởi vì yêu đến quên mình là con đường duy nhất
mang lại sự sống tràn đầy hạnh phúc và tự do.
Hãy để tình yêu Chúa trở nên lẽ sống của tôi, và cả
đời tôi sẽ vang mãi lời tạ ơn: “Lạy Chúa,
con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con."
10. Tảng đá bị loại bỏ
Bài diễn văn Gettysburg của Lincoln chỉ có 274 từ và
chỉ mất hai phút để nói ra.
Khi Lincoln ngồi xuống, có người quay về phía ông và
nói: “Hết chưa ạ?” Lincoln trả lời:
“Chỉ có thế thôi.”
Một ký giả gọi diễn văn của Lincoln “là một sự sỉ nhục khi tưởng nhớ những người
đã chết.”
Người khác nhận xét: “Đó là bài diễn văn ngang phè và chẳng ra gì.”
Ngày nay bài diễn văn Gettysburg được xếp vào kho
tàng văn chương vĩ đại nhất của lịch sử.
Tôi có nhớ đã bao lần phê phán người khác cách bất
công và ngu ngốc không? Phản ứng của tôi ra sao?
Mọi thứ tôi làm cho đời sống có đáng gì để được lãnh
nhận sau này (Warren).
THỨ BẢY
Lời Chúa: Mc 16, 9-15
Khi Chúa Giêsu sống lại,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria
Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với
Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy
Người, nhưng họ không tin.
Sau đó, Chúa lại hiện ra
dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về
báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.
Sau hết, Chúa hiện ra với
mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì
các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các
con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài."
TRUYỆN KỂ
1. Chúa Hiện Ra Nhiều Lần
Trong cuộc triển lãm hội
chợ về hoa tại thành phố Luân Ðôn, điều bất ngờ xảy ra trong nhóm người say mê
cây cảnh: giải nhất đã về tay một cô gái trẻ. Người ta lại càng ngạc nhiên hơn
khi biết rằng cô gái này lại cư ngụ trong một khu phố tồi tàn chật chội nhất
thành phố, được mệnh danh là "chỗ thiếu ánh sáng." Nơi đó có thể nói
được rằng thiếu cả ánh sáng văn minh lẫn ánh sáng mặt trời. Chính những người
lâu năm kinh nghiệm trong nghề trồng hoa kiểng cũng chẳng hiểu làm sao mà cô
gái trồng được một chậu hoa tuyệt đẹp tại một nơi thiếu ánh sáng như thế.
Khi được phỏng vấn, cô
đã thổ lộ bí quyết của mình như sau: căn nhà của cô ở chỉ có một vùng ánh sáng,
nếu mặt trời di chuyển từ đông sang tây thì vùng ánh sáng cũng chạy từ tây sang
đông. Cứ thế, suốt ngày chậu hoa của cô phải di chuyển từ góc này đến góc kia
cho tới ngày nó được hưởng trọn phần ánh sáng như hôm nay.
Nói như thánh Augustinô:
"Chúa dựng nên con, không cần có con
cộng tác. Nhưng Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con cộng tác."
2. Giáo hội cần Tông đồ giáo dân.
Số giáo dân thêm nhiều,
và hầu hết các họ đạo đứng vững được trong thử thách, dù lâu ngày vắng Linh mục,
một phần lớn còn là nhờ hoạt động tông đồ giáo dân của một số người nhiệt thành
với công cuộc của Nước Chúa.
Ở Trại Mỹ (Chaimi) tỉnh
Quảng Ngãi, cha Đắc Lộ gặp gia đình ông cụ Phaolô và bà Monica. Tuy bị lòa cả
hai mắt, nhưng ông cụ rất nhiệt thành truyền giáo. Cụ thật là linh hôn sống động
của họ đạo đó. Các ngày chủ nhật và lễ trọng, cụ họp giáo dân trong căn nhà,
trong khu nhà cụ và cụ giảng dạy khuyên răn họ.
Cụ còn giúp cho họ tất cả
phương tiện cần thiết để bảo vệ đức tin họ đã lãnh nhận. Lòng nhiệt thành của cụ
lan rộng ra với tất cả những người ngoại đạo và giúp được nhiều người sẵn sàng
chịu phép rửa. Thiên Chúa lại cho cụ quyền trên cả ma quỉ. Những người bị quỉ
ám vùng đó đều được cụ trừ quỉ (Lm Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo tại Việt
Nam).
3. Nghịch lý của niềm tin
Có một bà nổi tiếng là đạo
đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm,
nghe nói thì tìm đến, hy vọng được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc.
Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn
lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
4. Madalena, chứng nhân Chúa phục sinh
Tôi là Maria Mađêlêna, mọi
người sỉ vả, chê bai tôi, không ai dám đụng đến tôi vì sợ bị ô uế và lây nhiễm
tội lỗi. Mọi cặp mắt khinh miệt đều hướng về tôi. vậy mà khi gặp Ngài, Ngài
nhìn tôi với đôi mắt trìu mến và đầy tình thương. Tôi không thể nào quên đôi mắt
ấy, đôi mắt kéo tôi ra khỏi vũng lầy tội lỗi. Từ giây phút đó, tôi bước đi theo
Ngài, cùng với Ngài rảo qua khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin Mừng.
Rồi Ngài bị bắt, bị đem
giết. Tôi bối rối sợ hãi và tuyệt vọng. Các môn đệ của Ngài cũng đã bỏ chạy.
Nhưng Ngài vẫn chưa được yên cả đến xác Ngài cũng bị đánh cắp khi tôi ra viếng
mồ sau khi Ngài chết vài ngày. Ôi cuộc đời của Ngài như thế này sao? Vậy là chấm
dứt, chấm dứt tất cả!
Trong cơn tuyệt vọng,
Ngài gọi tôi “Maria." Vâng chính là Ngài. Không phải là cái xác tôi đang
tìm mà là một Đức Giêsu đang sống, sống thực sự. Nhiệm vụ của tôi là bây giờ phải
đi loan báo tin mừng này cho tất cả mọi người. Tôi không có quyền giữ lại niềm
vui và hạnh phúc cho riêng mình. Chúa muốn mọi người cũng được hạnh phúc như
tôi, được chia sẻ niềm hạnh phúc này.
5. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh
Có một câu chuyện ngụ
ngôn rất hay về vấn đề này. Chuyện kể rằng, sau khi chịu nạn chịu chết trên thập
giá, Chúa Giêsu đã Phục Sinh trở về Thiên Đàng trong uy nghi hiển vinh. Dầu đã
được vinh quang nhưng tay chân Ngài vẫn còn mang thương tích. Các thiên sứ hân
hoan đón chào Chúa. Quang cảnh đang nhộn nhịp vui tươi thì bỗng có một thiên sứ
đặt vấn đề:
- Chắc là Chúa đã phải chịu thống khổ vô cùng vì
loài người dưới đó?
Chúa Giêsu đáp:
- Đúng vậy!
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Có phải tất cả mọi người đều đã biết những gì Chúa
làm cho họ không?
Chúa Giêsu trả lời:
- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Thế thì Chúa làm gì để giúp cho mọi người được biết?
Chúa Giêsu đáp:
- Ta đã trao Phêrô, Giacôbê, Gioan và các đồ đệ của
ta trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác lại nói cho những
người khác nữa, rồi cho những người này lại nói cho những người kia, cho đến
lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu cũng đều được nghe.
Thiên sứ nhìn Chúa với vẻ
nghi ngờ. Vị này đã quá hiểu rõ lòng dạ con người như thế nào, nên nói tiếp:
- Vâng, nhưng nếu như Phêrô, Giacôbê, Gioan và các
môn đệ của Chúa quên đi thì sao? Hoặc nếu họ mệt mỏi không còn tha thiết gì đến
việc loan báo nữa thì sao? Hay như những người ở thế kỷ 20 này không chịu thực
hiện trọng trách việc thuật lại câu chuyện tình yêu của Chúa cho những người
khác nữa thì sao? Liệu Ngài có lập một chương trình nào khác không?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không! Ta không sắp đặt một chương trình nào khác.
Ta đặt tin tưởng nơi họ.
Chúa vẫn tin tưởng nơi
những ai tin ở Chúa.
6. Sống chứng nhân
Nhà văn hào Tolstoi của
Nga đã ghi lại trong một câu chuyện ngắn một cuộc thoại của ba người khách bộ
hành như sau:
Mệt mỏi vì đường xa, ba
người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối. Bên cạnh dòng suối trong
mát, mỗi người cảm thấy sảng khoái và hứng khởi nên họ nói lên cảm tưởng của
mình về lợi ích của nó.
Người thứ nhất lên tiếng:
“Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng
suối mát bên vệ đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được
tươi mát, mà còn mời gọi chúng ta sống thành thật với nhau."
Người bộ hành thứ hai
góp ý: “Dòng suối chảy như không ngừng muốn
nói với tôi rằng: “Hỡi loài người, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để
làm cho thế giới được tốt đẹp hơn."
Sau một phút trầm ngâm,
người bộ hành thứ ba mới thốt lên: “Những
gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa
tôi muốn chia sẻ với các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng.
Nó ban phát không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một
sự đáp trả nào... mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế."
7. Chúa làm việc
Nhà văn hào Tolstoi của
Nga đã ghi lại trong một câu chuyện ngắn một cuộc thoại của ba người khách bộ
hành như sau:
Mệt mỏi vì đường xa, ba
người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối. Bên cạnh dòng suối trong
mát, mỗi người cảm thấy sảng khoái và hứng khởi nên họ nói lên cảm tưởng của
mình về lợi ích của nó.
Người thứ nhất lên tiếng:
“Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ đường! Nước suối
trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, mà còn mời gọi chúng ta sống
thành thật với nhau."
Người bộ hành thứ hai
góp ý: “Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi rằng: “Hỡi loài người,
hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được tốt đẹp hơn."
Sau một phút trầm ngâm,
người bộ hành thứ ba mới thốt lên: “Những gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả.
Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa tôi muốn chia sẻ với các bạn. Các bạn
hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát không ngừng, nó ban
phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào... mỗi người
chúng ta hãy sống cao thượng như thế."
8. Hãy đi rao giảng Tin Mừng
Trong cuốn sách “Người
buôn lậu của Thiên Chúa” thầy Anrê, một nhà thừa sai Hà Lan cho biết ông thường
chuyển lậu sách Kinh thánh vào các nước cộng sản trước khi bức màn sắt sụp đổ
như thế nào. Ông chuyên chở Kinh thánh bằng cách dấu trong cốp xe Flats và
Volkswagen. Ông nói: “Bạn có thể ngạc nhiên. Bao nhiêu quyển Kinh thánh loại bỏ
túi có thể cất trong xe VW Beetle. Con số kỷ lục riêng của tôi là 800 quyển.”
Thầy Anrê có thể bị giam tù ba năm rữơi nếu bị bắt.
Lời kêu gọi “đi khắp thế
gian” và loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu và sự liều lĩnh của Thầy Anrê, mời gọi
tôi tự hỏi: Từ trước đến giờ tôi đã liều lĩnh thế nào để thực hành lời kêu gọi
của Chúa Giêsu? Hiện nay tôi đang liều lĩnh ra sao? Tôi có thể liều lĩnh thế
nào trong tương lai?
Kitô giáo là một cuộc
chiến đấu, chứ không phải là một giấc mơ (Wendell Philips).
9. Tin Mừng đổi mới cuộc sống
Thủ đô Texas được đặt
theo tên của Stephen Austin, một nhà thám hiểm tiên phong đã thành lập nhiều
vùng định cư ở Texas. Austin không thích các vị giảng đạo, bởi vì họ lên án các
quán rượu của ông và tội phạm chúng gây ra. Một người biết rõ Austin trích lời
ông nói rằng một vị giảng đạo có thể gây nhiều xáo trộn hơn là một tá tên trộm
ngựa.
Câu truyện về Austin nhắc
nhớ rằng Chúa Giêsu có chủ ý dùng các môn đệ Ngài để gây xáo trộn, để chiến đấu
chống lại sự dữ. Chúa Giêsu nói: “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng đem
gươm giáo.”
Tôi có thể làm gì để
đóng vai trò tích cực hơn trong cuộc chiến chống lại sự dữ?
Không ai từng gây xáo trộn
hơn “Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường” (James M.Gillis).