LỜI CHÚA TUẦN 4 MÙA THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

CHÚA NHẬT 4 MÙA THƯỜNG NIÊN - Năm A - Năm B - Năm C

NGÀY THƯỜNG – Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ Sáu - Thứ Bảy

NGOẠI LỊCH – LỄ NẾN

CNTN 4A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNTN 4B – CHÚA CÓ UY QUYỀN TRỪ QUỶ

Lời Chúa: Mc 1, 21-28

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người." Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Người trừ quỷ.

Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự.

Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mt. Raimer, thuộc bang Maryland của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy."

Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên.

Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Georgetown, một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó.

Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.

Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim.

Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Washington. Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.

2. Cần mạnh tay với ma quỷ

Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất."

Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá." Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có."

Ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta nhưng chúng khéo giấu mặt. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.

3. Ma quỷ nham hiểm

Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông.

Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả." Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta?

Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi."

Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.

Ngày nay, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế?

Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời.

4. Đi tìm "minh chủ"

Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.

Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.

Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.

Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.

Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:

- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.

Cậu bé mỉm cười đáp:

- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.

Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.

Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.

Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.

 Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

5. Sức mạnh siêu phàm

Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.

Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.

Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.

Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.

Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.

6. "Hãy để tôi yên"

Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi."

Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.

Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.

Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.

Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.

Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)

7. Dị đoan

Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối, "dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.

Trước năm 1975, có một cuộc trấn ếm của một ông thầy pháp, người ta kể lại: đôi vợ chồng chủ nhà vừa mới mua căn này và chưa ở được bao lâu. Họ nói: ma quỉ ban đêm hay phá quá! Dù là công giáo, nhưng hơi kém đức tin, nên họ đã rước thầy pháp về.

Ông thầy bảo: nhà này ma lắm; đó có mấy đứa con nít đu ở đầu cột đó! Ông liền lên đèn, bắt ấn, dùng dao chặt ngang vào thân cột, thấy máu chảy xuống ròng ròng, chảy tới đất là mất. Ông lấy mấy cây nhang nhỏ, đốt lên, bắt ấn, múa may, rồi cấm vào thân cây cột nhà bằng căm xe, còn bóng bẩy. Người đi coi thấy cây nhang được cắm vào cây cột cách nhẹ nhàng, sâu đến cả nửa cây nhang. Họ thấy mấy chuyện lạ này, nên xem ra họ tin lắm...

Ngược lại chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu mà thôi, Người dùng quyền năng tự chính mình để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Người không cần nhờ ai cả. Đó chính là đề tài mà chúng ta sẽ suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.

Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.

8. Theo anh là thủ lãnh.

Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.

Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:

- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh ? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.

Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:

- Theo anh là thủ lãnh của em.

Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:

- Em có bỏ không ?

Lời thưa đầy hăng hái rằng:

- Em đã chẳng hứa với anh sao ?

Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.

9. Lời Chúa có sức mạnh biến đổi

Tokichi Ishii, một tên giết người không gớm tay. Y đã đạt kỷ lục về việc giết nhiều người nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Y sát hại đàn ông, đàn bà phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu. Y đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ y gặp và muốn giết. Nhưng rồi cuối cùng y đã bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở trong nhà tù chờ ngày bị hành quyết, có hai phụ nữ công tác tông đồ đã đến khuyên nhủ y. Nhưng tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ đều không làm cho y mảy may xúc đổng. Trái lại y còn nhìn chằm chặp vào họ với một cặp mắt dữ tợn như muốn nuốt sống họ.

Cuối cùng, vì không còn đủ kiên nhẫn nữa, hai phụ ấy nữ ra về. Nhưng trước khi ra khỏi nơi gặp gỡ, họ để lại cho y một cuốn sách Tân Ước với hy vọng mỏng manh rằng y sẽ đọc và rồi Lời Chúa sẽ hoạt động… Và đúng như họ mong ước: Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc. Lời Chúa thu hút Ishii khiến anh tiếp tục đọc hết đoạn tường thuật về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Khi đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh ta dừng lại và suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, trái tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, hay là lòng thương xót của Ngài không thì tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa."

Khi các nhân viên nhà giam dẫn anh ta đi để hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tội Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không như một tên giết người hung bạo như trước nữa. Ishii, đã được lời Chúa hoán cải (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).

10. Tin vào tình thương của Chúa

Có một tội nhân kia suốt đời được thiên thần hướng dẫn đi theo con đường hẹp nghĩa là đi theo đường lối Chúa đã dạy bảo, nhưng tất cả đều vô ích. Con người này cứ đắm chìm trong đường tội lỗi. Gần đến ngày ông ta phải về tính sổ trước mặt Chúa, thiên thần bản mệnh của ông chỉ còn biết khóc thầm, thương cho ông. Hơn nữa ma quỉ còn lợi dụng cơ hội này để thúc đẩy con người này tiến thẳng xuống hỏa ngục. Ma quỉ đã đến bên ông và gieo vào tâm hồn ông niềm thất vọng, chán nản. Ma quỷ nói với ông:

- Thôi, ông cứ tiến thẳng tới án phạt của ông đi vì đời sống của ông chỉ toàn là những điều gian ác.

Trong chốc lát, ông như tỉnh ngộ. Ông bước đi nhưng mắt vẫn ngước nhìn về ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trị và tấm lòng vẫn còn hy vọng được Thiên Chúa tha thứ vì lòng nhân từ khoan thứ vô biên của Ngài. Thấy vậy, ma quỉ nói với ông:

- Hỡi người tội lỗi cứng lòng, hãy bước đi chứ đừng hy vọng gì nữa.

Tội nhân vẫn cứ tiếp tục bước. Lòng vẫn cầu nguywện trong sự e thẹn:

- Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng công chính. Tội của con thật đáng với án phạt nhưng vì tình thương bao la của Chúa, xin tha tội cho con. Tuy dù con bất xứng trăm bề, nhưng Chúa biết rằng niềm hy vọng trong tâm hồn con chẳng bao giờ tắt, vì con luôn tin tưởng vào lòng khoan dung của Ngài. Lạy Chúa, nỡ nào Chúa lại lên án phạt con. Nỡ nào Chúa lại tuyên phạt con đời đời hay sao?

Thiên Chúa đã cảm động trước lời cầu xin khiêm tốn của ông ta. Ngài truyền cho các thiên thần:

- Hãy dẫn người đàn ông khiêm tốn ấy đến trước mặt ta. Lửa yêu thương của Ta sẽ thiêu hủy hết tội lỗi của nó. Mặc dù nó phạm tội nhiều nhưng không bao giờ nó hết nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Ta, vì thế Ta muốn nó được sống trong nước vinh quang của Ta, sống bên cạnh ta để nó sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Ta mãi mãi. Amen.

11. Đồng hồ cần sửa cho đúng

Có một câu chuyện kể về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian, những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cờ đã đi ngang qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hồ đến cho ông sửa dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của họ đã bị sét rỉ, bị ăn mòn vì lâu năm không dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé qua làng.

Người tín hữu trung thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần.

12. Uy quyền của tình yêu

Vào năm 1979, trước khi nhận giải thưởng Nobel hòa bình, mẹ Têrêxa Calcutta đã được ông Tổng Thư ký Liên hiệp quốc giới thiệu với các đại biểu các nước trên thế giới rằng: “Đây là con người quyền lực nhất trần gian.” Mẹ là người quyền lực nhất – vì Mẹ có sức mạnh loại bỏ được mọi rào cản vững chắc của ý thức hệ, – vì Mẹ vượt qua được mọi ngăn cách của các tôn giáo, – vì Mẹ phá đổ được bức tường kiên cố của các chủng tộc. Mẹ đã đặt chân đến và được hoạt động tại những quốc gia đầy gian khó như Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba. Mẹ là người quyền lực nhất vì đã cảm hóa được những nhà lãnh đạo tại những nơi vốn bị coi là vùng đất cấm. Mẹ thực hiện được những điều ấy với vũ khí duy nhất là phục vụ bằng tình yêu cao độ.

Muốn phục vụ cách triệt để cần phải có tâm hồn đầy sức mạnh của tình yêu. Tình yêu sẽ loại trừ mọi nghi kỵ chống đối, vượt qua mọi rào cản khó khăn và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh thiệt thòi. Phục vụ cách chân thành với tình yêu sẽ tạo nên sức mạnh phi thường, giúp chiến thắng mọi nghịch cảnh, và có thể đi thẳng đến trái tim con người.

13. Phép lạ là dấu chỉ

Từ quen thuộc để chỉ “phép lạ” trong tiếng Hy Lạp là semion có nghĩa là “dấu chỉ” (các tác giả tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp). Từ này cho thấy phép lạ của Chúa Giêsu giống như một ngọn đèn đỏ lóa sáng. Điều quan trọng không phải là ánh sáng lóa lên, mà là ý nghĩa của nó. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn nói điều gì đó qua một phép lạ. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu trừ quỷ, Ngài có ý nói rằng nước của Satan sắp phải nhường chổ cho Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã khởi sự giống như hạt giống được gieo trồng. Chúa Giêsu đã gieo hạt. Bổn phận của chúng ta là phải vun trồng nếu muốn cho hạt giống trổ sinh hoa trái. Tôi đã làm gì để có thể giúp vun trồng hạt giống ấy?

Mỗi người đều có sứ mạng riêng để hoàn thành, đó là sứ mạng của tình yêu (Mẹ Têrêsa).

14. Biết Chúa

Trong một cuộc thi tuyển tài nghệ diễn xuất. Một anh thanh niên học về ngành kịch ảnh sân khấu đã bước ra và dõng dạc đọc thuộc lòng thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Anh đã đọc với cung giọng trầm bổng dẽ dàng và rõ ràng với tài nghệ của một kịch sỹ để diễn tả ý nghĩa của thánh vịnh đó. Anh đã đọc thật hay và được khán thính giả yêu cầu đọc đi đọc lại ba lần với những tràng pháo tay tán thưởng vang dội.

Người thứ hai là một ông cụ già lưng hơi gù gù. Khi ông bước lên sân khấu thì mọi người im lặng. Giọng ông nhỏ nhẹ và phải chú ý mới có thể nghe được. Ông chậm rãi xướng lên thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Ông đọc với một tâm tình có sức cảm kích khác biệt. Khi ông đọc xong, thì cả cử tọa trong phòng im lặng. Mọi người đều cúi đầu và như âm thầm cầu nguyện. Vài phút sau, người thanh niên thứ nhất bước lên sân khấu nhận định, "Thưa quý vị. Như quý vị cảm nhận. Rõ ràng là tôi biết và thuộc thánh vịnh 23, nhưng còn ông cụ đây mới thực sự là người biết Đấng Chăn Chiên." (Jack Mc Ardle, 150 Stories for Preachers and Teachers # 5).

15. Chúa nói với uy quyền

Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.

5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.

Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?" Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu." Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27).

16. Ma quỷ

Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…

Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:

- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.

Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.

Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.

Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.

Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.

Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

17. Chúa chữa lành

Một linh mục linh hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành, nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.

Rồi vị linh mục đã chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ công khai với mọi khóa sinh khác rằng: "Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn tôi."

18. Thánh Vianney bị ma quỷ quấy phá

Những quấy nhiễu của Satan còn kéo dài nhiều năm. Lúc trước chỉ có một mình cha sở Ars phải chịu đựng điều đó. Về sau, ma quỷ cũng quấy phá cả những người sống chung quanh ngài. Các cô giáo và các em nhỏ mồ côi ở trường Chúa Quan Phòng, một cơ sở sáng giá do cha sở thiết lập, cũng nghe thấy những tiếng động kì lạ trong một vài đêm. Ma quỷ còn chọc ghẹo cả cộng đoàn này.

Về sau, trước toà án phong thánh, Marie Filliat cung khai rằng:

"Một hôm, sau khi rửa nồi, tôi đổ nước vào nồi để nấu súp. Tôi thấy trong nước có những miếng thịt nhỏ. Hôm đó lại là ngày ăn chay kiêng thịt. Tôi đổ bỏ hết nồi đó, rồi rửa nồi và đổ nước vào lần nữa. Khi nồi súp đã nấu xong sẵn sàng để dọn ra, thì tôi lại thấy trong đó có lẫn những miếng thịt nhỏ. Khi biết chuyện, cha sở bảo: 'Ma quỷ nó làm ra như thế đấy, cứ việc dọn lên mà ăn'."

Như mọi người thấy, cha sở Ars không hề bối rối. Lương tri của ngài vẫn không bị lay chuyển, và sự trông cậy của ngài vào Thiên Chúa đã khiến cho Satan không làm gì được ngài. Một hôm, người ta hỏi xem ngài có sợ không, ngài chỉ trả lời: "Cái gì rồi cũng quen! Quỷ và tôi, chúng tôi coi nhau như đồng chí."

Điều đó rõ ràng không có nghĩa là ngài cùng phe với ma quỷ. Ngày 4.12.1841, ngài tâm sự với các cô giáo trường Chúa Quan Phòng: "Các con nghe đây: tối hôm qua, quỷ nó tới phòng cha đang khi cha đọc sách nguyện. Nó thổi hơi rất mạnh, và dường như mửa ra một cái gì đó giống như hạt lúa mì hay hạt gạo trên nền nhà. Cha nói với nó: 'Tao sẽ lại đằng kia (nhà trẻ mồ côi) kể lại việc mày làm để người ta khinh rẻ mày'. Thế là nó im lặng ngay tức khắc."

Hôm khác, khi cha Vianney đang dỗ giấc ngủ vì ngài rất cần nghỉ ngơi, thì ma quỷ la lên để làm hao mòn sức khoẻ ngài chừng nào có thể: "Vianney! Vianney! Ta sẽ bắt mi! Hãy xem, ta sẽ bắt mi!"

Ngài trả lời: "Tao đâu có sợ mày!"

Hiện nay, tại nhà xứ họ Ars, người ta thấy có một cái giường mà trước đây là giường của cha Vianney. Cái giường đó bị cháy khi nó được đặt ở nhà thờ, nhưng không biết nó bị cháy cách nào. Hồi đó, khi người ta tới báo cho ngài biết là nhà ngài bị cháy, thì ngài không trao chìa khoá cho họ để họ xông vào nhà dập tắt đám cháy. Mà ngài nói, mặt tỉnh bơ không lộ vẻ hoảng hốt: "Lại cái con Quỷ Cào Sắt khốn kiếp! Nó không bắt được chim, nên đã đốt cái lồng chim rồi."

Ma quỷ sỉ nhục, mắng nhiếc cha Vianney một cách rất thường xuyên, nó đe doạ ngài, nói với ngài những câu thô lỗ. Nó dùng những lời thô tục để chửi ngài: "Vianney! Vianney! Đồ ăn khoai thiu! A, mi chưa chết à! Ta sẽ bắt mi!" Tại nhà xứ, nó bắt chước tiếng gấu gầm gừ, tiếng chó tru tréo, lay động như điên những tấm màn ở giường ngài,...

Theo lời khai của Cathérine Lassagne và sư huynh Athanase, thì có những lần ma quỷ bắt chước tiếng búa đóng đinh xuống sàn, hay tiếng búa đóng vành sắt vào thùng tônô, nó đánh trống trên bàn, trên ống khói, trên bình nước, hoặc nó hát bằng một giọng nheo nhéo và sai lạc, khiến cho cha Vianney nói: "Con Quỷ Cào Sắt có một giọng nói tệ ơi là tệ!"

Thực ra, tất cả những cái đó chỉ là những trò kì cục, ấu trĩ hơn là nguy hiểm. Cũng may là ma quỷ không được phép làm tất cả mọi chuyện. Cha Vianney có một nghĩa vụ phải chu toàn mà Thiên Chúa trao cho. Nếu ma quỷ muốn gây trở ngại khó khăn cho nghĩa vụ đó bằng cách làm ngài bị mất ngủ, bằng cách tấn công cha đủ mọi mặt, thì phản ứng của ngài là lại càng làm nghĩa vụ đó một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn. Tóm lại, những quấy nhiễu chỉ làm bất lợi ngược lại cho kẻ gây ra chúng. Chúng ta sẽ thấy tương tự như vậy trong một số trường hợp bị quỷ nhập.

Hiện nay, có những "nạn nhân của quỷ" chấp nhận chịu mọi thử thách của ma quỷ để liên kết với những đau khổ của thập giá cứu chuộc của Chúa, là thứ khí giới chắc chắn sẽ chiến thắng Satan, và làm cho nó thất bại vĩnh viễn. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó sau này!

Chúng tôi chắc chắn rằng cha sở Ars là người như thế. Ngài chấp nhận chịu đựng tất cả mọi sỉ nhục của ma quỷ để cứu rỗi các linh hồn. Qua các kinh nghiệm hằng ngày của ngài, ngài đã rất sớm nhận ra rằng cuộc chiến đấu của ngài với ma quỷ có liên quan chặt chẽ với việc người tội lỗi ăn năn trở lại, rằng Thiên Chúa dẫn đến với ngài những người tội lỗi ở khắp mọi miền nước Pháp, kể cả ở ngoại quốc nữa.

Bây giờ chúng ta sẽ nói đến những biểu hiện của Satan gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong đời sống của "vị linh mục Công giáo gương mẫu" này như thế nào.

CNTN 4C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

LỄ NẾN - DÂNG CON TRẺ

Lời Chúa: Lc 2, 22-40

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa." Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa."

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

TRUYỆN KỂ

1. Tiến Dâng Cho Chúa

Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...

Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.

Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)

Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: "Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)

2. Lịch sử lễ Nến

Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Roma. Nội dung thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc Âm thánh Lu-ca 2,22-40.

Giáo hội Phương Đông hiểu thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền Thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu Ước qua ông Si-mê-on và bà tiên tri An-na; Giáo Hội Tây Phương lại coi đây là thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do Thái (Lv 12).

Khi du nhập vào phụng vụ Rô-ma, Đức Thánh Cha Sét-gi-ô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế từ thế kỷ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến Đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.

Từ cuộc canh tân Phụng Vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rô-ma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.

Trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng." Từ năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ làm ngày của Đời Sống Thánh Hiến. Chúa Giêsu được dâng hiến cho Chúa Cha nên trọn vẹn thuộc về Cha. Suốt đời, Ngài sống cho Cha, thi hành thánh ý Cha, vâng lời Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết thập giá. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha“, đây là một hiến dâng trọn vẹn nhất. Những người sống đời thánh hiến muốn noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa.Theo lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ tự nguyện sống đời trong sạch, nghèo khó và vâng lời.

Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh.

3. Nhà không có mái che

Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá cực nhọc không?

- Không, công việc rất nhàn.

- Có phải lương quá ít không?

- Không, lương khá lắm.

- Hay anh không thích đồ ăn ở đó?

- Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.

- Vậy tại sao anh thôi việc?

- Vì nhà đó không có mái che.

Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện.

4. Chính Chúa đã bước vào đòi sống gia đình

Bước chân vào trại dưỡng lão, hình ảnh đập vào mắt tôi trước tiên là những cụ già lưng còng, ốm yếu hay liệt giường. Không khí ở đây thật khó chịu. Tôi phải lấy hết can đảm mới có thể đến gần thăm hỏi các cụ. Đến giờ ăn, chúng tôi chia nhau đút cơm cho các cụ. Một bà cụ nắm lấy tay tôi và nói: “Nhờ các cô mà chúng tôi mới được ăn no. Nhiều lúc muốn ăn cũng không được. Cám ơn các cô nhiều. Lần sau các cô nhớ đến nhé." Nghe cụ nói, tôi cảm thấy hối hận vì những ý nghĩ và thái độ thoạt đầu khi mới đến.

Nếu như ngày xưa Đức Giêsu đã được Mẹ Maria và thánh Giuse đưa lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê, đồng thời bày tỏ vinh quang của Ngài cho muôn dân, thì ngày nay tôi cũng đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa, và nhờ bí tích Thanh Tẩy trở nên một kitô hữu. Là một kitô hữu, tôi sẽ làm gì để bày tỏ vinh quang Chúa nếu không phải là cảm thông và chia sẻ với những người nghèo khổ chung quanh, đặc biệt là những người già nua, bệnh hoạn, tật nguyền.

Xin cho con biết bày tỏ vinh quang Chúa bằng nỗ lực vun trồng sự sống, đón nhận và chia xẻ với những người nghèo khổ bất hạnh quanh con.

5. Lời cầu xin tốt đẹp

Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa, Đấng đã xuống thế làm người như mọi người. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:

Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.

Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa, hoá ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.

6. Cây bút chì

Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: “Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?

Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.

Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.

Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.

Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.

Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?

Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.

Mẹ Maria đã trở nên một cây bút chì tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.

Noi gương Đức Mẹ, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.

7. Chúa dùng người hèn mọn

Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:

- Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: “Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!”

Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói:

- Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất.

Lạy Mẹ Maria đầy lòng khiêm nhu, xin uốn lòng mỗi người chúng con nên giống Mẹ. Amen.

8. Con riêng của Đức Mẹ

Anrê Corsinô, ngay từ khi mới sinh đã được cha mẹ giáo dục cách đặc biệt. Mẹ Anrê đã dâng con mình cho Đức Mẹ Maria cách riêng và hướng dẫn con trên đường đạo đức. Nhưng vừa khôn lớn, Anrê đã ảnh hưởng những trẻ em vô giáo dục mà trở nên chơi bời hư đốn. Cha mẹ cậu hết sức đau buồn, ngày đêm tha thiết cầu nguyện cho con mình được cải thiện đời sống.

Một hôm bà vừa khóc vừa bảo con:

"Anrê con ơi, con chính là con chó sói mà mẹ đã mơ thấy ngày xưa. Trước khi sinh con, mẹ nằm mơ thấy một con chó sói chạy vào nhà thờ Đức Mẹ ở Carmes, khi trở ra, nó đã trở nên hiền lành như con chiên. Cha mẹ đã hiến dâng con cho Đức Mẹ, nhưng cách sống của con rõ ràng đúng như giấc mộng mẹ đã thấy, ít là phần đầu. Mẹ sẽ sung sướng chừng nào, nếu trước khi nhắm mắt, mẹ được thấy phần thứ hai của giấc mơ."

Những lời nói tha thiết đó làn Anrê cảm động. Biết mình đã thành con riêng của Đức Mẹ, Anrê lo cải thiện đời sống, tránh xa dịp tội, thời gian sau, cậu từ bỏ trần đời, dâng mình trong tu viện tại Carmes, sau cùng cậu trở thành thánh Giám mục Anrê Corsino.

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh. Chúng ta cùng theo Mẹ Maria và thánh Giuse lên đền thờ để được thanh tẩy và dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và luôn sống theo ánh sáng của Chúa Kitô.

9. Thắp lên một ngọn nến

Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.

Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng: tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là:

- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.

Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau:

- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.

Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố:

- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.

Hay như thánh Gioan đã xác quyết:

- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.

Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.

10. Sức mạnh của ngọn nến nhỏ

Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.

Đừng nói rằng: - Mình chẳng làm gì được.

Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.

Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.

Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.

Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

11. Mẫu gương của bậc cha mẹ

Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:

"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"

Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống"

THỨ HAI – ĐÓN NHẬN VÀ TỪ CHỐI TÌNH THƯƠNG

Lời Chúa: Mc 5, 1-20

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi." Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này." Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm." Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.

Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo." Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con." Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.

TRUYỆN KỂ

1. Mắt đức tin bị khoét

Bị cám dỗ, Samson vào bẫy của Philitin khi bị cạo trọc đầu, ông mất sức, không còn được sức mạnh như trước đó, nên bị quân Philitin bắt trói, khoét mắt, xiềng lại, bỏ tù và bắt xay cối xay (x. Tph 16,19-21).

Ma quỷ cũng vậy, chúng cám dỗ chúng ta theo chúng, rồi chúng khoét mắt đức tin của chúng ta. Và khi chúng ta không còn ánh sáng đức tin chiếu soi nữa, ma quỷ dẫn chúng ta dễ dàng đi trên con đường tội lỗi để sa xuống hỏa ngục với chúng.

2. Ai lớn hơn.

Một bé trai hỏi bố:

- Quỷ lớn hơn con không?

- Lớn hơn.

- Quỷ lớn hơn bố không?

- Lớn hơn.

- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?

- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỷ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:

- Vậy con không sợ quỷ.

3. Muốn làm lớn

Trong Thánh Kinh, heo là hình ảnh của ô uế và của thế lực gian tà. Làng Ghêrasa này đầy heo nhưng lại tiếc rẻ khi đàn heo ấy chết đuối. Họ lại còn xin Chúa Giêsu rời khỏi làng họ. Khi ta bám vào của cải vật chất thì ma quỷ cũng theo đó mà bám víu ta.

Có lần Napoleon cầm tấm bản đồ thế giới, chỉ vào nước Anh, tức tối nhận xét "Nếu không có cái chấm đỏ này thì Ta đã là bá chủ thế giới.

Ma quỉ cũng chỉ vào thánh giá Đức Kitô nói "Nếu không có chấm đỏ này thì ta đã bá chủ thế giới."

4. Ma quỷ đối nghịch với thập giá

Có một người đàn ông ở Scotland. Người này bị ngã gãy lưng vào năm 15 tuổi. Suốt 40 nằm trên giường bịnh, nỗi đau của ông không thề nào tả xiết. Nhưng ơn Chúa đã giúp ông luôn bình tâm chấp nhận. Có lần ông được hỏi:

- Có bao giờ ma quỉ cám dỗ ông không, chẳng hạn nó bảo ông Thiên Chúa là quan án nghiêm khắc để ông nghi ngờ tình Ngài.

Ông đáp: “Có chứ, nhiều lần lắm. Khi thấy người khác giàu có, Satan bảo: nếu Chúa tốt lành, hẳn Ngài đã cho anh khỏe mạnh giàu sang, chứ đâu anh phải khốn khổ như vậy.

- Thế ông làm gì khi Satan cám dỗ?

- À, tôi dẫn Satan đến núi Calvê, chỉ cho nó thấy Đức Giêsu với các dấu đinh và nói: “Ngài không yêu tôi đó sao? Thế là nó cút, để tôi yên."

Tin Mừng được loan báo cũng có nghĩa là quyền lực của Satan bị đẩy lui.

5. Thua để được

Nhạc sĩ hòa tấu Itahak Perlman nói đến hai sự kiện xảy ra khi ông chưa đầy 4 tuổi, đã định hướng tương lai của ông: Ông bị bại liệt và được nghe vở kịch Jascha Heifetz. Căn bệnh bại liệt tước đi đôi chân của ông, nhưng âm nhạc của Heifetz chắp cánh cho ông. Nó cho ông ước mơ và thúc đẩy ông theo đuổi những gì lớn lao. Perlman là một phản ánh hiện đại mờ nhạt về những vị anh hùng trong Kinh thánh. Những vị này cũng đã đau khổ nhiều, nhưng các vị đã có một ước mơ thúc đẩy các vị theo đuổi những gì lớn lao.

Đâu là ước mơ thúc đẩy tôi tiến bước, ngay cả những lúc gặp thử thách đau thương?

Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta (Rm 8,18).

6. Một sự nhịn là chín sự lành

Trên một chuyến tàu lửa có một người cha và đứa con trai của ông. Khi nhân viên kiểm soát đến soát vé, ông ta nói với người cha một cách giận dữ và nhục mạ. Nhưng người cha đã không nổi giận. Ông giữ bình tĩnh và yên lặng. Sau chuyện này, đứa con trai hỏi: “Bố ơi, tại sao bố không chửi lại ông ấy?" Người cha trả lời: “Tại sao à? Con người đáng thương đó có chuyện rắc rối và phải chịu đựng bản thân mỗi ngày, còn bố chỉ phải chịu đựng ông ta một phút thôi."

Tôi có thường phản ứng cách giận dữ khi có ai đó xử tệ với tôi không? Cái gì đã làm cho tôi phản ứng theo cách đó?

Nếu chỉ có một điều nhỏ nhặt cũng làm bạn nổi giận, thì chính điều đó cũng nói lên bạn là người thế nào? (Sydney J.Harris).

7. Loan báo Tin Mừng trong cuộc đời cụ thể

Chàng thanh niên Rudell Norris nhận ra rằng qua bí tích rửa tội, mọi tín hữu được mời gọi đi loan báo Tin mừng. Trở ngại của anh là quá nhút nhát: Làm sao có thể rao giảng Tin mừng được? Giaỉ pháp của Rudell thật khôn khéo: Anh ta dành một phần tiền trợ cấp của mình để mua sách báo về đạo và đặt chúng ở hành lang bệnh viện và ở những nơi thích hợp. Một ngày kia, anh nghe người ta nói: “Tôi bắt đầu tiếp xúc với Giaó hội qua một cuốn giáo lý mà tôi thấy được nơi hành lang bệnh viện.

Tôi sẽ làm gì cụ thể để góp phần loan báo Lời Chúa?

Khi Chúa dạy tôi hát bài ca của Ngài, làm sao tôi có thể ngừng cất tiếng ngợi ca?

8. Làm chứng cho lòng thương xót

“Kẻ trước kia bị quỷ ám” được Chúa sai đi về với thân quyến để rao truyền những việc Chúa làm cho anh. Anh không che dấu sự kiện trước đây mình bị quỷ ám. Bị thống trị bởi cả một đạo binh quỷ có sức xô trọn một đàn heo trên hai ngàn con xuống Biển Hồ Galilê chỉ trong nháy mắt, tình cảnh của anh thật khốn cực: anh sống mà như chết, đi lang thang trong đám mồ mả; anh bị quỷ đày đoạ đến độ mất cả tính người: suốt ngày anh “tru tréo và lấy đá đập vào mình."

Trước tình cảnh đáng thương của anh, Chúa đã chạnh lòng thương ra tay cứu giúp và việc Chúa làm cho anh thật lạ lùng: quỷ bị trục xuất khỏi con người anh, anh được phục hồi trọn vẹn phẩm giá con người. Hơn nữa anh được Chúa đặt làm tông đồ (=được sai đi) để loan báo việc Chúa làm: Anh trở thành chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa.

Chúa không sai anh ta đi đâu xa mà đơn giản sai anh trở về với thân quyến để làm chứng cho lòng thương xót của Chúa. Cũng thế, Chúa không “cất” chúng ta khỏi thế gian; Ngài muốn ta loan truyền quyền năng và lòng thương xót của Ngài ngay tại nơi mình đang sống. Chỉ những ai cảm nghiệm sâu sắc ơn giải thoát, chữa lành của Chúa đối với bản thân, mới có thể “làm chứng” sống động cho Chúa và góp sức thu hẹp ảnh hưởng của sự dữ và tội lỗi.

9. Mời Chúa bước vào đời mình

Sau năm 1975, đã có một số tín hữu lặng lẽ đem ảnh tượng Chúa và Đức Mẹ đến nhà thờ trả lại. Họ xin thôi đi đạo vì sợ quấy rầy. Cũng như người dân Ghêrasa trong bài Tin Mừng, họ đã nài xin Chúa rời khỏi vùng đất, gia đình, cuộc đời của họ. Ít ra họ đã can đảm và thẳng thắn cho thấy sự chọn lựa của mình. Cho đến muôn đời, Đức Kitô vẫn đứng ngoài cửa, gõ cửa và chấp nhận chờ đợi sự đáp ứng mang tính may-rủi, tùy hứng của con người. Đang khi ấy, tự cho mình là người Kitô hữu 100%, ta lại không dành cho Ngài đúng 100% mặt bằng cuộc sống của mình. Xem ra Đức Kitô chỉ thật sự là Chúa trong giờ phụng vụ ở nhà thờ hay giờ kinh nguyện ở gia đình. Ngoài ra, ta lặng lẽ khoanh vùng hạn chế, xin Chúa đừng vào, để cuộc sống ta không bị xáo trộn, và ta có thể yên thân với lối sống mòn của mình.

Có lẽ bạn đã nhanh chóng nhận ra một số khu vực hạn chế với Đức Giêsu trong cuộc đời mình. Bạn đừng sợ mời Ngài vào căn nhà cuộc đời, cũng đừng sợ Ngài sẽ làm rối tung cuộc sống an nhàn, hưởng thụ thoải mái của mình. Quả thật, với Ngài, bạn phải đổi mới lối nghĩ nếp sống, nhưng tâm hồn bạn sẽ được an bình hạnh phúc thật sự.

Bạn thường nài xin Chúa đừng vào những khu vực hạn chế nào trong cuộc sống hằng ngày của mình?

Tôi sẽ nỗ lực mời Chúa làm chủ tể cuộc sống mình, không chỉ trong giờ thờ phượng, nhưng trong mọi khoảnh khắc cuộc đời mình.

10. Mạnh vô song

 “Một bạo chúa gọi một anh thợ rèn đến, ra lệnh cho y làm một sợi xích. Hoàn thành, y mang đến; ông ra lệnh làm nó gấp đôi. Anh lại mang đến; ông ra lệnh làm gấp đôi một lần nữa. Lần thứ ba, bạo chúa truyền trói tay chân người ấy bằng chính sợi xích anh làm, tống anh vào ngục. Đó là những gì đang Satan làm! Nó bắt nạn nhân rèn xiềng xích cho mình, trói tay chân họ và ném vào ngục. Mọi tội nhân đang chịu như vậy! Nhưng tạ ơn Chúa! Bạn hãy nói với họ về ‘một Ai đó’ có thể giải cứu. Đức Giêsu Kitô, Đấng ‘mạnh vô song’, Đấng tháo cởi mọi gông cùm, nếu họ kíp chạy đến với Ngài!” - Spurgeon.

Lời Chúa hôm nay nói đến ‘một Ai đó’ ‘mạnh vô song’ mà Spurgeon vừa tiết lộ; đồng thời, phản ánh thực trạng vô vọng của một tội nhân bị xích xiềng: Một vị vua trốn chạy con mình; một người quỷ ám chạy trốn đồng loại. May thay, cả hai gặp Đấng ‘mạnh vô song!’.

 

THỨ BA - TIN NƠI CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Mc 5, 21-43

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống." Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành." Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi: “Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh."

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin." Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê.

Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó." Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: “Talitha, Koumi!", nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.

TRUYỆN KỂ

1. Đụng đến áo

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài.

Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.” Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa. Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.

2. Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới."

Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.

3. Lòng tin thấy được qua việc làm

Một tác giả người Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau: Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.

Một ngày Chúa nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.

Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa

4. Phép lạ còn đòi phải có lòng khiêm nhường.

Ông trưởng hội đường Giairô hôm nay đã diễn tả lòng tin tưởng với khiêm nhường thẩm sâu. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá.

Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu sắc của ông, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống."

Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

5. Biết lưu tâm đến người khác.

Vào tháng hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.

Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.

Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:

- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.

Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị tên là Mai Hương.

Vâng, chúng ta hãy học tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.

6. Cầu nguyện chân thành đến đâu?

Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."

Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.

Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.

7. Tin cho đến cùng

Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang 1 màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang 2 màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang Nước Trời.

Sau khi nhập đạo ít lâu, người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô. Bà vợ nói "Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hi vọng Chúa sẽ cho ông sạch tội mà vào thiên đàng." Ông đáp "Không, hãy mở trang 2 cho tôi." Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách tượng trưng máu Chúa Kitô.

8. Cái nhìn của đức tin

Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:

Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.

Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.

Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.

Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nỗ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!

9. Chỉ cần có đức tin

Nick Vujicic, một người Úc gốc Serbia từ khi sinh ra đã không có tay và chân. Từ nhỏ anh đã từng tuyệt vọng và có ý định tự tử, nhưng nhờ tình thương của cha mẹ và nhờ đức tin, anh đã vượt qua mọi trở ngại của một người khuyết tật và sống rất lạc quan. Anh đi khắp thế giới để làm chứng về niềm tin vào Đức Giê-su của mình.

Trong lần đến Việt Nam vào ngày 23/5/2013, trên sân vận động Mỹ Đình Hà Nội, anh đã lớn tiếng tuyên xưng niềm tin đó trước hàng ngàn khán giả. Anh đã sống niềm tin của mình cách thiết thực nhất, đó là sự tin tưởng, tha thứ và yêu thương. Khi Chúa Giê-su chữa lành người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm và cho con gái ông trưởng hội đường đã chết được sống lại, chính Ngài đã xác quyết điều này: “…đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”

Trong cuộc sống hằng ngày, những thử thách của bệnh tật và đau khổ luôn làm chúng ta lo lắng và mất niềm tin vào Chúa. Chúng ta cũng thường bị cám dỗ đi tìm lời giải đáp ở những việc mê tín dị đoan. Chính Chúa đang mời gọi bạn hãy sống phó thác và đặt trọn niềm tin vào Ngài.

10. Đức tin cần sự hợp tác

Câu chuyện xảy ra vào mùa hè ở vùng đất nọ. Trong một trận lụt dữ dội, có một bà già bị kẹt trong căn nhà của mình. Đang khi đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra, bà thấy có một chiếc thuyền xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà: này bà hãy leo lên thuyền để thoát nạn. Bà lão đáp lại: không, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi. Người lái thuyền lắc đầu bỏ đi.

Ngày hôm sau cơn lụt dâng cao đến tầng thứ hai của căn nhà, thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái liền thuyền bảo bà: hãy lên thuyền để thoát nạn. Lần này người lái thuyền cũng nghe cùng một câu trả lời như trước.

Ngày kế tiếp, con nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi ngồi trên nóc bà thấy có một chiếc trực thăng hiện ra, viên phi công dùng loa gọi vọng xuống: tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên, bà sẽ thoát nạn. Lần này bà già cũng nói: không cám ơn, tôi tín thác vào Chúa và Ngài sẽ cứu tôi. Viên phi công lắc đầu bỏ đi. Và thế là bà lão đã bị chết chìm khi cơn nước lũ phủ ngập căn nhà.

Khi được đưa về trời, bà nói với Thánh Phêrô: trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều: tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi phải chết chìm. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà rồi lên tiếng: tôi không hiểu Chúa Giêsu có thể làm thêm được điều gì giúp bà nữa, vì Chúa đã gửi tới cho bà hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì.

“Dựng nên con Chúa không cần có con. Nhưng để cứu chuộc con, Chúa lại cần có con." (th. Augustinô)

11. Ơn cứu độ cần một cái chạm tay

Nguyện đường Sixtina trong nội thành Vatican đã được Đức Giáo Hoàng Sixto IV cho xây cất vào cuối thế kỷ 15. Không những đây là nơi các vị hồng y tụ họp để bầu giáo hoàng, nơi tổ chức những buổi họp quan trọng, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện có những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo, nhà danh họa và điêu khắc lừng danh.

Một trong những bích họa nổi tiếng trên trần nguyện đường Sixtina là bức “Thiên Chúa Tạo Dựng.” Bức họa vẽ tả Thiên Chúa như một ông cụ già uy nghi đang giơ bàn tay hướng về Adam tượng trưng cho con người. Adam trong hình ảnh người đàn ông trần trụi, cũng đang giơ bàn tay hướng về Thiên Chúa.

Hình ảnh hai bàn tay, một của Thiên Chúa, một của con người đang cố vươn tới nhau để chạm vào nhau là một hình ảnh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Đang lúc con người không thể vươn lên tới Thiên Chúa, thì Người đã cúi xuống để chạm đến thân phận hư vô và thấp hèn của con người, để nâng con người đứng dậy trong sự hiện hữu của mình.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, chúng ta cũng bắt gặp những “cái chạm tay” đầy ý nghĩa giữa con người với Thiên Chúa và giữa Thiên Chúa với con người.

12. Những cái chạm tay

Vào tháng 12 năm 1986, khi Đức Tổng Giám Mục Canterbury, Robert Runcie đến thăm Dòng Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta, ngài đã quỳ gối xuống để hôn chân Mẹ Têrêxa. Đức Tổng Giám Mục không phải là kẻ độc nhất diễn tả tâm tình đó. Khi Mẹ Têrêxa đi đến đâu, đám đông thường vây quanh Mẹ để hy vọng được chạm đến Mẹ hoặc sờ chân Mẹ mà thôi.

Sở dĩ Mẹ Têrêsa được vinh dự đó, vì Mẹ đã để ra cả cuộc đời mình để chạm đến những thân phận đau khổ và bệnh tật, những người cùi hủi và nghèo khó nhất. Qua những con người bất hạnh đó, Mẹ đã đụng chạm đến chính Chúa Giêsu.

Hôm nay, hiện diện nơi những người anh em khốn khổ, Chúa cũng đang chờ đợi chúng ta đến để được chúng ta chạm đến. Và ở nơi bàn tiệc lời Chúa cũng như bàn tiệc Thánh Thể hằng ngày, Chúa cũng mời gọi ta đến để chạm đến Ngài. Chỉ cần được đụng chạm tới Ngài, cuộc đời ta sẽ hoàn toàn đổi mới.

Chúng ta cần có lòng tin để chạm đến Chúa. Và chúng ta cũng cần có sự nhạy cảm để nhận ra những “cái đụng nhẹ” của Ngài trong cuộc sống, khi Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì.

13. Con dạy cho mẹ biết yêu

John Killinger kể một câu truyện thương tâm. Gia đình sinh được một con trai, nhưng con trẻ bị bệnh tâm thần. Lúc đầu ba mẹ bị kích động mạnh nhưng họ rất yêu thương con. Họ xây một phòng bằng kính để bất cứ lúc nào họ cũng có thể nhìn thấy con.

Trong vòng 17 năm, người mẹ luôn bên cạnh con và đặt tay cạnh trái tim con. Nếu con có vấn đề gì, bà có thể thức dậy và giúp con thở. Suốt 17 năm trời, bà sống như thế. Vào một ngày vắng mẹ, cậu lên cơn đau và đã ra đi trong an bình. Ôm xác con, bà mẹ cám ơn Chúa đã ban cho họ một người con. Người mẹ nói rằng: Cháu đã dậy cho chúng tôi thế nào là yêu.

Tình yêu Chúa dành cho nhân loại cũng thế. Chúa không chối từ bất cứ người nào chạy đến xin Chúa chữa lành. Với trái tim đầy lòng thương xót, Chúa đã ở lại với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể để chúng ta tìm nơi ẩn náu và là nguồn linh thiêng chữa lành tất cả bệnh hoạn xác hồn.

14. Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.

Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (c.34).

Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36).

Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.

Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.

Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

15. Lòng tin đã cứu con

Mary Stevenson đã có một câu chuyện nên thơ về tình yêu Chúa:

 “Một đêm, tôi mơ thấy mình đang đi bộ trên bãi biển với Chúa. Các tình huống cuộc đời tôi lóe lên trên bầu trời. Trong mỗi tình huống, tôi để ý nhìn các dấu chân trên cát.

Có lúc có hai dấu chân. Có lúc chỉ có một dấu chân.

Điều làm tôi buồn lòng là những lúc tồi tệ trong đời, những khi tôi gặp đau khổ, tôi phải buồn phiền hoặc thất bại, lại chỉ thấy có một dấu chân.

Vì vậy, tôi đã thưa với Chúa, "Lạy Chúa, Chúa đã hứa với con, là nếu con theo Chúa, Chúa sẽ luôn đồng hành với con. Nhưng con thấy là trong những lúc gian nan nhất lại chỉ có một dấu chân trên cát. Tại sao khi con cần Chúa nhất, Chúa lại không ở bên con?"

Chúa trả lời: "Khi con chỉ thấy có một dấu chân là khi Ta bồng con lên."

16. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

- Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

17. Phục vụ sự sống

Một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một hôm cậu dậy sớm, bụng đói meo, mới nhớ ra là mình chỉ còn một hào nên chẳng biết ăn sáng làm sao. Cậu bèn gõ cửa nhà kế bên định xin một bữa ăn.

Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, cậu bỗng trở nên ngượng ngùng không dám xin ăn, mà chỉ xin một chút gì để uống. Người phụ nữ đoán biết cậu đang đói lắm nên mang ra cho cậu một ly sữa lớn.

Cậu chầm chậm vừa nhấp từng ngụm sữa vừa hỏi: “Thế cháu phải trả cô bao nhiêu ạ?” Người phụ nữ trả lời: “Cháu không phải trả gì cả. Mẹ cô dạy không bao giờ nhận tiền trả công cho lòng tốt!”

Cậu bé cảm kích đáp: “Thưa cô, cháu hết lòng biết ơn cô.”

Cậu đang ngã lòng, muốn đầu hàng trước số phận nghèo đói. Tấm lòng tốt của người phụ nữ làm cho cậu lại thấy có sức thúc đẩy mình vươn lên trong đường học vấn, và sau trở nên bác sĩ tiến sĩ Howard Kelli.

Một hôm có một ca bệnh ngặt nghèo và lạ lùng được chuyển đến các bác sĩ chuyên khoa thành phố nghiên cứu. Tiến sĩ Kelli được mời đến tham vấn. Khi đến phòng bệnh, ông… nhận ra vị ân nhân năm xưa của mình. Trở lại phòng hội chẩn, ông quyết định dốc hết tâm lực để cứu sống bệnh nhân.

Khi việc điều trị đã có kết quả tốt, tiến sĩ Kelli đề nghị phòng y vụ cho ông xem tờ hoá đơn viện phí của bà, và viết thêm vài chữ bên lề, rồi nhân viên bệnh viện trao tờ hóa đơn cho người bệnh.

Nhìn tờ hoá đơn, người phụ nữ buồn bã thấy rằng bà chẳng còn gì để trả được mọi chi phí. Nhưng bên lề tờ hoá đơn, bà thấy hàng chữ ngắn ngủi: “Trị giá hoá đơn = một ly sữa”, ký tên: Howard Kelli.

Là Đấng hằng sống, “Thiên Chúa không làm ra cái chết”, và “sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt” (Kn 1,13;2,23). Thế nên phục vụ sự sống là nét vẽ sau hết mà mỗi người được Chúa giao cho để hoàn tất công trình sáng tạo quí giá Chúa thực hiện nơi chính mình, khi dựng nên họ theo hình ảnh Ngài.

18. Tâm hồn đang sống

Cha Mello kể lại câu chuyện về một người đàn ông tại Bangladesh, một trong vài nước nghèo nhất thế giới: Sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ, ông đi bộ về nhà. Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới bóng cây ven đường và ngủ thiếp đi. Khuôn mặt tiều tuỵ của ông khiến người qua đường ngỡ ông là một hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài xu.

Khi thức giấc, ông hết sức ngạc nhiên vì thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu. Số tiền còn nhiều hơn một ngày công thợ. Ông mỉm cười với ý nghĩ mình là một người hành khất bất đắc dĩ.

Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn mày đui mù tàn tật, ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu được: được nhận lãnh và được chia sẻ là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.

Tôi cũng thế, chỉ là một người hành khất, nhưng với những gì Chúa ban, tôi hãy trở nên hình ảnh Chúa Kitô, nói với người khác lời phục vụ sự sống của Chúa: “Trỗi dậy đi.”

19. Bước nhảy của đức tin

Bệnh băng huyết là căn bệnh làm cho con người luôn ở trong tình trạng suy kiệt về thể chất và nhơ uế theo luật Môsê. Người bị bệnh này không được tiếp xúc với người khác, kẻo làm người khác cũng ra nhơ uế. Bệnh tật nào cũng khổ nhưng với căn bệnh này thì cái khổ và cái đau nhân lên gấp bội, nhất là mặc cảm về sự nhơ uế của mình. Người bệnh đã tốn tiền tìm thầy chạy thuốc mà bệnh không thuyên giảm, lại còn nặng thêm. Chính trong hoàn cảnh bị dồn đến chân tường, bệnh nhân đã quyết định: đặt niềm tin vào tình thương của Chúa Giêsu. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Bà đã thực hiện bước nhảy của niềm tin: từ chỗ tuyệt vọng sang chỗ hy vọng, từ người xa cách trở thành kẻ gần gũi với Ngài.

Giữa đám đông chen lấn, chỉ có con người đau khổ với bước nhảy của niềm tin đã thực sự chạm đến Đấng có năng lực chữa lành. Giữa cuộc đời đầy sự chết chóc này, mời bạn thực hiện bước nhảy của đức tin để chạm đến con người của Chúa Giêsu, để năng lực ban sự sống của Ngài đem lại cho bạn sự sống thần linh của Ngài.

Tôi “chạm” đến Chúa, để tín thác vào Ngài trong các việc nhỏ bé mỗi ngày, để hoàn toàn tín thác vào Ngài trong bước nhảy lớn lao hơn của đức tin.

20. Con mắt đức tin nhìn và thấy

Sandra Hook, một giáo viên người Canada đang làm công tác tự nguyện cho mẹ Têrêsa tại những khu ổ chuột Ấn độ. Một ngày kia, cô được yêu cầu tắm rửa cho một phụ nữ bị ốm. Cô rùng mình khi nghĩ đến điều đó. Chợt cô nhớ lại lời mẹ Têrêsa đã nói: “Khi chạm vào một người nghèo, bạn hãy làm như thể bạn đang chạm vào Chúa Giêsu tình yêu.” Lúc đó, Sandra nhìn người phụ nữ với con mắt đức tin và thấy chẳng khó khăn gì khi tắm rửa cho bà ta. Đó cũng là cách biểu lộ đức tin đơn sơ đã chữa lành người phụ nữ trong bài Kinh thánh hôm nay.

Niềm tin đơn sơ như trẻ thơ là gì? Làm thế nào để đạt được và làm cho nó trở nên sâu sắc hơn? Cái gì ngăn cản tôi trở nên trẻ thơ hơn trong đức tin?

Đức tin là con mắt để nhìn thấy Ngài, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Ngài (James Woodbridge).

21. Chúa cần sự hợp tác

Cách đây nhiều năm, Joseph Lewis, thủ lãnh nhóm Tự do Tư tưởng của Mỹ, đã tuyên bố nơi sân ga WMIE, bang Miami: “Nếu tôi có quyền lực như Chúa Giêsu đã có trong Kinh thánh kể lại, tôi không chỉ chữa lành cho một người mù, tôi sẽ làm cho bệnh không còn tồn tại. Tôi sẽ chữa không phải một người phong cùi, nhưng sẽ tận diệt bệnh phong”

Tại sao Chúa Giêsu không tiêu diệt bệnh tật, như mù lòa hay phong hủi? Lời đáp của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ trong Tin mừng hôm nay có thể gợi cho ta một câu trả lời như thế nào?

Chúng ta thường nhìn tới Chúa như nguồn lực cuối cùng và mong manh nhất. Chúng ta đến với Chúa vì không thể đi đâu khác hơn. Và rồi chúng ta học biết rằng bão tố trong cuộc đời không đưa chúng ta lên những mỏm đá, nhưng vào nơi ẩn náu chúng ta hằng ước mơ. (George McDonald)

22. Đức tin là chìa khóa vạn năng

Hai người, hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả hai đều làm chứng cho một điều là chỉ có lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu mới có thể cứu chữa họ, ngay cả khi tưởng như không còn tia hy vọng, không còn một lối thoát nào: Người đàn bà bệnh băng huyết 12 năm, không thuốc men nào chữa lành, nhưng chỉ cần sờ vào gấu áo Chúa với lòng tin là được khỏi ngay lập tức. Con gái ông Giaia, trưởng hội đường, đã chết rồi nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi;” và quả thật, Chúa đã cầm tay em và cho em sống dậy. Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là chìa khoá vạn năng mở được mọi cánh cửa trong hành trình đức tin của chúng ta.

Hẳn bạn có lúc phải ngậm ngùi nếm mùi ê chề của thất vọng; hoặc có khi bạn đã gặp những con người đáng thương đứng bên bờ vực thẳm tuyệt vọng, thậm chí đến mức tự kết liễu đời mình. Trước hoàn cảnh bi đát đó, lòng tin vào Đức Kitô chính là liều thuốc thần hiệu có thể chữa lành. Mời bạn hãy đến với Ngài bằng cuộc sống cầu nguyện thân mật để thắp sáng đức tin trong lòng bạn và để bạn khơi lại niềm tin nơi những tâm hồn đang rơi vào tuyệt vọng ở quanh bạn.

Hãy chia sẻ kinh nghiệm về việc bạn tìm lại được niềm tin nhờ kiên trì trong lời cầu nguyện.

Duy trì nề nếp cầu nguyện riêng với Chúa hằng ngày, nhất là những lúc gặp khó khăn, thử thách.

23. Liều lĩnh tin

 “Một trong những lý do khiến nhiều người trưởng thành ngưng phát triển và học hỏi là vì họ ngày càng ít sẵn sàng chấp nhận rủi ro và thất bại! Cũng thế, trong đời sống đức tin, các Kitô hữu không lớn lên được; bởi lẽ, họ không dám liều lĩnh tin!” - John Gardner.

Khác với nhận định của John Gardner, phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy những con người trưởng thành trong đức tin. Đó là một Đavít thời Samuel; một Giaia, trưởng hội đường, và một phụ nữ băng huyết thời Chúa Giêsu. Họ là những con người ‘liều lĩnh tin’, những con người dám thưa lên “Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con!” giữa tuyệt vọng.

 

CHÚA GIÊSU TẠI QUÊ HƯƠNG NADARÉT

Lời Chúa: Mc 6,1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình." Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

TRUYỆN KỂ

1. Quyền lực âm thầm

Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:

- Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.

Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.

Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:

- Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.

Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria.

2. Từ chối sự thật bởi định kiến

Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…

Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc."

Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ … con cóc."

Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.

Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa."

Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình.

Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách không chấp nhận những sự thật không đúng với xét đoán mang tính so đo hơn thua vị kỷ của mình.

3. Đâu có tình yêu thương ở đó có Thiên Chúa

Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hymãlạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước đây tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn nhận thêm người tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sỹ thì lèo tèo vài người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sỹ ấn giáo cho biết nguyên nhân hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện đến tình trang trên đây. Tu sỹ ẩn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình." Và ông giải thích: “Chúa Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài."

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và thông báo cho họ biết Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một ngươì trong nhà. Các tu sỹ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Chúa Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Chúa Cứu Thế.

Vậy từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm tin đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn.

4. Lấy con dê làm bài thuốc hạnh phúc

Có một nhà hiền triết nọ, chuyên cố vấn giúp đỡ những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cứ ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được từ ông những lời khuyên thiết thực…

Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin ông giúp đỡ. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và 7 đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì sự quấy phá của 7 đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ trẻ. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.

Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau:

- Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh.

Người đàn ông đáng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng vẫn đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu góp hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những không giúp được gì mà còn phóng uế nhơ bẩn kêu la be be om xòm suốt ngày. Cái xưởng may của anh ta vốn đã ồn ào nay lại biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu được…

Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh:

- Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác.

Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Khi về đến nhà, người đàn ông nhìn xuống sàn nhà của xưởng may rồi mỉm cười nhìn những đứa con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của mình, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn nhiều. Anh nở một nụ cười thật tươi vì chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc bằng ngày hôm đó.

5. Giá trị bị đảo lộn

Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.

Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 10.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 10.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 10.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.

Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên có thể mua lầm một cách tai hại.

Đó là câu chuyện có thực trong xã hội hôm nay: Các giá trị của đời sống con người hôm nay cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến rất nhiều người tôn vinh tiền tài của cải mà xem thường luân thường đạo lý, đánh giá cao những gì phù phiếm bên ngoài mà coi rẻ phẩm chất cao đẹp của con người. Thế là những điều phù phiếm được lên ngôi trong khi những phẩm chất cao đẹp của con người bị đẩy xuống hạng thấp kém.

Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"

Lạy Chúa Giê-su, Xin giúp chúng con “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”

6. Yêu bác thợ mộc

Một ngày kia, có đoàn khách làm việc từ thiện đến thăm một viện phong. Khi thấy một nữ y tá đang chăm sóc một người bệnh rất tận tụy, một ông khách dừng lại và hỏi thăm về gia cảnh của cô y tá. Cô y tá trả lời: “Tôi chưa lập gia đình, nhưng đã có người yêu. Người yêu của tôi là một bác thợ mộc.”

Đó chính là một cô gái đã tận hiến cuộc đời trong một tu hội đời. Cô từ khước cuộc sống gia đình, tình nguyện phục vụ các bệnh nhân đau khổ. Bác thợ mộc kia chính là Chúa Giêsu, người yêu muôn thuở của cô.

Xưa kia “bác thợ mộc” ấy đã bị coi thường và bị từ chối tại quê quán mình. Chớ gì hôm nay “bác thợ mộc” ấy vẫn mãi là người yêu dấu của muôn trái tim con người.

7. Trường dạy chân lý

Chúa có thể dùng quyền phép để mọi người công nhận lời Chúa rao giảng, nhưng rồi Chúa cũng tôn trọng quyền tự do con người. Con người nhận hay không nhận chân lý, mỗi người đều có tự do lựa chọn, và cũng vì tự do này, con người mới được công phúc hay mới bị trừng phạt.

Bài học đặc biệt Chúa muốn dậy ta là: mọi việc ta làm, mọi dự tính của ta không phải lúc nào cũng trôi chảy, lúc nào cũng kết quả như lòng ta mong muốn. Chính Chúa đã qua những thất bại, thất bại một cách chua cay ở Nazareth, trước mặt đông đảo quần chúng, thì chúng ta ở đây, mỗi lần ta gặp những rủi ro trái ý, vì lý do nọ, lý do kia, ta bị nghi oan, bị người khác hằn học, công việc của ta không trôi chảy, thì chúng ta hãy nghĩ tới những chi tiết của bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh Anphongsô có nói: “Khoa học của các thánh, hệ tại kiên trì chịu đau khổ vì Chúa Giêsu, đó là phương tiện tự thánh hóa một cách mau chóng.”

Một hôm cha Jérome Natalis hỏi thánh Inhatiô: “Con đường nào, ngắn nhất và chắc chắn nhất để đi tới trọn lành, đi tới nước trời?” Thánh Inhatiô đã trả lời: “Đó chính là biết chịu đựng những nghịch cảnh lớn lao vì lòng mến Chúa Giêsu Kitô.”

8. Chúa Giêsu đóng đinh Philatô

Đức Cha Sanh, (giám mục giáo phận Sàigòn 1942-1955) đã thuật lại câu truyện sau:

Chịu chứng Linh Mục xong, Ngài sang Việt Nam và được bổ coi xứ Di Linh. Ngày từ lúc tới Di Linh, ngài đã phải vất vả, tự tìm hiểu tiếng nói sắc tộc Kô Hô…

Tuy chưa am tường ngôn ngữ của họ Ngài cũng cố dịch một số kinh cần thiết như kinh Lậy Cha, kinh Tin kính… ra tiếng Kô Hô. Riêng kinh Tin Kính, Ngài đã dịch sai câu “chịu nạn thời quan Phongxiô Philatô chịu đóng đinh trên cây thánh giá.” Ngài dịch sai thế nào mà toàn thể xứ đạo đều hiểu là Quan Philatô chịu đóng đinh trên cây thập giá và tai hại hơn, khi có dịp kiểm tra giáo lý thì các ông bà già tới con nít đều hiểu là chính Chúa Giêsu đã đóng đinh quan Philatô.

Ngài vội dịch lại câu đó, rồi tập hợp bổn đạo, dậy họ đọc và hiểu cho đúng là quan Philatô đã lên án đóng đinh Chúa Giêsu, chứ không phải Chúa Giêsu đóng đinh quan Philatô.

Nhưng ngay lúc đó, một cụ già (vào loại am hiểu giáo lý nhất trong xứ đạo) giơ tay xin phát biểu ý kiến, cụ nói: “Xin cha cứ để đọc như cũ, đừng sửa lại, là vì Chúa Giêsu là con Đức Chúa Trời, phép tắc vô cùng, ngài đóng đinh người quan Philatô cũng được, chứ đóng đinh một quan Philatô, thì đã ăn nhằm gì!”

 “Ai muốn theo ta, thì phải quên mình, phải vác thập giá mình mà theo ta” (Lc 9,23). Tôi có coi lời Chúa dạy là một nghịch lý không?

9. Biển nằm ở đâu?

Một con cá biển nói với một con khác: “Xin lỗi anh, anh lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm hơn, tôi hy vọng anh sẽ giúp được tôi. Hãy vui lòng nói cho tôi biết cái mà người ta gọi là biển nằm ở đâu? Tôi đi tìm hoài mà chẳng tìm được gì cả.”

“Anh tìm biển ư? Nhưng đây là biển mà.” Con lớn tuổi hơn trả lời.

“Ồ, đây là biển à? Tôi chỉ thấy toàn là nước, cái tôi đang tìm là biển chứ”, con cá trẻ tỏ ra rất thất vọng, rồi tiếp tục bơi đi chỗ khác mà tìm.

Chúa luôn ở giữa Dân Chúa. Thế nhưng chỉ vì lòng chai dạ đá mà họ không nhận biết Ngài, như lời Chúa than thở với Êgiêkien khi sai ông đến với họ: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2,3).

10. Để được Chúa làm phép mầu

Khi một nhóm giáo sư Hoa kỳ đến thăm Mẹ ở Calcutta, họ đã hỏi Mẹ cách giữ gìn bầu khí gia đình.

- Hãy mỉm cười với vợ bạn, mỉm cười với chồng bạn.

Một người chưa kết hôn hỏi Mẹ:

- Mẹ có lập gia đình không?

Trước sự ngạc nhiên của họ, mẹ trả lời:

- Có, và tôi thấy rằng đôi khi tôi thật khó mỉm cười với Chúa Giêsu. Có lúc Ngài đòi hỏi rất khắt khe.

Như dân Nagiarét chỉ thấy nơi Chúa một anh thợ, Nước Trời không thể đến, Đức Kitô cũng không thể làm phép lạ cho ai tìm đến Chúa chỉ với những ước vọng thế tục, khấn với Chúa như một đối tác kinh doanh.

Đòi hỏi khắt khe Chúa đưa ra cho dân làng Nagiarét xưa và cho chính tôi hôm nay là phải thay đổi chính mình, vượt qua cái nhìn thế tục để nhìn ra vẻ đẹp của sự khôn ngoan thiên quốc trong giáo huấn Đức Kitô. Nếu không, “Người không thể làm một phép lạ nào!”

11. Ai ghen tỵ là tự sát

Thế vận hội phát xuất từ những môn chơi của Hy Lạp diễn ra trên vùng thảo nguyên Olympia vào năm 766 trước Công nguyên. Những thị trấn cổ thường tỏ lòng kính trọng những người chiến thắng bằng việc dựng lên một tượng đài danh dự. Có câu truyện Hy Lạp kể về một thị trấn có truyền thống kính trọng vị anh hùng của địa phương mình. Đối thủ của vị anh hùng ganh tỵ đến nỗi một đêm kia đã đập phá và xô đổ bức tượng. Bức tượng đổ xuống và đè bẹp anh ta. Câu truyện nói lên thảm kịch của lòng ghen tỵ dẫn đến “gậy ông đập lưng ông." Sự lây nhiễm của ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến các tiên tri thường không được kính trọng ở quê hương mình.

Ghen tỵ là nhân tố đã ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống và công việc của tôi? Tôi có thể làm gì để đi ảnh hưởng của nó?

Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi (McKenzie).

12. Người có giá trị không sợ bị chối từ

Cha Paride Taban trở về Sudan sau khi được thụ phong linh mục tại Uganda. Ban đầu, đồng bào của ngài gạt bỏ ngài. Họ nói: “Ông mà là một linh mục ư? Thật khó tin. Ông cũng da đen như chúng tôi và cũng là thành viên của bộ tộc Madi này. Làm sao ông có thể là linh mục của Chúa như những nhà truyền giáo da trắng?” Paride đã trả lời họ bằng giọng thông cảm. Hai năm sau những kẻ chối bỏ ngài đã đón nhận ngài với một tình cảm sâu sắc.

Việc Chúa Giêsu và cha Paride bị khước từ mời gọi tôi tự hỏi: tôi đã chấp nhận ra sao khi bị chối bỏ, đặc biệt là bởi những người tôi yêu mến?

Để giữ trạng thái cân bằng, người nào đó đã có một con chó tôn thờ anh ta, thì cũng nên có một con mèo phớt lờ anh ta.

13. Thôi hững hờ

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở lại quê nhà và những người đồng hương vô thừa nhận Ngài. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi ‘thôi hững hờ’ trước quà tặng của Chúa!

“Bởi đâu ông ta được như thế? Trước những dấu chỉ cho thấy nguồn gốc và sứ mệnh thực sự của Chúa Giêsu, đồng hương của Ngài sửng sốt và kinh ngạc. Ngài tỏ cho thấy quyền năng siêu việt của Thiên Chúa, giờ đây, thể hiện nơi những gì thuần tuý tự nhiên qua con người biệt danh “Bác thợ, con bà Maria." Những phép lạ, những lời nói và việc làm mạnh mẽ của Ngài chỉ ra nguồn gốc thần linh của mình; đồng thời, mời gọi họ tin. Đó là một lời mời bỏ lại phía sau phạm trù hững hờ về một Giêsu như chỉ là một hàng xóm tốt bụng mà họ có thể có với Ngài trước đây; để từ đó, đón nhận món quà Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ. Điều này có nghĩa là họ cần thay đổi, hoán cải và ‘thôi hững hờ’.

 

CHÚA GIÊSU SAI ĐI MƯỜI HAI TÔNG ĐỒ

Lời Chúa: Mc 6, 7-13

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.

Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ."

Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

TRUYỆN KỂ

1. Đừng mang gì

Cha Piô Ngô Phúc Hậu vị tông đồ truyền giáo vùng sông nước mênh mông, đất đai thẳng cánh cò bay hiu quạnh ở vùng cực nam của Tổ quốc, cha chia sẻ về một trong những kinh nghiệm truyền giáo: Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu. Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.

- Thầy kiếm ai đó?

- Chào bác. Cây lựu nhà bác dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.

- Thì vô trong nhà uống nước đã.

- Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.

- Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.

- Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm?

- Ông tôi mất từ lâu rồi.

- Bây giờ bà Năm ở với ai?

- Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây?

- Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.

- Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.

- Thế bà Năm theo đạo nào?

- Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.

- Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.

- Ừa (Trích Nhật ký Truyền giáo, Bà Năm).

2. Thánh Phanxicô Assisi giảng đạo.

Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo." Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà”!

Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao”?

3. Thánh Vianney giảng đạo

Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.

Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người."

Đức Thánh cha Phaolô VI: ”Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là những chứng nhân."

Đã có lần Lênin nói về thánh Phanxicô Assisi như thế này: “Để có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy”

4. Điều kiện để rao giảng

Để tiện việc ôn thi đại học của đứa em, tôi phải thuê nhà trọ ở gần trường và ở chung với nó. rồi một buổi tối, trời mưa như trút nước, ba mẹ con hành khất đến xin chủ nhà cho ngủ trọ. Người chủ nhà từ chối và tìm cách đuổi khéo.

Nhìn bóng ba mẹ con hành khất khuất dần trong bóng tối, tôi cảm thấy sức nặng của Tin Mừng và những đòi hỏi quyết liệt của nó. Giả như các môn đệ của Chúa đến với tôi không bị, không bánh, không tiền, liệu tôi có thể tiếp nhận các Ngài không? Rất có thể một lần nữa, các Ngài sẽ bị xua đuổi hay khước từ.

5. Có siêu thoát mới giàu

Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo nhất nhì vùng.

Đây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình – Người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.

Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống tại đây, họ lại trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:

- Chuyến đi như thế nào hả con?

- Thật tuyệt vời bố ạ!

- Con đã thấy người nghèo sống như thế nào rồi đấy!

- Ô, vâng rất tuyệt!

- Thế con rút ra được điều gì từ chuyến đi này?

Đứa bé không ngần ngại:

- Con thấy chúng ta có một con chó, họ có tới bốn con. Nhà mình có một hồ bơi dài đến giữa sân, còn họ thì có cả một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào trong vườn, còn họ thì có cả một bầu trời sao lấp lánh suốt đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, còn họ thì nhà cửa rộng tít đến cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, còn họ thì có cả những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải có người phục vụ, còn họ lại phục vụ người khác. Chúng ta phải mua thực phẩm, còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở nhau…

Đến đây người cha không nói gì cả.

- Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi. Cậu bé nói thêm.

Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những gì mình chưa có hay không có.

6. Lời nguyện xin được sống tự do

W. Goethe nói: “Sự chiếm hữu có ý nghĩa gì đâu. Sự ưng thuận mới là tất cả”

Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa:

“Các con hãy cho họ ăn đi." Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.

7. Đừng mang theo bất cứ điều gì

Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và chữa lành, Người ban cho họ một huấn lệnh bất thường: "Anh em đừng mang theo bất cứ gì."

- Tại sao Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ đừng mang theo bất cứ gì nhưng hãy đi xin?

- Nếu sống trong thời đại ngày nay, liệu Chúa Giêsu có ban cho cùng một huấn lệnh ấy hay không?

- Điều gì sẽ xảy ra nếu Người làm như vậy? Thiên hạ sẽ phản ứng ra sao nếu có một môn đệ gõ cửa và xin ăn?

- Và ngay cả nếu người ta cho ăn ở đi nữa, làm thế nào môn đệ ấy có thể mời gọi chủ nhà hãy ăn năn sám hối và được chữa lành - tối thiểu là phần tinh thần?

Một vài năm trước đây, một linh mục trẻ tuổi dòng Tên, Richard Roos, cũng thắc mắc những câu hỏi trên. Người quyết định đi tìm câu trả lời.

Người được bề trên chấp thuận cho thực hiện 40 ngày Chay bằng cuộc hành hương đi bộ 800 dặm từ San Diego đến San Francisco. Các Kitô Hữu thời tiên khởi cũng hành hương với nhiều lý do - tỉ như, để bày tỏ sự tín thác vào Chúa, để thực sự tin tưởng vào lòng tốt của người dân, để cảm nghiệm thế nào là nghèo khổ.

Và vì thế người lên đường theo con đường truyền giáo xưa - bây giờ là xa lộ - của các thừa sai Tây Ban Nha đến truyền giáo tại California trong khoảng 1700.

Cha Roos đi bộ qua mưa nắng, gió to. Người tiếp tục đi, hết ngày này sang ngày nọ, bất kể đôi chân sưng vù và rướm máu - giống như các nhà thừa sai trước đây đã thi hành.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt. Người chỉ xưng mình là một Kitô Hữu đang làm cuộc hành hương mùa Chay.

Người đã được câu trả lời gì cho những thắc mắc của người? Cha Roos viết:

Mỗi buổi chiều vào lúc hai hay ba giờ là tôi bắt đầu lo lắng không biết sẽ ngủ đêm như thế nào...

Và dĩ nhiên, tôi cảm thấy bất lực vì nghèo. Khi bạn phải gõ cửa từng nhà... và xin tá túc cũng như thực phẩm... bạn sẽ thấy mình thật khiêm tốn.

Bạn hoàn toàn trông nhờ vào người khác. Bạn không còn quyền lợi và sức lực gì.

Người ta phản ứng thế nào khi thấy Cha Roos? Người viết:

Tôi chưa bao giờ bị đối xử cách tệ hại hay thiếu tử tế. Những người tiếp đãi tôi đều là Kitô Hữu thuộc đủ mọi giáo phái và ngay cả những người không có tôn giáo gì cả. Tất cả đều bàng hoàng với ý nghĩa của cuộc hành hương.

Người kết thúc bài tường trình với một nhận xét không ngờ. Nó liên hệ trực tiếp đến cách người rao giảng Phúc Âm. Người viết:

Nói chung, tôi thấy rằng sự hiện diện của tôi và cuộc đối thoại đã đem đến cho họ cũng như kiện cường niềm hy vọng của họ vào Thiên Chúa và vào sự tốt lành của con người.

Tôi không quen biết với Cha Roos. Nhưng từ những gì người viết, tôi biết Cha Roos là một người siêng cầu nguyện với đức tin sâu đậm và tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa và vào con người.

Tôi nghĩ ngay ở đây chúng ta đã có câu trả lời về cách Cha Roos rao giảng Phúc Âm trong cuộc hành hương.

Người đã rao giảng bằng đức tin và gương mẫu của người. Chính đức tin này và gương mẫu này đã lộ ra khi người nói chuyện với dân chúng.

Nói cách khác, người không rao giảng Phúc Âm bằng lời. Người rao giảng bằng một phương cách mạnh mẽ hơn: bằng sự hiện diện, đức tin, và gương mẫu của người.

Một vài năm trước đây, một số Kitô Hữu trẻ tham dự một cuộc cắm trại quốc tế. Họ đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Một vấn đề được đặt ra cho họ là hãy nghĩ ra các phương cách hữu hiệu nhất để rao giảng Phúc Âm trong thế giới hiện đại ngày nay.

Sau khi các người trẻ nói về việc sử dụng đến truyền hình, truyền thanh, trình diễn nhạc kích động, và các đại siêu thị, một cô gái người Phi Châu đã đánh động tâm hồn mọi người khi cô nói:

“Khi Kitô Hữu ở quê hương tôi nghĩ rằng một làng ngoại giáo nào đó sẵn sàng để theo đạo, họ không gửi sách vở hay các nhà truyền giáo. Họ gửi đến một gia đình Kitô Hữu tốt lành. Đời sống gương mẫu của gia đình này hoán cải cả làng.”

Và điều đó đưa chúng ta đến việc áp dụng bài Phúc Âm hôm nay cho mỗi một người trong chúng ta ở đây.

Chúa Giêsu muốn chúng ta rao giảng Phúc Âm trong thế giới ngày nay. Người muốn chúng ta thi hành việc ấy giống như Cha Roos đã làm, nhưng với một ngoại lệ.

Người không muốn chúng ta thi hành điều đó trong một cuộc hành hương mùa Chay.

Người muốn chúng ta thi hành điều đó ngay trong gia đình, nơi sở làm, và trong cộng đoàn chúng ta. Người muốn chúng ta thi hành điều đó theo phương cách mà cô gái Phi Châu đã đề nghị.

Người muốn chúng ta thi hành điều đó bằng đời sống của một người có đức tin sâu xa vào Chúa và vào con người. Người muốn chúng ta thi hành điều đó bằng sự hiện diện và bằng gương mẫu của chúng ta hơn là bằng lời nói.

Và nếu chúng ta thi hành theo phương cách đó, không những chúng ta sẽ kiên cường đức tin của những người chung quanh chúng ta, nhưng còn mời gọi họ bắt chước đức tin và đời sống cầu nguyện của chúng ta.

Thi sĩ Edgar Guest đã có lý khi ông nói:

Tất cả sẽ là phù phiếm khi rao giảng chân lý

Cho những đôi tai muốn lắng nghe của người trẻ...

Lời nói có thể chải chuốt cho sự khuyên giải

Nhưng người trẻ sẽ học từ cách bạn sống.

Và một người Bà La Môn ở Ấn Độ đã có lý khi nói với nhà truyền giáo Kitô Hữu như sau:

“Nếu Kitô Hữu các anh ở Ấn, ở Anh Quốc, hay ở Hoa Kỳ mà giống như trong Phúc Âm, anh sẽ chinh phục nước Ấn này trong năm năm.”

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu của Đức Hồng Y Newman:

“Lậy Chúa Giêsu, xin giúp con lan tỏa hương thơm của Người ở bất cứ đâu con đến. Xin hãy tràn ngập linh hồn con với thần khí và sự sống của Người. Xin hãy thấm nhập toàn thể con người con. Xin hãy chiếu tỏa qua con và trong con để bất cứ linh hồn nào con tiếp xúc sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa... Không có gì là của con, tất cả đều là của Chúa soi sáng người khác qua con. Con xin ca tụng Chúa theo cách Chúa ưa thích nhất... Không bằng lời rao giảng, nhưng bằng đời sống gương mẫu của con.”

8. Truyền giáo bằng cầu nguyện, hy sinh và gương sáng

Một hôm: vào dịp lễ Phục Sinh, một vị tổng thanh tra giáo dục đi săn tại miền Di linh. Lúc đó Di linh mà một khu rừng, chỉ có dân tộc thiểu số Kô Hô sinh sống. Hổ, nai, các thú rừng khác có rất nhiều. Vị tổng thanh tra này chưa biết đã có một làng cùi, do Cha Gioan B. Sanh thành lập. Nghe tiếng súng nổ, Cha Sanh ra gặp vị tổng thanh tra (Người Pháp) và nói cho Ông biết là không một ai được lai vãng tới khu vực này. Vị thanh tra bỡ ngỡ, và ra oai hỏi: “Ông lấy quyền nào mà ngăn cản chúng tôi”, Cha Sanh chỉ vào làng cùi và dẫn Ông vào coi. Vừa thấy những người cùi, Ông ghê sợ vội bỏ đi, và không cần ai ngăn cấm, Ông cũng không giám bén mảng đến khu vực đầy sợ hãi này. Tuy nhiên khi bỏ đi, Ông cũng tỏ thái độ bực bội với linh mục Sanh, và tỏ ra mình cũng có quyền giải tán làng cùi này. Nhưng rồi mấy tuần lễ sau: Cha Sanh đã nhận được một bưu kiện lớn, trong đó có nhiều thuốc men và dụng cụ y tế… kèm theo một mảnh giấy: “Tôi tặng Cha món quà này, để giải đáp câu hỏi, mà sự hiện diện những người cùi Di Linh, luôn gợi lại trong trí óc tôi.” Dưới ký tên Tổng thanh tra.

Cách bốn năm sau, khi Cha Sanh đã về nhận chức Giám Mục Sàigòn, thì vào một buổi trưa, ngài nhận được một bức điện: “Xin Đức Cha cấp tốc tới bệnh viện trung ương Nam Vang: Một bệnh nhận liệt nặng muốn gặp. Có xe tới đón.”

Xe đưa Đức Cha Sanh khởi hành từ Sàigòn lúc 6 giờ chiều, tới 10 giờ đêm mới tới Nam Vang. Ngài vào trọ đêm tại tòa giám mục Nam Vang. Sáng sớm hôm sau vào bệnh viện. Bệnh nhân liệt nặng này chính là vị tổng thanh tra, trước đây vẫn ác cảm với đạo. Tuy có rửa tội, nhưng đã bỏ đạo từ lâu. Từ ngày gặp linh mục Sanh ở Di Linh: hình ảnh một linh mục sống giữa những con người cùi ghê tởm, hy sinh băng bó vết thương cho họ, đã ghi sâu vào đầu óc Ông. Đó là một nhân chứng sống động của đức bác ái Kitô giáo. Ông đã tìm về với Chúa. Ông xin Đức Cha giải tội cho Ông, trước khi Ông từ giã cõi đời.

9. Từng hai người một

“Từng hai người một”, có nghĩa là hơn một người. Nếu hiểu rao giảng Tin Mừng là làm chứng, thì quả thật, hai người là cần thiết, vì: “nhất chứng phi, nhị chứng quả." Ngoài việc thiết lập tôn chỉ cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu chắc chắn còn nghĩ đến việc hình thành của Giáo Hội sau này. Ngài muốn cho Giáo Hội được hiệp nhất chính trong niềm tin và cả trong hoạt động để củng cố và phát triển niềm tin này. Từng “hai người một” nói lên sự đồng tâm nhất trí mà những người được sai đi phải luôn canh cánh như tôn chỉ hàng đầu. Nguyên việc sống hiệp nhất đã là một lời rao giảng, nên không có gì làm trở ngại cho việc rao giảng bằng đời sống thiếu hiệp nhất.

Trong cánh đồng truyền giáo, có những người cảm thấy bị cản trở khi có người anh em cùng làm việc bên mình và với mình. Bạn có thuộc thành phần đó không?

Một chuyên gia Nhật chia sẻ với các sinh viên Việt Nam: “Người Việt Nam các anh là những viên ngọc xinh đẹp, chỉ có thể đặt cạnh nhau thôi; người Nhật chúng tôi là những viên gạch, có thể xếp chồng lên nhau để làm nên một toà nhà.” Liệu người Việt Nam Công Giáo chúng ta có vượt qua được lời bình phẩm nhức nhối này không?

10. Đừng mang theo gì

E.B.Washburne mô tả tướng Grant đã tiến hành chiến dịch trong cuộc nội chiến như thế nào: “Tất cả phụ thuộc vào khả năng di chuyển nhanh. Điều quan trọn đối với tướng Grant là mang hành lý càng nhẹ càng tốt. Ông không mang theo cận vệ cũng chẳng có áo khoác ngoài, ngay cả một áo sơ mình sạch. Lúc đó tôi ở với ông và biết rằng toàn bộ hành trang của ông trong sáu ngày chỉ là một bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như những binh sĩ thường nhất, ngủ trên đất, và khỏi cần có gì đắp ngoài vòm trời.”

Gương của tướng Grant và lời Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: lối sống của tôi có giản dị không? Tôi lệ thuộc vào của cải vật chất ra sao?

Một nửa những phiền toái là do chúng ta không biết mình cần ít như thế nào (Tướng Richard Byrd)

11. Quả thận thánh

Vào ngày 13 tháng 11 năm 2009, theo tờ Dallas Morning News đã đưa tin, bà Carrie Gehling, 45 tuổi, đã bị mất cả hai chân vì bệnh tiểu đường, đau tim, và cần được ghép thận sau nhiều năm lọc thận. Bác sỹ cho biết bà đang gặp nguy cơ đến tính mạng. Trong lúc bệnh tật và khó khăn, Bà Gehling chạy đến Đức Ông và cũng là cha xứ Mark Seitz tại nhà thờ Saint Rita ở Dallas, tiểu bang Texas, để nhờ ngài tìm kiếm quả thận cho bà. Khi nhận được tin này, Đức Ông Seitz đã suy nghĩ, tại sao không phải là tôi? Sau đó, ngài quyết định tặng quả thận của mình cho bệnh nhân, ngài coi việc hiến tặng này là biểu lộ tình yêu và nhiệm vụ của linh mục. Ngài nói rằng: "Tôi noi gương Chúa Giê-su vì Ngài đã hy sinh mạng sống cho tôi, thì tôi cũng có thể cho đi một quả thận cho người đang cần được sống."

Hơn nữa, ngài rất ngưỡng mộ lòng dũng cảm của bà Gehling khi phải đối phó với căn bệnh khủng khiếp này, nhưng bà ấy luôn vẫn tin tưởng vào lòng nhân từ và tình yêu của Thiên Chúa khi tiếp cận với những người khác. Để có được đức tin mạnh mẽ như thế, thì bà ta cũng đã trải qua một kinh nghiệm về quá khứ của tuổi trẻ. Như lời bà Gehling nói với Dallas Morning News rằng: Khi được 20 tuổi, bà đã bị mất niềm tin một thời gian sau khi người cha qua đời vì căn bệnh đau tim. Một ngày kia, tôi tỉnh dậy và nghĩ rằng, mình thật là điên khùng. Bà nói tiếp: Nếu cha tôi còn sống sau cơn đau tim, thì ông ta chỉ sống như một loài thực vật. Vậy những gì Chúa đã làm là tốt nhất. Lời sau cùng, bà Gehling nói rằng: Không có từ ngữ nào có thể nói lên lời cảm ơn. Làm thế nào để có thể nói lời cảm ơn với một người đã cho bạn một cuộc sống mới! Bà đã gọi đây là quả "thận thánh", trong khi đó vị linh mục Seitz nói, món quà ấy chỉ là một cố gắng sống theo gương của Chúa Kitô.

Gương mục tử hiến tặng quả thận có thể dẫn đưa chúng ta đến gần với trang Tin mừng hôm nay về sự từ bỏ, quên mình và làm chứng cho Tin mừng, cho tình yêu Thiên Chúa một cách sống động và thiết thực hơn. Cha Seitz đã chia sẻ sự sống của mình cho bà Gehling, một người đang khát khao để được sống.

12. Gỡ bỏ hành trang

Ulysses Grant là tổng tư lệnh liên quân trong trận nội chiến, và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ. Ông K.B.Washburn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của ông Grant như sau:

“Khi ông Grant rời tổng hành dinh, mở một chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen các binh sĩ. Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không bị cản trở bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ, không đem theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông trong 6 ngày –tôi có mặt lúc đó- là chiếc bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như một người lính trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất."

Tướng Grant đi tay không. Đức Giêsu và các Tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những người lãnh đạo của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không giỏ xách, không tiền và không áo ngoài nữa."

Chúng ta phải làm gì? Bạn và tôi được gọi làm tông đồ để loan truyền sứ điệp của Đức Kitô bằng lời nói và việc làm.

13. Hãy đi

Một mẩu đối thoại vui giữa một tâm-hồn-được-sai-đi với Chúa. Những câu đối thoại ngắn thôi nhưng có thể nói lên được mấy đặc tính cốt yếu của việc truyền giáo:

- HÃY ĐI!, Chúa sai tôi.

- Chúa sai con đi sao?, tôi ngạc nhiên hỏi.

- Đúng, Ta sai con.

- Nhưng con chưa sẵn sàng, và đang mắc bạn bè, và con không thể xa gia đình. Chúa biết là không có ai thay thế cho con.

- Con đừng đánh trống lảng. HÃY ĐI!, một lần nữa Chúa sai tôi.

- Nhưng con không muốn đi.

- Ta đâu có hỏi là con muốn hay không.

- Xin Chúa hiểu cho, con là người có ít khả năng. Hơn nữa, gia đình con không thích thế, hàng xóm con sẽ nghĩ gì về con?

- Con đừng lo nghĩ vớ vẩn. HÃY ĐI! Chúa sai tôi lần thứ ba.

- Có thực là Chúa nhất định sai con không?, tôi ngập ngừng hỏi.

- Con có yêu Ta không?, Chúa hỏi lại tôi.

- Lạy Chúa, con sợ lắm. Người ta sẽ ghét con, cắt con ra từng miếng nhỏ. Con không thể một mình làm hết mọi việc.

- Con nghĩ rằng Ta ở đâu? HÃY ĐI!

Và tôi phải trả lời: “Lạy Chúa, này con đây. Xin hãy sai con.”

14. Bà mẹ truyền giáo

Trong một bài tiểu luận, một bé gái mười hai tuổi đã viết: “Khi tôi được yêu cầu viết về một nhà truyền giáo tôi biết, một vài nhân vật xuất hiện trong tâm trí tôi, như Mẹ Têrêxa, rồi tôi dừng lại và suy nghĩ: ‘Tôi không thể viết về một trong những người vĩ đại đó vì tôi không thực sự biết họ. Đúng là tôi đã nghe tên, đã đọc và nghe kể về họ, nhưng tôi không biết được họ như thế nào’.

‘Nhà truyền giáo tốt mà tôi nghĩ đến là mẹ tôi. Điều này nghe có vẻ lạ tai nhưng tôi chắc chắn là một nhà truyền giáo không cần được thụ phong. Việc truyền giáo của mẹ tôi là làm một bà nội trợ và một người mẹ cho tôi và cả gia đình. Mẹ tôi không bao giờ ích kỷ và coi mình là người thứ nhất trong gia đình. Tôi không bao giờ bị bỏ đói hoặc thiếu thốn tình thương dạt dào của mẹ. Đúng như các nhà truyền giáo, mẹ tôi phải can đảm nhiều lắm. Bà có thể dễ dàng chơi bingo và bỏ quên tôi, nhưng bà không làm thế. Hy sinh lớn nhất của bà là nghĩ đến tôi trước bản thân mình. Tôi thật may mắn có một bà mẹ truyền giáo.”

Chúa không sai tôi đi đâu xa, dạy những điều xa lạ, mà chỉ cần tôi để mặc Ngài làm việc trong tôi, như công cụ cho tình yêu của Ngài. Đó là truyền giáo.

15. Bình an cho ai có Chúa

Một người phụ nữ nói: “Tôi luôn cảm thấy rắc rối khi hòa hợp hai câu Kinh thánh: “Kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu của khôn ngoan” và Thiên Chúa là tình yêu” Thế rồi một hôm, tôi đọc được một điều giúp ích cho tôi rất nhiều, đó là câu nói của Rod McKuen: “Tôi yêu biển, nhưng điều đó không làm tôi cảm thấy ít sợ biển hơn”

Rod McKuen muốn nói gì, nó cho thấy một cái nhìn sắc sảo ra sao rằng tình yêu và sự kính sợ có thể cùng tồn tại trong mối quan hệ giữa tôi với Thiên Chúa?

Mong gặp Chúa, sợ mất Chúa, và tìm thấy niềm vui trong những gì dẫn ta tới Chúa. Hãy làm như thế và bạn sẽ gặp an bình lớn lao. (Thánh Têrêsa Avila)

16. Lời tâm huyết cho đời người

Grace Kelly, công nương xứ Monaco, là con gái của Jack Kelly. Ông này đã khởi sự lập nghiệp như một thợ nề ở Philadelphia, rồi trở thành giám đốc công ty xây dựng. Trong di chúc, ông đã viết cho con cái ông như sau: “Cha chỉ cho các con của cải thế gian. Nhưng nếu được lựa chọn, cha muốn cho các con phẩm cách” Trong bài đọc hôm nay, Đavít cũng đưa cho Salomon một ý tương tự.

Nếu hôm nay tôi chết, tôi sẽ nói với những người tôi yêu thương lời khuyên gì? Tôi thể hiện lời khuyên đó thế nào trong cuộc sống hiện tại của tôi?

Điều nghiêm trọng mà thế hệ trẻ phải đối diện, đó là tấm gương mà thế hệ trước để lại. (E.C. McKenzie)

17. Tại sao Chúa bảo không mang gì

Chủng sinh Richard Roos muốn biết rõ cảm giác khi không có đồ ăn thức uống và tiền bạc. Vào một Mùa Chay, anh đi ăn xin và cuốc bộ 800 dặm từ SanDiego đến San Francisco. Anh viết: “Mỗi buổi chiều, khoảng hai hay ba giờ, tôi bắt đầu thấy lo lắng không biết đêm nay tôi ngủ ở đâu. Và dĩ nhiên, tôi cảm nhận được sự bất lực của cái nghèo. Khi bạn đến gõ cửa để xin ăn và trú ngụ, bạn sẽ cảm thấy mình quá bần cùng. Khi bạn ngửa tay ra trước người khác và tùy thuộc vào sự định đoạt của họ, bạn không có bất cứ quyền lực nào cả”

Tại sao Chúa Giêsu bảo các môn đệ không mang tiền bạc hay lương thực? Liệu hôm nay người có còn nói với họ như thế không?

Khi một người bắt đầu mặc bộ đồ gấm, người ấy thật khó mà dậy sớm được (Jockey E.Arcaro).

18. Gia đình truyền giáo

Tại trại hè quốc tế với chủ đề loan báo Tin mừng, cô gái đến từ Phi Châu đã trình bày một phương cách gây ấn tượng nhất cho các tham dự viên qua kinh nghiệm sau đây: “Khi muốn rao giảng Kitô giáo cho một làng ngoại giáo, các Kitô hữu tại nước tôi không gởi đến đó sách báo hay các nhà thừa sai, nhưng cử đến làng một gia đình Kitô hữu tốt lành. Gương sáng của gia đình ấy sẽ cải hoá cả làng."

Đời sống thuận hoà yêu thương giữa vợ-chồng và cha mẹ-con cái, đặc biệt sự hoà hợp giữa hai con tim trong gia đình Kitô giáo luôn là dấu ấn cho các gia đình chung quanh. Nếu mỗi Kitô hữu là một tông đồ với sứ mạng đem Chúa Kitô đến cho người khác, thì mỗi gia đình Công giáo cũng phải là tổ ấm tông đồ tỏa lan ánh sáng Giêsu, là muối, là men Tin Mừng cho các gia đình hàng xóm lân cận.

“Hãy truyền đạo đức lại cho con cái bạn, chỉ có đạo đức mới làm chúng sung sướng, chứ không phải tiền bạc” (nhạc sĩ Beethoven). Nền tảng đem lại hạnh phúc cho gia đình là yêu thương quên mình và đạo đức, chứ không phải tiền bạc và tiện nghi hưởng thụ. Đó cũng là phương cách hữu hiệu để loan báo Tin Mừng cho người hôm nay.

Gia đình tôi sẽ hoạch định một phương cách cụ thể giới thiệu Chúa Giêsu cho các gia đình lân cận.

 

THỨ SÁU -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

 

Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch

THỨ BẢY - DUNG MẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Mc 6, 30-34

Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.

Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.

Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.

TRUYỆN KỂ

1. Dung mạo Chúa Giêsu

Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa.

Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi." Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được."

Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ."

Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương.

2. Dây cung sao không căng mãi?

Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?"

Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo căng ra?"

“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ đàn hồi và không thể bắn tên."

Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự chú tâm hoàn toàn của tôi."

3. Ly nước nặng bao nhiêu?

Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.

Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:

- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?

- Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ? Một khán giả nói.

- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.

Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi lại tiếp tục cầm nó lên."

Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào.

4. Động viên không cần lời

Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.

Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình.

5. Tình yêu biết quan tâm là sức mạnh cho cuộc sống

Cha Badinger Germain người Pháp kể lại rằng: “Một buổi sáng nọ tôi có hẹn với một thiếu nữ trong một quán cà phê vào lúc 6 giờ sáng. Cô ta thất vọng về cuộc đời. Tôi gắng hết sức để thuyết phục khuyên bảo cô, nhưng vô ích. Sau đó, đến 7 giờ 30 phút, cô phải đến sở làm. Đến 9 giờ cô điện thoại lại cho tôi. Giọng của cô thật vui tươi.

Ngạc nhiên, tôi hỏi lý do thì cô giải thích rằng:

- Chính người bán vé xe điện ngầm đã làm cô thay đổi. Và cô nói thêm: “Thực ra, lúc đầu con chỉ có ý gặp cha để than van chứ chẳng muốn nghe cha khuyên giải điều gì. Sau khi rời quán cà phê đi đến trạm xe điện ngầm, con đã gặp bà bán vé xe điện thật dễ thương. Bà đã cười thật tươi và nói:

- Chà, cô mặc áo đẹp quá. Màu thật là hợp với màu tóc của cô.

Ngạc nhiên, con hỏi lại:

- Tại sao bà lại khen tôi như thế ?

Bà ta giải thích:

- Cô coi, trong nghề của tôi, không có gì nhàm chán cho bằng cả ngày chỉ có một động tác đổi những vé xe điện ngầm này để lấy tiền. Vì thế, để tạo cho cuộc đời và công việc nhàm chán này một ý nghĩa, tôi cố gắng nhìn xem trong đám những khách hàng của tôi có điều gì để khuyến khích họ không, nhất là khi tôi thấy họ có vẻ buồn bực hoặc cáu kỉnh. Thí dụ, đối với ông nọ tôi nói: “Chà ông hai có cà vạt đẹp quá." Ông ta bèn chỉnh lại cà vạt rồi mỉm cười.

Vừa rồi khi thấy cô bước đến, đôi mắt đỏ hoe, tôi nghĩ: “Cô này chắc có điều gì đau khổ đây, mình phải nói một câu gì đó dễ thương với cô. Cô thấy không, làm như thế là đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa. Nếu tôi không làm như thế, thì trong nghề của tôi thực không có gì là thích thú."

Đúng là người phụ nữ bán vé xe điện ngầm này đã biết quan tâm đến người khác và sự quan tâm ấy đã đem đến một niềm vui thanh thản cho chị.

6. Đón nhận sức mạnh từ Kinh Thánh

Chúng ta biết thủ tưởng Ấn Độ là ông Gandhi, dù ông không phải là người Công giáo, nhưng ông rất say mê đọc Thánh Kinh, đây là sách gối đầu giường của ông, ông thường nghiềm ngẫm vài chương trước khi đi ngủ, và khi vừa thức dậy!

Nhờ đức tin này mà ông đã đuổi quân đội Anh quốc về, trả độc lập tự do cho dân tộc Ấn, không những thế, người Anh còn giúp Ấn Độ kiến thiết đất nước như một nước đồng minh!

Hỏi có nhà cách mạng nào trên trần gian này dành độc lập cho dân tộc lại không hao tốn tiền của, sức lực, xương máu? Chỉ có ông Gandhi, không mất một giọt mồ hôi, một đồng xu nào để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang.

Với trải nghiệm ấy, ông nói: “ĐỜI CHỈ THÀNH CÔNG, BAO LÂU NGƯỜI TA DÁM THÍ NGHIỆM SỐNG CHÂN LÝ!” Mà chỉ có Lời Chúa mới thực sự là chân lý! (x Ga 18,38)

7. Biết sống tự do

Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông. Ông hỏi: "Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?" Ngư phủ đáp: "Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?" Thương gia hỏi: "Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?" Ngư phủ hỏi lại: "Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?"

Vị thương gia trả lời: "Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền. Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi." Ngư phủ hỏi: "Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?"

Vị thương gia nói: "Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời."

Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả: "Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?"

8. Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ.

Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của nhiều người. Mỗi lời nguyện đều chất chứa nỗi lòng, tình yêu, sự tha thiết của những con người thích chìm trong cầu nguyện.

Lời cầu nguyện số 4 gây trong tôi nhiều cảm động và ấn tượng. Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn lao, lòng yêu mến chất chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà Vérônique, một phụ nữ Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi, nhưng phải sống và làm bạn với căn bệnh phong đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu nguyện của bà như sau:

“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay.

"Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con, thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

"Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm hồn...”

Lời kinh phản chiếu trái tim nhân hậu của Chúa Cứu Thế: "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều."

9. Cần nghỉ ngơi đôi chút

Một nhà thám hiểm vùng Amazon (Braxin) cố gắng thực hiện một cuộc hành trình cấp tốc băng qua khu rừng già. Tất cả đều tốt đẹp trong hai ngày đầu. Nhưng đến này thứ ba, những thổ dân khuân vác không chịu di chuyển, họ nói: “Chúng tôi không thể tiếp tục nữa. Chúng tôi phải để cho linh hồn và thể xác đồng nhịp với nhau.”

Tất cả chúng ta đôi khi cũng cần phải dừng lại một chút để linh hồn theo kịp thể xác. Tiến sĩ William G. Menninger viết: “Tôi khẳng định rằng các vị lãnh đạo cần dùng một ít thời gian để xem xét mình đang đi về đâu… Bạn có biết là mình đang đi đúng hướng không, và quan trọng hơn là bạn muốn đi về đâu?

Có ích lợi bất ngờ nào mà tôi đã cảm nghiệm được qua việc thực hành suy tư trong thinh lặng không?

Hãy ở yên tĩnh trong nơi vắng vẻ, và bạn sẽ gặp được Ngài trong chính bạn (Thánh Têrêsa).

10. Một mái chèo thuyền đứng tại chỗ

Có một tu sĩ trẻ thắc mắc về chăm ngôn của Dòng mình “Cầu nguyện và làm việc.” Rồi một ngày kia, Viện phụ bảo anh chèo thuyền qua hồ với ngài. Viện phụ chèo trước, nhưng chỉ với một mái chèo và kết quả là thuyền chỉ xoay tròn mà không đi được. Tu sĩ trẻ nói: “Thưa cha, nếu không chèo hai mái, chúng ta sẽ chẳng đi được.” Viện phụ trả lời: “Đúng, mái chèo bên phải là cầu nguyện, mái chèo bên trái là làm việc. Nếu không hài hòa được chúng, con vẫn chỉ ở trong vòng xoáy.”

Tôi có luôn cố gắng giữ cân bằng giữa công việc và cầu nguyện không? Tôi nhận thấy thế nào khi có sự cân bằng?

Mỗi kitô hữu cần cầu nguyện nửa giờ mỗi ngày khi bận rộn. Nếu không bận lắm, cần cầu nguyện một giờ mỗi ngày (Thánh Phanxicô Salêsiô).

11. Lòng nhân hậu

Trước tình trạng thất nghiệp trầm trọng, một nhân viên chính phủ xúc tiến việc trợ giúp nông dân nghèo hạt giống và một số cải tiến cần thiết. Ngày nọ, ông tình cờ gặp một phụ nữ ở khu đồi Tennesse. Bà sống trong một căn nhà sàn bẩn thỉu, các cánh cửa sổ phủ đầy hắc ín. Nhân viê chính phủ hỏi bà: “Nếu tôi cho bà 200 đô la bà sẽ làm gì?” Bà suy nghĩ một lát rồi nói: “Tôi nghĩ là tôi sẽ cho người nghèo”

Câu truyện về người phụ nữ sau đây và về Salomon mời gọi tôi tự hỏi: Tôi đã bị mù lòa độ nào bởi nhu cầu bản thân, đến nỗi tình yêu của tôi không thấy được nhu cầu của anh em?

Tôi đã gặp trên đường phố một thanh niên rất nghèo, nhưng biết yêu thương. Chiếc mũ của anh quá cũ, áo khoác rách rưới và nước thấm qua cả đôi giày, nhưng có những tinh tú lấp lánh xuyên qua linh hồn anh (Victor Hugo).

12. Cần có thời giờ để biết mình

Cách đây nhiều năm, bác sĩ W.R.Luxton đã viết: “Tôi không cường điệu về tầm quan trọng của thói quen suy tư trong thinh lặng đối với sức khỏe thể xác, tâm trí và linh hồn. Cuộc sống của con người thời đại cực kỳ bất ổn. Chúng ta cần phải khám phá đời mình trong thinh lặng và chậm rãi trước mặt Thiên Chúa”

Từ khi bắt đầu dành thời giờ để cầu nguyện và suy tư trong thinh lặng, kinh nghiệm ấy đã tác động tôi ra sao?

Đôi khi chúng ta phải đi đây đó để cảm nghiệm nỗi cô đơn. Chỉ những ai học cách sống trong cô đơn mới hiểu được mình và cuộc đời. Tôi ra khỏi nhà, dạo bộ, nhìn ngắm cây cối và bầu trời. Tôi lắng nghe âm thanh của cái vắng vẻ. Ngồi trên tảng đá… tôi nhủ thầm: Anh là ai, Sandburg? Anh từ đâu đến và đang đi về đâu? (Carl Sandburg).

13. Nơi thanh vắng

Tại một đại hội giới trẻ, một Giám mục Mỹ đã giảng một bài sôi nổi; trong đó, ngài lặp đi lặp lại ‘câu thần chú’: “Giáo Hội cần những Kitô hữu điên!" Quan điểm của ngài thật rõ, Kitô hữu phải đi ngược lại các xu hướng thời đại. Khi làm điều đó, bạn trông có vẻ “điên”, nhưng nó lại trông giống Chúa Giêsu. “Điên” khi Kitô hữu trở nên công cụ của Chúa cho tha nhân trong một thế giới ích kỷ; “điên” khi thực hiện công lý trong một thế giới bất công; “điên” khi yêu thương trong một thế giới hận thù; “điên” khi tha thứ trong một thế giới tranh chấp. Và hôm nay, bạn và tôi “điên” khi cần cho mình một ‘nơi thanh vắng’ trong một thế giới điên đảo xô bồ hơn bao giờ hết!

Thế giới đang quay; và xem ra mọi người đang biến ‘sự bận rộn’ thành một ‘huy hiệu danh dự’. “Mọi chuyện thế nào, thưa cha?”; “Khá điên! Khá bận!" Lời ấy mang một thông điệp ngầm, “Tôi đáng giá, vì tôi bận." Không! Đó không phải là ‘huy hiệu danh dự’, nhưng là dấu của một cuộc sống mất cân bằng, một sứ vụ mất cân đối, và một nội tâm mất chiều sâu!

“Mọi vấn đề của nhân loại đều bắt nguồn từ việc con người không thể ngồi yên lặng trong phòng một mình!” - Blaise Pascal.