CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
2 Sm 7,1-5, 8b-12,14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
1. Trời can thiệp
2. Emmanuel
3. Chúa ở cùng chúng ta
4. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
5. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
6. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
7. Giuse, người công chính
8. Sự công chính của Thánh Giuse
9. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
10. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng
11. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas
12. Hãy làm sáng danh Chúa Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
13. Đừng ngại
14. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
15. Truyền tin cho ông Giuse
16. Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng
17. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
18. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
19. E sợ
20. Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas
21. Điều kiện đón tiếp Chúa ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
22. Vâng phục trong trách nhiệm
23. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin
24. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
25. Giuse im lặng
26. Mộng báo
27. Đức Trinh Nữ Maria
28. Công chính
29. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
30. Chúa bước vào đời tôi
31. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?
32. “Ông Giuse là người chính trực”
33. Emmanuel
34. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
35. Đừng sợ – Lm. Nguyễn Minh Hùng
36. Điều xảy đến bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
37. "Giuse, con Vua Đavit" – Lm. Nguyễn Hùng
38. Khởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa
39. Thiên Chúa ở cùng chúng ta Noel Quesson
40. Chúa ở cùng chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
41. Emmanuel Thiên Chúa ở cùng chúng ta Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
42. Truyền tin cho ông Giuse
43. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
44. Tuân theo ý Chúa
45. Theo gương Mẹ Maria sống tâm tình Mùa Vọng
46. Rước Đức Maria về nhà – Lm Phạm Quốc Hưng
Đức Giêsu Kitô chính là ...L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Ngài là Đấng Emmanuel Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Thiên Chúa ở cùng chúng ta PM. Cao Huy Hoàng
Tiếng gọi tình yêu AM Trần Bình An
Thiên Chúa ở cùng chúng ta JM. Lam Thy ĐVD
Đừng sợ Lm. Nguyễn Minh Hùng
Thiên sứ báo tin cho Giuse Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Báo tin cho Giuse Fiches Dominicales
Chúa Kitô bước vào thế gian William Barclay
Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta Niềm Vui Chia Sẻ
Đấng Cứu thế được ban tặng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Đừng ngại Lm Giuse Đinh tất Quý
Thiên Chúa ở cùng chúng ta Catholic.org.tw
Chúa cứu thế giáng sinh Sưu tầm
Gia đình mẫu mực Suy niệm của JKN
Dòng tộc Sưu tầm
1. Dọn tâm hồn
Bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Samuel và bài Tin Mừng trích Phúc âm theo thánh Luca cho chúng ta hai hình ảnh về việc chuẩn bị một nơi cho Chúa ngự trị.
Hình ảnh thứ nhất, đó là hình ảnh vua Đavít. Thực vậy, sau những cuộc chinh chiến đầy vất vả, hòa bình đã trở lại. Nhà cửa được xây dựng bằng các thứ gỗ quí, ông mới nghĩ đến việc xây dựng một đền thờ để Hòm Giao Ước. Thế nhưng, Chúa đã phán cùng ông: Ngươi mà tính xây nhà cho Ta ở sao? Ngươi đi đâu, Ta cũng đã luôn ở với Ngươi.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria. Thực vậy, Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một thiếu nữ nghèo hèn, không vàng không bạc để có thể xây dựng một đền thờ nguy nga cho Thiên Chúa, nên chỉ biết dọn lòng mình cho tốt lành trước mặt Thiên Chúa, vậy mà Thiên Chúa đã chọn Mẹ để xuống thế làm người. Chính Chúa ở trong cung lòng Mẹ, nên Mẹ đi đâu, thì cũng đem đến sự tốt lành và mừng vui tới đó.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta nhận ra rằng: Chưa hẳn Chúa đã cần đến những đến những đền thờ, những thánh đường nguy nga tráng lệ cho bằng một cõi lòng đầy yêu thương chân thành. Do đó, để được gắn bó mật thiết với Chúa, không gì hay cho bằng chúng ta hãy dọn lòng chúng ta, mời Chúa ngự trị và chiếm lĩnh toàn bộ con người chúng ta, lúc đó chúng ta không phải chỉ kết hiệp với Chúa ở trong nhà thờ, mà ngay cả trong đời sống thường ngày, chúng ta vẫn có Chúa đi theo, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: Tôi sông, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Và lúc đó, chúng ta sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường rất trang nghiêm sốt sắng ở trong nhà thờ, nhưng một khi đã ra về và cửa nhà thờ đóng lại, chúng ta bước xuống cuộc đời và để Chúa lại trong nhà tạm. Có những trường hợp vừa ra khỏi thánh đường, chúng ta đã vội vã cư xử thù hận với nhau, còn thua cả những anh em lương dân.
Nếu chúng thục sự có Chúa ở trong tâm hồn, thì cuộc đời chúng ta sẽ an vui, hạnh phúc và bản thân chúng ta mới dễ cư xử chân thành và yêu thương đối với hết mọi người.
Người đời thường nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Nếu như chúng ta có một người anh, một người chị hay một người chú làm lớn, hẳn các em sẽ lấy làm hãnh diện lắm lắm. Còn nếu như bản thân chúng ta, một mai khôn lớn và bước xuống cuộc đời, chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thì người vui mừng nhất, theo tôi nghĩ, đó chính là người mẹ của chúng ta. Bởi vì người mẹ đã tốn biết bao nhiêu công sức để nuôi dưỡng và giáo dục chúng ta. Cũng chính người mẹ thường mơ ước cho chúng ta một tương lai huy hoàng nhất.
Trong trường hợp của Mẹ Maria thì khác. Với lời xác quyết của sứ thần Gabriel: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao trọng và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời. Hẳn Mẹ cũng đã biết rằng người con mình sinh ra là ai? Là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Mẹ không bao giờ vênh vang tự đắc về tước vị của mình, trái lại Mẹ luôn khiêm tốn nhận ra rằng: Mình chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã thưa lên cùng sứ thần Gabriel: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần Gabriel truyền.
Chính thái độ khiêm nhường của Mẹ đã làm cho Chúa được hài lòng và Ngài đã cắt đặt Mẹ lên một tước vị cao trọng, tước vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Ngài hạ bệ những kẻ quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đáng suy nghĩ về vấn đề này. Một Lucifer kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa, nên đã bị kết án hoả ngục đời đời. Một Adong Eva cũng chỉ vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên đã bị kết án đau khổ và chết chóc.
Trong khi đó những người khiêm nhường luôn luôn được Chúa yêu thương và chúc phúc. Chẳng hạn Đavit, một cậu bé chăn chiên, đã được Chúa nâng đỡ phù trì, đánh thắng Goliah. Và khi Đavit khiêm nhường thú nhận tội lỗi của mình, thì đã được Chúa tha thứ, để rồi Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi Đavit. Và Mẹ Maria ngày hôm nay là một mẫu gương đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đang khi Mẹ hạ mình xuống làm người tôi tớ, thì Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên làm Mẹ của Đấng Cứu Thế như lời Ngài đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Cũng như Ngài đã truyền dạy chúng ta: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường để nhờ đó chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, một hài nhi nhỏ bé và yết ớt nơi máng cỏ Bêlem.
Nhân vật cuối cùng mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong mùa vọng đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, điểm nổi bật của Mẹ Maria không phải là việc Mẹ được lôi kéo vào những sự kiện lạ lùng, nhưng chính là thái độ của Mẹ trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra một cách khác thường. Không giống với một Giacaria ngờ vực, Mẹ Maria đã trả lời: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Một lời xin vâng có tính cách phó thác, dấn thân vào một công trình đầy những điều mới lạ, vượt trên mọi dự đoán. Một lời xin vâng đầy tin tưởng bởi vì Mẹ Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong lòng tin trước khi đón nhận Ngài nơi thân xác của mình.
Sau này khi người ta báo cho Chúa Giêsu biết có mẹ Ngài đang chờ Ngài ở ngoài, thì Ngài đã khẳng định: Những người nghe và thực hiện lời Ngài chính là mẹ và anh em của Ngài. Không phải Chúa Giêsu muốn phủ nhận địa vị người mẹ của Đức Maria mà trái lại, Ngài muốn khẳng định rằng Đức Maria đã là một người mẹ trọn vẹn của Ngài. Mối quan hệ giữa Đức Mẹ và Ngài không chỉ là quan hệ máu mủ ruột thịt mà còn là quan hệ tinh thần.
Với chúng ta cũng thế. Dọn đường Chúa, tiếp đón Chúa có nghĩa là lắng nghe và thực hiện lời của Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất để đi vào mối quan hệ mật thiết với Ngài. Lời của Ngài thực sự đã đưa chúng ta đi vào một con đường mới, một cuộc sống mới. Lời của Ngài đã lôi kéo chúng ta ra khỏi đền thờ, ra khỏi thành thánh để đến với những con người đang phải vật lộn giữa cuộc sống. Lời của Ngài dẫn chúng ta đến với những người nghèo khổ lao động, nhưng kẻ đau ốm, bệnh tật. Không phải chỉ để nói lên sự an ủi mà còn là để đem lại cơm áo và sự chạy chữa. Việc tiếp nhận Chúa không phải chỉ diễn ra trong mùa vọng và mùa giáng sinh, mà còn phải diễn ra trong toàn bộ cuộc sống chúng ta. Và như thế, chuẩn bị tiếp đón Chúa chính là học hỏi lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta vậy.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Truyền tin là nhan đề của bài Phúc Âm hôm nay. Đây là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là sứ thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng, mà trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn nơi vùng sâu thôn dã vô danh Nazareth. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
“Đấng toàn năng đã làm cho nữ tỳ hèn mọn biết bao điều cao cả” (Lc. 1, 48-49).
Maria dù là nữ tỳ nhưng sứ thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, sứ thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào: “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói: Chào cô, chào em. Một kiểu chào cộc lốc, vô vị. Thường thì cậu kêu xách mé: Hoa ơi! Huệ ơi! Dung ơi! eo ơi!
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria: Vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ: Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải: “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa ..”
Nhận ra đó là việc toàn năng của Thiên Chúa hằng gìn giữ Bà nguyên vẹn đồng trinh, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa:” Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt:
Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công. Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo:
Thứ nhất, giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề: vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa. Thứ hai, giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng ông bà đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel ngăn chặn Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Lạy Chúa, Chúa đã thương ký kết với mỗi người chúng con trong bí tích Rửa tội. Chúng con đã tuyên thề làm con hiếu thảo của Chúa, xin cho chúng con biết sống theo gương Đức Trinh nữ Maria, luôn luôn biết xin vâng theo thánh ý Chúa, để Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, đến ở và hoạt động trong chúng con cho muôn dân được sống vinh phúc trong đại gia đình của Chúa, dưới cánh tay dịu hiền của Đức Nữ Trinh Maria. Amen.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bhao đảm tuyệt diệu: “vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin Vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bô mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
* Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Chiều mùa đông đã thắp sáng đèn các cửa hàng lộng kính. Dòng người tất bật trên đường phố lát đá chẻ, tiếng nhạc réo rắt bắt đầu trổi lên. Vang vọng giữa các tòa nhà, phố xá, dội vào người qua kẻ lại, khiến họ tự hỏi nhạc phát xuất từ đâu. Một số cặp mắt đổ dồn về người đàn ông tuổi 60, đầu hói và lún phún râu quai nón, đứng đơn độc, khoan thai giữa chốn thị tứ, với một chiếc mũ dưới đường trước mặt.
Rồi người đàn ông bắt đầu cất tiếng hát. Dần dần nhiều người dừng chân lắng nghe. Giọng opera cao vút của ông phản ánh tài năng đẳng cấp cao. Buồn thay, vẫn có những người vô cảm tiếp tục rảo bước bỏ qua, vội vã mua sắm. Nhưng đám thính giả dần tăng lên. Bị quyến rũ bởi những giai điệu mượt mà, êm ái và sang trọng, vài người bỏ tiền vào mũ. Hai cháu bé hồn nhiên dắt tay nhau cho một đồng xu. Dăm ba nụ cười tươi tắn, đồng cảm, vài kẻ kín đáo, vụng về lau những giọt nước mắt xúc động, thấm thía lời thánh ca Ngài Nâng Đỡ Con (You Raise Me Up). Hình như khán giả đều ngây ngất, xuất thần theo giọng ca điêu luyện của Martin Hurkins, người chiến thắng của "Holland’s Got Talent 2010."
Từ lâu nay, Martin Hurkins, được dân chúng Hòa Lan thân thương gọi bằng biệt danh Paparotti (danh ca Italy Luciano Paparotti). Ông vốn là thợ làm bánh. Đã từng mơ ước làm ca sĩ, nhưng vì mưu sinh và trách nhiệm gánh vác gia đình, mà ông đành kiên nhẫn chờ đợi ngày hiện thực ước mơ của mình. Sau khi về hưu được hai năm, thì gia đình ông khuyến khích đi thi "Holland‘s Got Talent 2010.” Martin Hurkins đã đoạt giải trong sự khiêm nhu. Ông xúc động, quỳ gối cảm tạ Thượng Đế. Và từ đó ông thường đi hát rong, ca ngợi Chúa ở ngoài đường phố. Thật là một cách rao giảng Phúc Âm tuyệt vời, một tông đồ âm thầm của Thầy Giêsu.
Nhìn hình ảnh lần đầu tiên Martin ra mắt khán giả với bộ quần áo nghèo nàn, với hàm răng ngả vàng, cái còn cái mất vì tuổi tác, vì vất vả mưu sinh. Rồi so sánh với hình ảnh ngày vinh quang ông đạt được, một Martin ăn mặc bảnh bao, hàm răng trắng tinh không mất cái nào. Tiếp đến, nhìn ngắm ông đứng ngoài đường phố, thành kính cất lên bài Thánh ca Ave Maria của Schubert, thì không ai không rung động, đồng cảm và mến phục. Và họ cảm tạ Chúa đã dùng người thợ về hưu này làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ 11. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Martin. (Theo David A. Sargent & DT)
Người thợ Giờ Thứ 11 Martin Hurkins đã noi gương Mẹ Maria khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ. Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay Thánh Luca tường thuật Đức Mẹ Maria được Sứ thần Gabriel truyền tin.
Mẹ khiêm nhu
Cô Maria đang ngồi xe chỉ luồn kim, miệng thầm hát Thánh vịnh, thì Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến bái lậy, cất lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô.” Khiến Cô giật mình, ngạc nhiên, hốt hoảng, đứng bật dậy, bẽn lẽn, dịu dàng cúi mình đáp lễ.
Sau khi nghe Sứ thần Gabriel loan báo tin vui, Cô bắt chéo tay trên ngực, cúi xuống rất sâu, kính cẩn thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời Sứ Thần truyền.”
Một Eva mới khiêm nhu, đơn sơ, hạ mình, xóa tan đi hình ảnh Eva xưa kiêu căng, ngạo mạn, tham lam, đồng lõa với con rắn gian xảo, lừa gạt, nổi loạn. Eva cũ dìm nhân loại vào cõi chết. Eva mới đồng công cứu chuộc, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần, dẫn vào đời sống huy hoàng, vĩnh cửu.
”Đức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi.” (Đường Hy Vọng, số 512)
Mẹ vâng phục
Mẹ Maria nhận mình là nữ tỳ hèn mọn, trở nên hư không trước mặt Thiên Chúa. Tuyệt đối xả kỷ, bỏ mình, coi mình chỉ là công cụ của Chúa, ngoan ngoãn vâng theo Thánh Ý nhiệm mầu, sẵn sàng đón nhận sứ vụ cao cả, cưu mang Đấng Cứu Thế. Hai tiếng ”Xin Vâng” đủ nói lên tấm lòng tùng phục vô điều kiện, lòng trung thành, biết ơn và hoàn toàn kính trọng. Hai chữ đó, còn bộc lộ tình yêu dâng hiến tuyệt đối của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Eva cũ bất tuân, bất trung, bất nghĩa, thì Eva mới hoàn toàn trái ngược. Mẹ trung kiên cho đến khi lìa trần về trời, dù chịu bao gian nan, đau khổ, thách đố từ khi Mẹ thưa hai chữ ”Xin Vâng.”
”Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng nấy.” (Đường Hy Vọng, số 392)
Mẹ yêu thương
Tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ không vị kỷ, giữ làm của riêng, nhưng yêu thương chia sẻ cho tha nhân. Mẹ mau mắn đi thăm bà chị họ Elisabeth già nua, cũng được đặc ân thụ thai được sáu tháng.
Trong tiệc cưới Cana, Mẹ yêu thương đôi tân hôn nghèo túng, khẩn cầu Con Mẹ ra tay cứu giúp, khỏi mất mặt, thất lễ với khách mời dự tiệc.
Được Chúa trao phó, Mẹ nhận lấy Gioan và các tông đồ làm con Mẹ. Rồi toàn thể tín hữu Kitô cũng được ưu ái, trở thành con Mẹ dấu yêu. Biết bao lần Mẹ thân thương hiện ra với những ai yêu mến Mẹ, tín thác vào Mẹ, khẩn nguyện, van xin Mẹ chở che, phù hộ.
“Mẹ có thể hiện ra nơi đô thị, trong các Vương Cung Thánh Đường, cho các nhân vật quan trọng, các nhà thần học. Nhưng Mẹ đã chọn nơi hoang vu, núi đồi, xa vắng, với những kẻ chất phác, vì Mẹ muốn đến với những người không ai thèm đến, đến những chỗ không ai muốn đến. Mẹ muốn con cùng đến với Mẹ.” (Đường Hy Vọng, số 930)
Mẹ phục vụ
Từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng,” Mẹ đã toàn tâm toàn ý hiến dâng trọn đời phục vụ Thiên Chúa. Âm thầm mang nặng đẻ đau, chăm sóc, dưỡng nuôi Hài Nhi Giêsu. Lo lắng bôn ba tỵ nạn xứ người. Thất thần lạc mất Con. Rồi cùng Con lận đận, rong ruổi trên đường rao giảng. Đau đớn theo Con lê bước trên đường chịu nạn. Thổn thức dưới chân thập giá với Con sinh thì. Mẹ lại tiếp tục cưu mang, đồng hành cùng những người con mới, ông Gioan, các Tông đồ và tín hữu Kitô. Mẹ xứng đáng nhận lời khen ẩn ý: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta."(Mc 3, 35)
“Không gì quý bằng món quà lòng Mẹ Maria tặng cho chúng ta: Chúa Giêsu, món quà duy nhất. Chính lòng Đức Mẹ cũng quý nhất, vì “Giêsu Con lòng Bà.” (Đường Hy Vọng, số 923)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ, để chúng con xứng đáng trở nên anh em của Người.
Lạy Mẹ Maria, nữ tỳ trung thành của Thiên Chúa, xin Mẹ dẫn dắt chúng con tiến triển con đường nhân đức, bằng cách học theo Mẹ, tuân theo Lời Chúa, để được hội ngộ cùng Mẹ vĩnh viễn. Amen.
Thiên Chúa đầy yêu thương. Ngài đã sáng tạo con người cách kỳ diệu và Ngài cứu chuộc còn diệu kỳ hơn nữa. Để thực hiện kế hoạch cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ thánh thiện, tốt lành, đẹp nết, đẹp lòng mến Chúa không ai sánh bằng.
Thiên Chúa quyền năng và đầy lòng yêu thương, Ngài đã có kế hoạch thực hiện công trình cứu chuộc một cách kỳ diệu. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi được gọi là vườn địa đàng nhưng hai ông bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai đó là cứu chuộc loài người. Để thực hiện chương trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn tô điểm cho vườn địa đàng mới này. Trong vườn địa đàng này đó là cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, nơi con Thiên Chúa chọn làm con người. Vườn địa đàng này là công trình của Thiên Chúa nhập Thể, nơi này diễn ra một hôn ước quan trọng, hôn ước giữa Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó, tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mở một kỷ nguyên mới.
Từ vườn địa đàng này, xuất hiện một sự ưng thuận mới, một sự vâng phục hoàn toàn. Đức Maria đã trở thành một Eva mới. Nếu Eva xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa mà đã làm theo kế hoạch đen tối của ma quỷ và đem tội lỗi cùng cái chết vào trần gian cho con cái loài người thì nơi Đức Maria, một Eva mới đã coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ nên đã trở thành người diễm phúc xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm mẹ của cả loài người.
Giống như Đức Maria, mỗi người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Lời xin vâng của Đức Maria cũng là mẫu gương của cúng ta, chúng ta hãy tin tưởng, cậy trông và phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, sống đức tin giữa cuộc đời. Sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, "vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được".
Thiên Chúa dựng nên chúng ta một cách tự do nhưng để cứu chuộc chúng ta thì Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do, tự do đáp trả, thậm chí Ngài hoàn toàn lệ thuộc chúng ta. Như thế, con người được dựng nên có sự cao quý chính là được tự do đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương và nhân lành của Thiên Chúa. Nếu như sứ thần đến báo tin và mời gọi Đức Maria cộng tác với Thiên Chúa thì trong cuộc sống hằng ngày, trước bao nhiêu biến cố Thiên Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đáp trả, thuận phục, Yes, thưa "Xin vâng" đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người Con của mẹ để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lời mời gọi sống chứng nhân cho Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta hãy để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện Mầu nhiệm Tình yêu của Ngài trong thân phận làm người của chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do. Ngài không ép buộc ai làm điều gì. Như thế, sự đáp trả của chúng ta sẽ càng có giá trị hơn. Muốn đáp trả chúng ta cần phải có một tình yêu thuộc về Thiên Chúa, một tình yêu giống Thiên Chúa. Công trình cứu chuộc tự nó là công trình yêu thương tuyệt vời. Tiếng xin vâng của Đức Maria xuất phát từ trái tim đầy tình yêu và tín thác nơi Mẹ. Đó cũng là cách đáp trả mà mỗi người chúng ta cũng phải thưa lại với Thiên Chúa như Đức Maria xuyên suốt trong đời sống làm người của mình.
Từ lời xin vâng của Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chúa cũng đang chờ đợi lời xin vâng, đời xin vâng của chúng ta để Chúa có thể làm nên những điều kỳ diệu cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho họ đạo chúng ta và còn cho cả thế giới nữa. Lời Xin vâng trọn vẹn, tuyệt đối, dứt khooát, vượt lên trên những lý luận khôn ngoan của loài người. Bắt chước Đức Maria, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất" . Noi gương Đức Maria, chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến với tha nhân, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng lòng mình lắng nghe tiếng Chúa và thực thi ý Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ giúp đỡ chúng ta có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con mở rộng lòng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và can đảm sống vâng phục, yêu thương như Thiên Chúa mời gọi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.
Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: "Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc".
Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: "Cô có phải là Thượng đế không?".
Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: "Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế".
Quả thực, "chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi". Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2,000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa Giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
(Suy niệm của Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một người rất đạo đức và thánh thiện. Ông ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong cuộc đời. Và rồi, Thiên Chúa đã nhìn đến lòng thành của ông, Ngài đã nói cùng ông qua giấc chiêm bao: "Ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ngươi". Ông quá đỗi vui mừng. Ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui và phấn khởi. Ông chuẩn bị phòng ốc thật sạch sẽ. Ông chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn để tiếp đón Chúa. Sau đó, ông ra đến tận cổng để chờ đón Chúa. Và khi ánh bình minh ló rạng, ông hồi hộp chờ đón Chúa, nhưng không thấy Chúa, ông chỉ thấy một ông lão ăn xin, rách rưới, tả tơi. Người ăn xin đến van xin ông chút cơm bánh lót dạ, nhưng ông đã xua đuổi người ăn xin, vì ông đang chờ vị thượng khách. Và rồi, tiếp sau là một người lữ hành, lỡ bước đang cần sự trợ giúp của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Cho đến khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi, ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến van xin lòng tốt của ông, thế nhưng, ông vẫn từ chối giúp đỡ. Ông thất vọng, vì cả ngày chờ đợi mà không thấy Chúa đến. Ông thầm trách Chúa đã không giữ lời hứa với ông. Thế nhưng, Chúa lại nhỏ nhẹ trách ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần, nhưng đều bị ngươi khước từ".
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ây tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời côi. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phương thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm này đã bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nagiarét.
Sau tiếng Xin Vâng ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi, lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.
Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một người mẹ. Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đã thành một người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội. Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người. Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài. Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem, vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao, nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống. Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được gìn giữ cho thanh khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của mình. Có lắm người dễ dàng tìm đến cái chết vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa.
Mảnh đời của Đức Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến cùng, vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Noel đem lại cho ta sự bình an sâu thẳm. Bình an cho trái đất đang bị tàn phá. Bình an cho những người đang sống trong ngõ cụt. Bình an cho chúng ta, cho mọi người. Bình an của Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ tự phá hủy đời mình bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo ý bạn, đâu là lý do chính dẫn đến thái độ đó?
Ai trong chúng ta cũng có những người bạn đang mất bình an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ. Mùa Noel này, bạn định làm gì cho họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại. Ngài đã muốn người Con ấy là con người giữa nhân loại. Thiên Chúa đã chuần bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Paléttin.
Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong lòng mẹ. Ngài tuôn đổ trên Cô tràn trề ân sủng: "Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô" (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh.Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị cho Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không đặt Cô trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận.
Phúc Âm Chúa nhật hôm nay kể câu chuyện Truyền tin.
Truyền tin là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật, đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là Sứ Thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng. Nơi đó, trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn thuộc vùng sâu thôn dã vô danh Nadarét. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
Maria dù là nữ tỳ nhưng Sứ Thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, Sứ Thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào: “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói: Chào cô, chào em.
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria: vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ: Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải: “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa..”
Nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt:
- Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau.
- Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công.
- Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo:
- Vì đã giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề: vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa.
- Vì đã giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyễn tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là " Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ". Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao", là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần "Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.". Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi. Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều. Ngài là "Con Thiên Chúa" theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh? Nếu đúng là như thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?
“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa - Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa - Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người. Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại. Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.” (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).
Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin! Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn]”. Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được ‘đầy ân sủng’ sao? Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi. Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi. Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20). Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu. Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhị giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa”. Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ…hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55). Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha”. Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.” Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ chấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.” Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”
Giáng sinh đã gần lắm rồi! Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu. Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!
Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng. Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót. Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này. Amen!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui “Gaudete” vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta càng rạo rực hơn, nên chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Chúa giáng sinh.
Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta đã nói lên đặc tính Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, đợi chờ, mùa của cầu nguyện, hoán cải nội tâm, nhưng không thể không vui, vì niềm vui là đặc tính cơ bản của mùa thánh thiêng này. Lý do rất rõ ràng, vui vì: "Chúa đã gần đến" (Phil 4,5).
Lời đầu tiên Sứ Thần Gabriel cất lên chào Đức Trinh Nữ Maria chất chứa niềm vui lớn lao khi mời Mẹ vui lên: "Mừng vui lên, vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng! "(Lc 1, 28) Lời chào trên có liện hệ mật thiết tới sự giáng lâm của Đấng Cứu Thế. Trước khi toàn dân được nhận biết tin vui, thì Đức Maria là người đầu tiên được báo trước (x. Lc 2,10); Mẹ đã tham dự vào niềm vui ấy với cách thế lạ thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel được viên mãn; với Mẹ, hạnh phúc thời messia tròn đầy. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria là niềm vui đặc biệt của dân Israel "còn sót lại" (Is 10,20s), những người nghèo, những người đang chờ đợi ơn cứu rỗi của Thiên Chúa và những người kinh nghiệm về lòng trung thành của Israel.
Chúng ta cũng thế, để tham dự vào lễ Giáng sinh với niềm vui ngập tràn, điều cần thiết là phải khiêm nhường, đón rước Đấng Cứu Thế với trọn niềm tin như lời Chân phước Phaolô VI Giáo hoàng nói: " Tất cả các tín hữu, khi sống tinh thần Mùa Vọng theo phụng vụ, bằng việc nghĩ về tình yêu khôn tả trong việc đón chờ Con của Người Mẹ Trinh Nguyên này, được mời gọi lấy Mẹ làm mô phạm để dọn mình gặp gỡ Chúa Cứu Thế là Đấng phải đến. Họ cần phải “tỉnh thức nguyện cầu và hân hoan … ngợi khen" (Tông Huấn Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria của Chân phước Phaolô VI, số 4).
Hân hoan vì Thiên Chúa ở giữa loài người
Khi đặt mầu nhiệm Nhập Thể vào trong Mùa Vọng, Giáo hội nhấn mạnh đến thời điểm quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể và cứu chuộc.
Thiên Chúa đến "Cắm lều" trong dân Israel, chở chẻ Hòm Bia Giao ước Lời Thiên Chúa, trong suốt hành trình trong sa mạc (x. Ds 9, 17). Vào năm 598 trước Chúa Giêsu giáng sinh, Giêrusalem bị thất thủ, hòm bia mất tích, hòm bia chứng tỏ sự gần gũi Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Sự gần gũi ấy nay được tỏ hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ Maria, một người nữ trong chúng ta, đã được Sứ Thần cho biết "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ" (Lc 1, 35). Thật là vui khi Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta.
Điều mà tưởng chừng như không thể, nay được biểu lộ như lời Sứ Thần nói: "Không có việc gì mà Chúa không làm được" (Lc 1, 37). Cả Đức Maria và Thiên Thần đều đồng ý với nhau về sự hiển nhiên này của đức tin. Lời trên đã được tuyên phán trong sách Sáng Thế khi nói về sự ra đời của Isaac "Thì nào có gì quá ư huyền diệu đối với Thiên Chúa?" (St 18, 14). Nay nói về sự sinh hạ của Chúa Giêsu để mọi người nghe mà hiểu về ơn cứu độ con người là có thể (x. Lc 18, 27). Sự sinh hạ của Con Thiên Chúa giữa loài người và sự hạ sinh chúng ta, một nhân loại mới là công trình của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria, Người Mẹ Trinh Nguyên
Trong giây phút đón nhận thánh ý Thiên Chúa, do quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi Chính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa bắt đầu sự sống trong cung lòng Mẹ. Chúa Giêsu là người thật, nói theo ngôn ngữ biểu tượng của Kinh thánh là tạo nên từ đất; nhưng Người đến từ trời cao: "Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao " (Lc 1, 35).
Bởi lẽ đó, đang khi "rất bối rối", Đức Maria đã hỏi: "Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam! (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ của mình, Mẹ không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu hơn ý định của Chúa hầu sống trọn ý Chúa. Thiên Chúa trông chờ tiếng "Xin vâng" từ Mẹ để thực hiện công trình của Người. Tiếng "Xin vâng" bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Lúc Mẹ thưa "Xin vâng", lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên: " Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ "đầy ân sủng", khi Mẹ thưa: "Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền! " (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh Giuse người công chính
Thánh sử Luca trình bày Đức Nữ Đồng Trinh Maria như là vị hôn thê của "một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít" (Lc 1,27). Nhờ qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Đavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Đấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là "Con của Vua Đavít".
Thánh Giuse là mẫu gương của người "công chính" (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa.
Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Đức Tin này. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đọc Lc 1,26-38 trong văn mạch của 1,5–2,52: Những biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu và Gioan. Thiên Chúa trung tín lại có kế hoạch cứu độ con người. Người muốn tìm kiếm một người làm mẹ, vì kế hoạch ấy bắt đầu từ một hài nhi. Để thực hiện, Thiên Chúa sai sứ thần đến cùng Maria (c.26-27), để kêu gọi Maria cộng tác (c.28), Thiên Chúa trình bày kế hoạch (30-33): phần Maria sẽ làm (c.30-31) và phần của Thiên Chúa (c.32-33), Thiên Chúa trình bày cách thực hiện (35-37). Những phản ứng của Maria: không hiểu (c.29), thắc mắc (c.34) và ưng thuận (38). Hai phần c.30-33 và 35-37 là những lời giải đáp cho thắc mắc của Maria (c.29 và 34).
Đây là kế hoạch cứu độ cuối cùng của Thiên Chúa (x. Lc 20,9-19). Vì Thiên Chúa nhớ lại lời hứa với Abram (1,55.73), nên Người sẽ gởi đến Đấng cứu độ, cũng là con của Người (c.32-33.35), để con cháu Abram được hưởng ơn cứu độ: trước tiên là Maria (1,47), rồi đến những người khác (13,16.28; 16,22; 19:9) và đến muôn đời cho những ai kính sợ Người (1,50). Nên đằng sau lời của thiên sứ, Thiên Chúa là chủ của tất cả mọi hành động trong kế hoạch đó. Ngoài những lần Thiên Chúa được gọi cách rõ ràng dưới nhiều tên khác nhau như: “Thiên Chúa” (c.26.30.32.36.37), “Chúa” (c.28.32.38), “Đấng Tối Cao” (c.32.35), Người cũng là chủ ngữ của những động từ ở thể thụ động (c.26. 28. 32. 35. 38).
Vương quyền của người Con sắp được sinh ra và được đặt trên ngôi Đavít, sẽ trải rộng cách vô tận, trên cả không gian lẫn thời gian (c.31-33.35). Chính Thánh Thần sẽ khởi đầu cho vương quyền của người Con ấy (c.35), và sau nầy, cũng chính Người sẽ tiếp tục làm cho giáo hội của người Con ấy (Tđcv 1,8), bất chấp những điều không thể đối với con người (c.37).
Maria, người Nadaret miền Galilê, được chọn làm người sinh ra Con của Thiên Chúa (c.31). Cả con người lẫn xứ sở đều nhỏ bé và vô ý nghĩa trước mặt con người (c. 27-28). Tuy nhiên, khi Thiên Chúa đã chọn vào sứ mạng cao cả, thì Người cũng đổ đầy ơn. Bởi đó, thiên sứ đã chào Maria bằng tên: “Người được đấy ơn sủng” (c.28) và người “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” (c.30). “Được đầy ân sủng” nói cách đơn giản là người được Thiên Chúa ban đầy ơn. Còn “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” thì nhấn mạnh về phía Maria, là người đã tìm kiếm Thiên Chúa và đã tìm thấy (x. Lc 11,10). Nhưng cuối cùng, chính Thiên Chúa là đấng ban mọi ơn, và ơn cao trọng hơn hết là Con Thiên Chúa vào trong đời mình (1,31.43; x.19,5).
Phần Maria, tự nhận là “tớ nữ của Chúa” (1,38.48), là người kính sợ Thiên Chúa (1,50) và để cho Thiên Chúa toàn năng thực hiện điều Người muốn trong đời mình. Khi Maria lên tiếng chấp nhận, thì Thiên Chúa đã qua được một bước ở ngưỡng cửa của kế hoạch cứu độ tương lai.
Gương "xin vâng" của Đức Maria được nêu lên làm mẫu trong phụng vụ tuần IV Vọng để kêu gọi mọi người hoàn tất việc chuẩn bị Mừng lễ Giáng Sinh. Tuỳ mức độ "xin vâng" mà đón được Chúa đến nhiều ít. Đức Maria đã xin vâng tuyệt vời, trọn vẹn, đã được Lời nhập thể ngự xuống trong lòng không những cách thiêng liêng mà xuống thai, bắt đầu đời làm người ở giửa loài nguời, làm Đấng Emmanuel, để có lễ Noel.
Vài điểm chú giải
- Mừng vui lên, hởi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà: được đấy ân sủng và có Chúa ở cùng là lý do thật sự để được mừng vui. Có Chúa thì đầy ân sủng nên được vui mừng. Đức Maria đựoc vậy là tại sao? Phần tiếp theo của đoạn Phúc Âm nầy là lời giải thích.
- Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa: Lý do thứ nhất nhưng phần tiếp theo mới nói rỏ.
- Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu ..: Giêsu nghĩa là Cứu Chúa. Ngưòi Do thái hiểu là Đấng Messia mà họ mong đợi. Ân sủng quá lớn "vô song" ngoài sự mong đợi của Đức Maria "làm bà sợ".
- Mà làm sao được vì tôi không muốn việc vợ chồng: Maria chỉ muốn hiến thân phụng sự Chúa cách đơn sơ đồng trinh trọn đời .
- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao phủ bà...: Cách Thiên Chúa thực hiện điều sứ thần loan báo (theo tự nhiên thì không hiểu đươc). Với Thiên Chúa toàn năng thì không gì là không thể. Thiên sứ giải thích cho Maria.
- Vâng, tôi là nữ tỳ của Chúa xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần bảo: Đức Maria đã cho Thiên Chúa điều kiện quyết định cuối cùng như chúng ta đọc trong kinh Truyền tin "Chốc ấy Ngôi Hai đã xuống thế làm ngưòi và ở cùng chúng ta". Thiên Chúa "xin" một tiếng "xin vâng" yếu ớt của một thụ tạo nhỏ bé. Trí tự nhiên không hiểu nổi việc lạ lùng của Thiên Chúa cả khi sự việc đã xảy ra. Đức tin làm cho chúng ta xin vâng theo gương Đức Maria.
Thiên Chúa toàn năng, không gì là không làm được. Trí khôn loài người hạn hẹp, nhỏ bé làm sao hiểu nổi những việc lạ lùng của Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa, Lời quyền năng nhờ đó mà Thiên đã tạo dựng và làm mọi sự, bây giờ được thiên sứ bảo là xuống thai trong lòng Đức Maria để rồi đủ ngày giờ sẽ sinh ra làm một bé thơ, làm Thiên Chúa ở với con nguời và thực hiện ơn cúư độ đã hứa từ xưa. Lý luận không hiểu được, lớn lao quá.
Chỉ Đức Maria, người đầy ân phúc, đẹp lòng Chúa, có Chúa ở cùng và nhất là đã thưa xin vâng bằng cả cuộc đời như một nữ tỳ mới nhận được. Ân huệ lớn lao của Maria, công trình kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện với những điều kiện ấy, những điều kiện rỏ ràng và rỏ rang là không có những điều kiện ấy thì Thiên Chúa dù quyền năng đến đâu cũng chịu bó tay.
Cũng vậy dù Chúa có muốn đến, dù chúng ta có muốn Chúa đến, có xin Chúa đến mà không có ít là một phần nào những điều kiện ấy thì Chúa cũng bó tay. Tuỳ theo mức độ mà chúng ta xin vâng, mà chúng ta có Chúa ở cùng, mà Chúa có thể đến và ở lại với chúng ta. Người ta cứ nói Chúa ban ơn nhưng không để cứ làm xấu, không hối cải, không vâng lời Chúa dạy, mà cứ xin Chúa đến "tội nghiệp Chúa", Chúa không làm được.
Chúa đến ở với thì có Chúa, Chúa là nguồn ân sủng. Có Chúa là có ân sủng. Đầy Chúa là đầy ân sủng. Nhưng phải đẹp lòng Chúa. Cứ nói Chúa thương con Chúa cứ đến, cứ ban ơn, cứ ở với con dù con chèm nhèm, hôi hám, "tội nghiệp Chúa", dù Chúa sinh ra trong chuồng gia súc, trong cỏ rơm hèn mạt nhưng Chúa vẩn là Thiên Chúa cao trọng vô cùng. Chúa hạ mình làm một trẻ thơ hèn mọn trong đóng cỏ rơm là để ai cũng đến và rước Chúa về ở với mình được mà không phải sợ.
Muốn Chúa đến và đem hồng ân đến cho thì phải chuẩn bị cho mình có ít thì cũng một phần nào đời sống "xin vâng" của Đức Maria. Đẹp lòng Chúa mới có Chúa, mới có ân sủng và sự vui mừng của Chúa.
Thiên Chúa xây dựng cách mạnh mẽ và tự do.
Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức: nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.
Thiên Chúa, Đấng hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.
Dự án của Đavít.
Khoảng 1000 trước Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.
Là một vị vua đạo đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt động. Chính Ngài đã đưa Israel từ xứ Ai Cập lên.
Ngôn sứ Nathan cho Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài… “Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.
Thiên Chúa từ chối dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính của Ngài bên dự tính của con người.
Dự tính của Thiên Chúa.
Một ngàn năm sau, Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn “với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn trọng tự do của Đức Maria.
Trong việc thực hiện dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ đơn sơ không chức quyền.
Thiên Chúa hành động theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Thiên Chúa hành động cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.
Sứ điệp.
Thiên Chúa không ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô. Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.
“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).
Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều... chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.
Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.
Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.
Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.
“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.
Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.
“Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình.
“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.
“Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.
“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34...). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.
“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.
“Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ... Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.
1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự
Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.
Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.
Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.
2. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa
Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.
Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.
Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.
3. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa
Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.
Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên.
Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt
· tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse);
· ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình;
· niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.
Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.
Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy?
2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể?
3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì?
4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong lòng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật ngắn, và được diễn tả trong một ký sự bóng bảy, đầy hình ảnh, như người đồng thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên ký sự, từng câu một. Tuy nhiên chúng ta dễ hình dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi thánh Luca còn sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta dừng lại để suy niệm về 3 câu:
1) Nghe những lời đó, nàng bối rối qua sức, và tự hỏi về ý nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mãnh liệt, những lời của thiên sứ khiến cho tâm thần nàng rối loạn vì nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Não trạng Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hãnh diện và hy vọng: Giêrusalem được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối vì thế và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rõ. Vào những dịp Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đòi hỏi ta làm những việc phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria đã làm.
2) Maria thưa với Thiên thần: Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối, Maria biết làm gì để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một đứa con là điều không thể có được, vì ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn gìn giữ đức đồng trinh của mình, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đòi hỏi nàng hy sinh nó đi. Nàng muốn hiểu rõ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường tình nhân loại, mình không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có những vụ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với Chúa, vì Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.
3) Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận khi hiểu rõ Thiên Chúa chờ đợi gì ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đã muốn tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.
Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại một quán cà phê gần nhà thờ. Khi mới vừa bước vào quán thì có một em bế đến hỏi "Thầy uống chi a?" Tôi thật lá bất ngờ. Vì ở một nơi rất xa, tôi vẫn chưa giới thiệu mình là thầy mà em bé đó đã biết. Tôi cứ suy tư mãi và có phần hãnh diện về mình và suy nghĩ trong đầu, mình thật là oai đến đây mà họ vẫn biết mình là thấy. Nhưng sau đó đến lúc trả tiền tôi liền mạnh dạn hỏi "Sao con biết thầy là thầy mà kêu thầy vậy?". Thì được em bé đó trả lời: "Dạ! Cô con dặn ai bỏ áo vào quần mà ghé quán này con đều phải xưng bằng thầy hết" Cuối cùng tôi mới hiểu vì quán này gần trường học nên các thầy ghé nhiều, em bé chỉ xưng hô như đã mặc định mà thôi. Thật là quê! Vì tôi cứ nghĩ là họ nhận ra mình làm cho mình huênh hoang tự đắc trong lòng. Khi đó tôi liền nhớ đến lời Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù đen tối. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Lạy Chúa, xin cho con biết mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
1. Maria có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài năng gì đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Kitô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Maria, và cũng có những người làm “hỏng việc”, khiến Ngài “thất bại” (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Maria xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài
Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
4. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”
Những người được chọn mà làm “hỏng việc” Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử thách
Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,30). Cách thức “làm cho nên công chính” của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2,10); “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ” (1Tm 3,10); “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22; 24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.
KHIÊM HẠ ĐỂ ĐÓN NHẬN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA!
Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. Điểm son và điểm dễ nhất về hình ảnh của vị vua mà có người gán cho ông cái tên dễ thương nữa là vua thánh Đa-vít. Vì sao người ta lại gán cho ông cái tên này? Vì lẽ ông quá sức tội lỗi, ông đã muốn cưới bà Bát Sê-va bằng cách giết U-ri-gia chồng của bà nhưng sau khi ông nghe lời tuyên sấm của Nathan, ông đã thay đổi cuộc đời bằng cách ăn chay, cầu nguyện và xin Đức Chúa - Chúa của ông tha lỗi cho ông.
Bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe xong chúng ta cũng nghe Đức Chúa đã phán với Nathan vài điều để Nathan nói lại với vua Đavit "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền" (2 Sm 7, 8-11a)
Lời tuyên sấm này Đức Chúa muốn nói với Đavít rằng Ngài sẽ thiết lập cho Đavít một dòng dõi và dòng dõi ấy sẽ được vững bền với vương quyền của dòng dõi ấy. Đức Chúa còn cam kết thêm: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi. (2 Sm 7, 8-11b)
Và chúng ta cũng nên nhìn lại thái độ, tâm tư của vị vua đặc biệt này qua trang sách Samuel: Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng? Đa-vít còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng! Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. Vì thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. Thật vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi." (2 Sm 7, 18-29)
Qua lời cầu nguyện đơn sơ trên đây của Đavit ta thấy Thiên Chúa quyền năng đã làm những điều kỳ diệu trên con người khiêm hạ của Đavit. Nếu Đavit không khiêm hạ, Đavit sẽ không nghe lời tuyên sấm của Nathan để quay đầu trở về với Thiên Chúa. Biết mình yếu đuối, biết mình tội lỗi nhưng Đavit đã quay đầu trở lại với Đức Chúa để rồi Đức Chúa đã tin tưởng, đã giao phó, đã thiết lập cho ông một dòng dõi mang tên ông.
Một lần kia ông đã tâm sự với Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
(Tv 131, 1-3)
Hình ảnh của một người khiêm hạ trong Cựu Ước thật đẹp, thật dễ thương. Nhìn trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ thật dễ thương. Mẹ như là cùng đích, như lẽ sống của cuộc đời con để rồi khi con nép mình vào lòng Mẹ con sẽ cảm thấy không còn bận tâm, không còn lo lắng điều gì nữa.
Con người, vốn mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo nên đã đánh mất đi tình yêu, lòng mến, sự che chở, sự bao bọc, sự che chở của Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình. Sự kiêu ngạo ấy đã trải dài suốt lịch sử cứu độ, suốt hành trình về Đất Hứa.
Thời Tân Ước, tưởng người ta nhận thấy bài học chua xót, cay đắng từ sự kiêu ngạo để tỏ lòng khiêm hạ trước Thiên Chúa nhưng không. Chúng ta thấy người Do Thái vẫn cao ngạo, vẫn không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tình thương xót bao la của Ngài trên cuộc đời của họ. Đức Trinh Nữ Maria, là người nữ Do Thái mới. Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ đã đến trần gian này với lòng khiêm hạ đến cực độ. Mẹ là hình ảnh đối lập với Eva xuẩn động ngày xưa. Eva đã đi tìm cho mình vị trí bằng Thiên Chúa để rồi phạm tội ăn trái cấm. Eva xưa đã cao ngạo trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Không chỉ một mình mình phạm tội mà Eva còn rủ chồng mình cùng chung số phận như vậy. Mẹ Maria hoàn toàn sống khiêm hạ, sống vâng theo Thánh Chúa trên cuộc đời Mẹ. Nếu như Mẹ cũng cao ngạo như những người Do Thái chắc có lẽ Mẹ cũng sẽ chẳng đón nhận được mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể trong lòng Mẹ.
Trang Tin mừng theo Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe thuật lại thái độ, tâm tư, tấm lòng khiêm hạ của Mẹ. Quá choáng ngợp với ơn của Thiên Chúa qua miệng sứ thần, Mẹ với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria lặng lẽ thưa "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Mẹ Maria khiêm hạ để rồi Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại cho Mẹ. Thiên Chúa vẫn thích hiện diện nơi những tâm hồn khiêm hạ. Chỉ có những ai khiêm hạ, những ai tin mới thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các thánh tông đồ xưa là những người tạm gọi là đầu tiên tin Chúa và đã rao giảng mầu nhiệm ấy. Sau khi tin vào Chúa thì các môn ra đi loan báo Tin mừng như Đức Maria vậy. Sau khi đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung lòng của mình, Mẹ đã đi loan báo Tin mừng ấy, không chỉ loan báo mà Mẹ còn hành động cụ thể bằng cách chia sẻ niềm vui cho bà chị họ. Các môn đệ cũng loan báo Tin mừng bằng cách hy sinh cả mạng sống của mình. Ra di trong hân hoan, ra đi trong hạnh phúc vì có Chúa ở cùng.
Trong niềm hân hoan ấy, Thánh Phaolô tông đồ đã gửi tâm thư của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: "Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa". (Rm 16, 25-27)
Hôm nay, qua các lời ngôn sứ từ Nathan loan báo cho Đavit về dòng dõi mà Thiên Chúa thiết lập trên ông đến lời sứ thần loan báo mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ chúng ta thấy điểm chung hay nói đúng hơn điểm son nơi hai nhân vật điển hình ấy chính là sự khiêm hạ. Biến cố Emmanuel Nhập Thể mà chúng ta sẽ mừng trong vài ngày nữa cũng chỉ tỏ lộ nơi những con người nghèo, những con người nhỏ bé như những mục đồng nghèo ở cái làng Belem năm nao.
Đứng trước một Thiên Chúa toàn năng, danh Người là Thánh, chắc có lẽ tâm tình hay nhất mà chúng ta phải có đó chính là tâm tình khiêm hạ.
Xin Chúa cho chúng ta mặc lấy tâm tình khiêm hạ của vua Thánh Đavit cũng như tấm lòng khiêm cung nơi Đức Trinh Nữ Maria để quyền năng, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta như Chúa đã từng biểu lộ nơi vua thánh Đavit và Đức Trinh Nữ Maria.
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Giêsu, con của Maria và Giuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Đức Giêsu là nhân loại thụ thai Đức Giêsu! Maria hạ sinh Đức Giêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Giêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Giêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức Giêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Giêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Giêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Giêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Giêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Giêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức Giêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
BÀI GIẢNG
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Giuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
Anh chị em thân mến,
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng...
Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác...Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói...cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng... Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:
Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người..." (Stk 3, 15).
Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: "chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel."(Is 7, 14).
Ở chỗ khác, trong sách Mikêa: "Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời..."(Mic 5, 1)
Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều....
b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:
Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: "Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận." (Lc 1, 31-32)
Chính thánh Phaolô quả quyết: "khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).
Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
Trong cuốn Linh Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống, chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.
Đức Maria đã không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.
Anh chị em thân mến.
Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng tỏ mình là một người phong lưu, hào phóng với mọi người. Có những lúc phải vay nợ vì sự hào phóng nầy. Mọi người đều rất ngưỡng mộ anh vì tưởng anh là một công tử nhà giàu, nên mới hào phóng như thế. Tiếng đồn đến tai một tên trộm, hắn lần mò theo dấu chân chàng thư sinh nọ và đến nhà anh ta. Tên trộm vào nhà tìm mãi không được của gì đáng giá, nó mới tìm cách khống chế gia chủ, sau một lúc dùng biện pháp mạnh tra hỏi, mới biết trong nhà không có gì, tên trộm vừa bỏ đi vừa nói: hôm nay là ngày không tốt, đến trộm nhà một người còn nghèo hơn cả mình. Chàng thư sinh nọ nghe thế, máu sỉ diện trổi dậy, anh cố tìm hết trong nhà còn được mấy đồng lẽ, chạy theo, cố nài nỉ đưa cho tên trộm và bảo: hôm nay trong nhà hết tiền, còn mấy đồng anh xài đở, đừng nói cho mọi người biết việc hôm nay. Thật là một căn bệnh không thuốc chữa. Chàng thư sinh không biết mình đang cần gì và mình đang thiếu những gì. Anh ta chỉ sống bằng cái vỏ bọc bên ngoài, lâu ngày quen dần nên không còn biết mình là ai và đang cần gì hoặc đang thiếu những gì. Căn bệnh sĩ diện làm cho anh chỉ biết cho mà không dám nhận, nên khi trở về với con người thật thì anh không còn gì. Làm sao cho được cái mà mình không có.
Hôm nay một lần nữa, chúng ta vừa được chứng kiến lại giây phút lịch sử của tình yêu thương, giây phút mang niềm hy vọng, mang sự sống đến cho con người.
Mẹ Maria nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, Mẹ cũng đang trông chờ ơn cứu rỗi, trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người. Mẹ cũng có những dự tính, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ biết những gì mình đang có và mình phải cho đi những gì. Đó chỉ là những giới hạn nhỏ bé của con người. Quan trọng hơn Mẹ còn biết mình đang thiếu thốn những gì và cần những gì. Trong tâm tình biết cho và nhận, Mẹ đã nhận lời đề nghị của Thiên Chúa với tâm tình của một người tôi tớ, nhận với tất cả sự vâng phục, nhận vì Mẹ nhìn thấy đây là điều thiết phải chấp nhận. Mẹ còn chấp nhận vì thấy mình còn đang thiếu và cả nhân loại cũng đang thiếu và cần đến sự chấp nhận của Mẹ. Trong khi nhận, Mẹ đã biết cho đi những gì là riêng tư của mình. Mẹ đã cho đi tuổi thanh xuân của một thiếu nữ, cho đi những ước muốn, cho đi những toan tính, cho đi cả sự bình an mà Mẹ đã chuẩn bị cho mình. Mẹ đã biết cho và nhận vì Mẹ biết mình đang cần gì và còn đang thiếu những gì. Chính vì Mẹ đã biết cho và nhận một cách quãng đại như thế, nên hồng ân cứu rỗi mới được ban xuống cho loài người.
Nhân loại ngày hôm nay đã nhận biết bao hồng ân, nhưng vì là con người: nhân vô thập toàn nên họ cũng còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy mà rất nhiều người không biết mình đang có gì và đang cần gì, chính vì thế họ không biết mình phải cho những gì vì cần phải nhận những gì để cho đời sống mình được phong phú hơn.
Mỗi người trong chúng ta không thoát khỏi cái thường tình của con người. Hiện tại rất nhiều người mang lấy căn bệnh của chàng thư sinh nghèo; con người trống rỗng, không có gì hết, nhưng lại không muốn cho ai biết sự nghèo nàn trong cuộc sống. Chúng ta đang nghèo tình yêu thương, nghèo về sự quảng đại, nghèo về lòng tha thứ, nghèo về hồng ân Chúa. Vậy mà bao nhiêu lời khuyên và lời kêu mời quay trở về với Chúa để được đong đầy, chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta đang mang căn bệnh sỉ diện của tự ái, của lười biếng, của sự ích kỷ hiềm khích, nên không thể lắng nghe và hành động được.
Chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và noi gương Mẹ để biết cho đi con người yếu hèn của mình và xin Chúa cho được ơn can đảm biết chấp nhận những gì xảy đến trong đời sống hằng ngày. Đó là chúng ta biết nhận cùng với sự vâng phục như Mẹ. Nếu chúng ta biết cho đi những định kiến, những nóng vội, những phán đoán không cần thiết, để biết bình tỉnh chấp nhận Thánh ý Chúa trong những nghịch cảnh, trong những người không làm cho mình vui, hay trong những lúc ưu sầu phiền não. Những lúc đó, chúng ta đang đi theo những bước chân của Mẹ rất thánh, là biết cho đi và biết chấp nhận. Như thế thì hồng ân Chúa đang đến với mỗi người và nhờ đó lan toả ra cho nhiều người.
Xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người, để biết đón nhận hồng ân Chúa cho xứng đáng.
1) Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời.
Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay:
- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi mãi xa lìa Chúa.
Thế nhưng Mẹ Maria đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.
Sở dĩ như thế là vì Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.
Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? Vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?
Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.
Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.
Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:
Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.
Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ. Nếu như hai Chúa nhật trước Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt nổi bật là Gioan Tẩy Giả, thì Chúa nhật thứ này chúng ta được giới thiệu một khuôn mặt nổi bật hơn. Khuôn mặt ấy chính là Đức Maria – một mẫu gương sống động về niềm tin và hy vọng.
Có lẽ, đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay rất quen thuộc với từng người tín hữu chúng ta. Bởi vì, đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Maria đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời của thiên sứ Gariel. Lời mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ con người. Lời mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa làm người.
Đức Maria đã đáp lời thiên sứ: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1, 38). Với lời thưa này, Mẹ không đáp trả một cách bộp chộp nhưng hoàn toàn có suy nghĩ chín chắn. Bằng chứng là Mẹ đã có đối thoại với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 34). Sau khi nhận ra đây là thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa.
Mặc dù trước mắt Mẹ sẽ phải trả giá trước dư luận: "chưa chồng mà có chửa". Mẹ tin tưởng và hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách làm cho Mẹ đủ sức vượt qua khó khăn thử thách này. Hơn thế nữa Mẹ tin tưởng và hy vọng qua người con Mẹ sinh ra sẽ đem đến cho nhân loại một bầu khí mới. Và đúng vậy, những gì Mẹ tin tưởng và hy vọng đã hoàn toàn trở nên sự thật. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một sức sống mới. Một sức sống không một ai ở trần gian này có thể làm được.
Chúng ta còn nhớ trong năm vừa qua Đức Thánh Cha Beneđicto 16 đã ra Thông điệp Niềm hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp này ngài kêu mời các con cái mình hãy sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Có tin tưởng và hy vọng vào Chúa đời sống hiện tại của chúng ta mới có thể thay đổi. Đời sống thay đổi theo những gì Chúa khuyên dạy.
Mỗi người chúng ta hãy tiếp tục sống những ngày còn lại của mùa vọng trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như gương Đức Maria. Để rồi Lễ Giáng Sinh sắp tới thật sự là một Đại lễ theo đúng nghĩa của nó.
Trong “Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. “Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ”.
Với thái độ khiêm tốn, vâng lời và tin tưởng, Đức Maria đã đáp lại ơn gọi Thiên Chúa kêu mời, trái ngược với sự bất tuân, thiếu niềm tin và kiêu ngạo của bà Evà. Thánh Kinh đã lên án sự kiêu căng, tự cao tự đại, vì nó phát xuất ra những dối trá, lừa đảo để dành lấy cho mình cái mà tự sức mình không có hay không thể có được. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ người tín hữu thành Galat: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, là lừa gạt chính mình”. Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa! Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Và Chúa Giêsu cũng khuyên: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Cách đây ít lâu, tờ St. Peterburg Times có thuật lại một câu chuyện được chia sẻ bởi Don Shula, ông bầu của đội football Miami Dolphins. Ông là một người rất danh tiếng. Trong giới thể thao nói riêng, trong nước Hoa Kỳ nói chung, ai cũng biết đến tên Don Shula. Ông giữ chức ông bầu đội Miami Dolphins từ năm 1970 và đã từng thắng ít nhất hai trận cầu ở giải Rose Bowl, Pasadena.
Hôm đó ông cùng với vợ và năm người con đang nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ tại tiểu bang Maine. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đem cả gia đình đi xem chiếu bóng tại rạp hát duy nhất trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông Shula vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông Shula vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái trá. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: “Mình ở xa đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến và kính trọng, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô mình. Hẳn là họ đã thưởng thức những trận cầu hiển hách của đội Dolphins trên màn ảnh tivi”.
Sau đó, một người tiến đến bắt tay chào ông Shuha. Mặt mày hớn hở, ông Shuha nói: “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?” Người kia trả lời: “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi thấy ông và gia đình bẩy người bước váo rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không có xuất movie nào, trừ ra có thêm bốn khán giả nữa”.
Bấy giờ, ông Shula mới tỉnh ngộ. Ông nói: “Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng”. Thật là chua chát thay! Ông Shula bây giờ mới cười nhạo mình. Ông đã hạ mình xuống, đầy lòng khiêm nhường, viết ra bài chia sẻ với chúng ta về sự thật buồn cười đã xảy ra cho ông.
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: “Kiêu ngạo biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Khiêm nhường làm cho con người thành thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường trong đường tu đức như sau: “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.
Chúa Giêsu “ đang khi đến trong thế giới này” Ngài đã thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Ngài hoàn toàn hy sinh mạng sống để thi hành thánh ý của Đức Chúa Cha. Ngài đã mang lấy sứ mạng của Người Tôi Tớ hiền lành và khiêm nhường để cứu chuộc nhân loại. Đây là con đường linh đạo cho tất cả mọi người Kitô hữu.
Trong sứ điệp nhân ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu lần thứ 40, 11/5/2003. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng về Đức Maria, Tôi Tớ Thiên Chúa, như một gương mẫu của các bạn nam nữ sẵn sàng đáp lời mời gọi của Chúa để phục vụ cho Tin Mừng với lời kinh nguyện:
“Lạy Mẹ Maria, nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa Tối Cao, Người Con mà Mẹ hạ sinh đã biến Mẹ thành người tôi tớ của nhân loại. Cuộc đời Mẹ là một sự phục vụ khiêm tốn và quảng đại. Mẹ là người tôi tớ của Lời khi thiên thần loan báo cho Mẹ biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ là người tôi tớ của Chúa Con, khi ban cho Người sự sống và luôn hướng về mầu nhiệm của Người. Mẹ là người tôi tớ của Đấng Cứu Chuộc, khi dũng cảm đứng dưới chân thánh giá, kề bên Người Tôi Tớ Đau Khổ và Con Chiên, Đấng hy sinh chính mình vì yêu thương chúng con. Mẹ là người tôi tớ của Hội Thánh vào ngày lễ Hiện Xuống và với lời chuyển cầu Mẹ tiếp tục sinh ra Người trong mọi tín hữu, cả trong thời đại khó khăn và nhiễu nhương này của chúng con.
Ước gì những người trẻ của thiên niên kỷ thứ ba hướng nhìn lên Mẹ, người thiếu nữ của Irael, Đấng biết đến sự xao động của một tâm hồn trẻ khi đối diện với kế hoạch của Thiên Chúa hằng sống. Xin làm cho họ biết chấp nhận lời mời gọi của con Mẹ là trao ban trọn vẹn đời sống mình vì vinh quang của Thiên Chúa. Xin làm cho họ hiểu rằng phục vụ Thiên Chúa làm thoả mãn tâm hồn, và chỉ trong việc phục vụ Thiên Chúa và Vương Quốc của Người mà chúng con hoàn thành cuộc đời chúng con theo kế hoạch của Thiên Chúa, và đời sống nên một bài ca tụng vinh quang dâng lên Người”. (Bản dịch của lm John Du Sinh).
Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị vua đó thỉnh thoảng vi hành để nắm rõ thực trạng của dân chúng. Còn Thiên Chúa đối chúng ta thì sao? Chúa không chỉ đi thăm dân mà còn sống thân phận của người dân, trở nên như phàm nhân ngọai trừ tội lỗi để cứu dân mình khỏi khổ đau và quyền lực của bóng tối sự chết. Để thực hiện điều đó, Chúa đã chọn dân tộc Israel và sai các tiên tri dạy dỗ, hướng dẫn họ sống đạo đức để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Ngài đã sai Tổng lãnh Thiên thần Raphae đến một làng nhỏ miền Galilê và truyền tin cho Trinh nữ Maria biết ý định của Ngài.
Đức Maria đã vui mừng về ơn cứu độ của Chúa và đã nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế. Dù Mẹ có thể gặp khó khăn khi mang thai nhưng mẹ hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Ngay lúc Thánh Giuse định bỏ đi thì Thiên Thần Chúa can thiệp: báo mộng cho Giuse về ý định của Chúa: hãy rước Maria về nhà vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse hiểu ý Chúa và đón Đức Maria về nhà mình làm bạn mình và nhận Đức Giêsu làm con về mặt pháp lý.
Đâu ai ngờ được đường lối Chúa: vì yêu thương nhân loại đã không ngại xuống trần làm trẻ thơ và chịu những đắng cay của cuộc sống trần gian như chúng ta. Còn hơn thế nữa, Ngài đã chịu những khổ đau như những người đau khổ nhất: sinh nơi chuồng bò lừa, nằm trên máng cỏ! Đức Maria tin tưởng nơi chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã không đòi biết trước chương trình của Chúa nhưng chỉ hỏi để biết rõ ý Chúa muốn mình làm. Mẹ sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ: này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. Mẹ vâng phục rất là mau mắn. Việc thụ thai bởi quyền năng Chúa mà không qua kết hợp phái tính chưa từng xảy ra trên trần gian: một người nữ có con không do sự kết hợp phái tính, nhưng mẹ không thắc mắc thêm cũng không hỏi lại xem mình có nghe lầm không! Khác với Giacaria: chuyện có con trong lúc tuổi già đã từng xảy ra cho Abraham. Tuy cũng là một việc thụ thai kỳ lạ nhưng có thể dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, Mẹ đã chấp nhận thánh ý với lòng đơn sơ phó thác nơi quyền năng trong niềm tin vào Chúa. Mẹ tin rằng: đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được(St 18,14)
Noi gương Đức Maria, chúng ta vâng theo kế hoạch kỳ diệu của Chúa đối với mọi người chúng ta. Chúa không để chúng ta phải thiệt thòi nhưng luôn muốn ban ơn thật nhiều cho chúng ta. Chúng ta có dám nhận và và phát triển ơn Chúa ban đó để cuộc đời chúng ta nên tươi sáng và giống Chúa ngày một hơn không. Chúng ta tự hỏi xem Chúa muốn chúng ta ở địa vị nào trong xã hội, với ơn gọi và những bổn phận nào là xứng hợp với chính mình. Nếu Chúa muốn sai tôi làm công việc bác ái, giúp đỡ anh em tôi có vui lòng làm mà không đòi điều kiện không? Nếu Chúa muốn tôi sống nghèo giống Chúa Giêsu, tôi sẽ có thái độ nào. Nếu Chúa đặt chúng ta ở địa vị cao hơn, chúng ta có biết phục vụ Chúa và mọi người đúng mức không?
Lạy Mẹ Maria, chúng con quyết noi gương Mẹ luôn tin tưởng phó thác vào Chúa, cho dù con gặp gian truân xin Mẹ giúp con luôn giữ lòng trung tín mến yêu, cậy trông nơi quyền năng và sự xếp đặt của Chúa.
YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"
Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 - 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 - 27.
Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
Hành trình chuẩn bị chờ đón Chúa đến sắp kết thúc với CN 4 MV. Thời gian chuẩn bị không còn nhiều nữa. Ân huệ Thiên Chúa vẫn ban dư đầy. Còn chúng ta chuẩn bị đón rước Chúa như thế nào? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi mở cho chúng ta cách chuẩn bị đón rước Chúa.
Khi Vua Đavit đang yên ổn trong cửa ấm nhà êm. Ông nhớ đến Thiên Chúa. Ông muốn thể hiện lòng biết ơn của mình bằng việc xây một ngôi đền cho Thiên Chúa ngự. Ông tâm sự với tiên tri Nathan ước muốn của mình. Và ông nhận được sự tán thành của vị tiên tri. Nhưng đó không phải là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó, Thiên Chúa nhắc Đavit về thân phận của ông, đồng thời muốn Đavit ý thức đời sống mình cần phải cậy dựa vào ai! Thiên Chúa hứa sẽ giữ gìn Đavit và dòng dõi ông cũng như vương quyền của Vua nếu Vua biết sống trong đường lối và sự tuân phục Thiên Chúa.
Và Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa ấy qua dòng thời gian mặc dầu không phải lúc nào con cháu Đavit cũng trung thành với Thiên Chúa. Chính Đấng Cứu Thế cũng được sinh ra trong chính dòng tộc Vua Đavit. Đấng Cứu Thế ấy đã xuống thế làm người, đã gặp gỡ con người nhờ sự vâng phục của một người phụ nữ.
Thời đức mẹ, ai ai cũng mong đợi Đấng Cứu Thế. Và mỗi người có một cách thế riêng của mình. Mẹ Maria cũng có chương trình riêng của Mẹ để cầu mong Đấng Cứu Thế. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với Mẹ - muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế - Mẹ đã sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng với một tâm hồn khiêm nhường: này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Hai tiếng "xin vâng" Mẹ đã dễ dàng thưa, nhưng để sống với tiếng xin vâng ấy, trước mặt Mẹ là một tương lại mù tối. Luật lệ xã hội thời ấy rất khắt khe, làm sao Mẹ có thể giải thích được với mọi người. Gia đình hai bên, hàng xóm và ngay cả người bạn đính hôn sẽ nghĩ gì về mình đây? Mình có đủ sức bảo vệ mạng sống của mình hay không? Còn bào thai kia là Đấng Cứu Thế nữa thì sao?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu Mẹ nhưng tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Mẹ chấp nhận mọi nguy hiểm và mọi điều xấu nhất có thể xảy đến cho mình vì Mẹ yêu Chúa. Và chính tình yêu ấy Mẹ luôn được Chúa gìn giữ.
Với một tâm hồn khiêm nhường đơn sơ, Mẹ Maria hoàn toàn phó thác trọn vẹn vận mạng của mình trong tay Thiên Chúa. Với tiếng thưa xin vâng hoàn toàn trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và tự do, Mẹ đã đáp lại ơn Thiên Chúa kêu mời. Và Thiên Chúa đã làm đảo lộn lại tất cả những gì con người "toan tính" và mong đợi.
Đấng Cứu Thế giờ đây là một bào thai nhỏ bé nơi cung lòng của một người phụ nữ bình thường. Đấng Cứu Độ nhân loại lại được sinh ra trong cảnh nghèo hèn, đơn sơ. Mầu nhiệm cao cả đã được giấu kín từ ngàn xưa nay được biểu lộ nơi con người đơn sơ khiêm tốn. Theo Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Roma thì: mầu nhiệm ấy đã được loan báo cho muôn dân, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Nhưng muôn dân chỉ có thể tin và vâng phục khi để tâm hồn mình khiêm nhường hoàn toàn thẳm sâu như tâm hồn Mẹ Maria.
Chờ đón Chúa nhưng Mẹ Maria đã hoàn toàn để tâm hồn mình thẳm sâu hầu ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ xuống tràn đầy trên Mẹ. Và Thiên Chúa đã lo liệu cho Mẹ tất cả dù tương lai mịt mù đang chờ đón Mẹ. Cuộc sống của chúng ta cũng không tránh khỏi những khúc quanh mịt mù đen tối. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy học nơi gương Đức Mẹ hôm nay mà biết phó thác trọn vẹn cho Chúa. Càng phó thác ta càng nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Đồng thời hãy biết vâng theo thánh ý Người như Vua Đavit xưa. Để chính sự vâng phục của chúng ta chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống hôm nay.
Hôm nay Chúa Nhật thứ 4 Mùa Vọng, chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Chúa Giáng Sinh. Giáo Hội muốn chúng ta dọn lòng bằng cách tìm hiểu Đấng sẽ sinh ra là ai? Là vị thế nào? Phải chăng Ngài cũng là người phàm như chúng ta? Hay Ngài là Đấng Lạ Lùng khác thường xuất hiện?
Ngày xưa thên người ta công nhận có 5 kỳ quan thế giới được gọi là công trình đáng kể, đó là: Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Kim Tự Tháp của Ai Cập. Điện Pathenon của Hy Lạp. Vườn Thượng Uyển trên không và Tường Thành Babilon.
Ngày nay đứng trước những công trình kiến trúc tối tân, đồ sộ của các tòa nhà cao chọc trời, của máy điện tử Computer tinh vi, của Phi Thuyền vượt không gian... ta không thấy ngạc nhiên về những kỳ quan ấy nữa, vì ta đã thấy tận mắt, hiểu tường tận về cách cấu tạo và kết quả tất nhiên do trí óc tìm tòi, tính toán, xếp đặt khéo léo các nguyên tắc đã có sẵn mà Chúa đã thiết lập và xếp đặt từ ngày tạo dựng vũ trụ. Vua Salomon viết:Không có gì là kỳ lạ ở dưới thế gian này (Gv 1,9).
Nhưng lại có một sự lạ lùng hết sức, mà mắt phàm trần và trí óc con người không thể hiểu thấu mà bài Sách Thánh hôm nay nói tới, đó là: Việc Thiên Chúa làm người. Ngài sinh hạn như công lệ người đời, nhưng chất chứa một sự lạ lùng loài người không thể hiểu tỏ. Bài Phúc Âm kể: Thiên Sứ Gabriel được Thiên Chúa sai đến thành Nazareth, đến với một trinh nữ tên là Maria, đã đính hôn với một người tên là Giuse, để loan một tin mừng cả thể mà cha ông chúng ta đã 4000 năm trông đợi. Trinh Nữ sẽ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, sẽ sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, nghĩa là Đấng Cứu Chuộc muôn dân. Ngài được gọi là Đấng Thánh Tối Cao và là Con Thiên Chúa.
Tiên Tri Isaia, trước Chúa Giáng Sinh 700 năm đã nói tiên tri rằng:Sẽ có một con trẻ sinh ra giữa chúng ta. Ngài là Đấng Thánh hết sức lạ lùng. (Is 9,5). Việc Thiên Chúa giáng trần là việc đặc biệt của Thiên Chúa thực hiện, mà trí óc loài thụ tạo chúng ta không sao hiểu thấu.
Nhà đạo sĩ trứ danh C.H.Spurgeon, thế kỷ 18 khi suy về việc Chúa Giáng Sinh, ông thốt lên:Tôi tin và tôi tin thật mọi sự lạ lùng Thiên Chúa làm vượt xa tầm trí hiểu biết của ta và chỉ khi nào về trời ta mới hiểu đủ. Thực lạ lùng thay: Đấng vô hình mà thành Con Trẻ, Đấng Hằng Có đời đời mà chịu sinh ra bởi người đà bà. Đấng Toàn Năng mà cầm bú sữa. Đấng nâng đỡ vũ trụ mà làm Con ông Giuse. Đấng nên mọi sự mà giam mình trong nhà chầu. Vua Trời Đất mà thành người trên vũ trụ. Việc Ngài sinh ra đã lạ lùng trước mắt chúng ta, rồi cả cuộc sống tại thế của Ngài cũng nào hết tiếp diễn bao sự lạ lùng khác nữa:
- Khi còn là con trẻ trên nôi đã khiến một ông vua hoảng sợ mất ngôi, mà ra lệnh tru diệt hết các con trẻ đồng lứa tuổi, hầu có thể giết được Ngài.
- Còn là con nít nằm trong máng cỏ, mà các vị vua khác đến bái thờ làm minh chủ.
- Là em nhỏ 12 tuổi, mà làm các vị thông thái phải ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài.
- Suốt đời Ngài chỉ viết có một lần trên cát rồi xóa đi, mà ngày nay các sách viết về Ngài lên như núi.
- Ngài không là Ca sĩ, Nhạc sỹ, Thi sỹ, nhưng lại nên nguồn cảm hứng chi thi sỹ, Nhạc sỹ, để rồi nơi trần thế la liệt các bản Thánh Ca, Thi Ca ca tụng Ngài.
- Ngài chỉ xuất ngoại bất đắc dĩ có một lần sang Ai Cập, thế mà ngày nay chẳng nơi nào trên thế giới không biết đến tên Ngài. Ai cũng nói với Ngài bằng chính ngôn ngữ của mình.
- Ngài không xuất thân từ trường sỹ quan, nhưng lại nên nguyên soái chinh phục các linh hồn bằng tình thương.
- Ngài là lang y thật tài, không chữa bệnh bằng dược thảo, nhưng bằng lời.
- Ngài giầu có hết sức, nhưng lại hóa nên nghèo đến nỗi cái khố cũng không đủ che khi tất tưởi phơi mình trên thánh giá. Mồ chôn thì đi mượn của người ta. Thiết đãi bạn bè bằng mấy con cá đi mượn của em bé bán rong.
- Loài người vố Vô nhân thập toàn, còn Ngài thanh sạch đến quan tòa Philatô cũng phải công nhận Người vô tội (Jn 19:6).
Mai mốt đây chúng ta long trọng mừng đón ngày Giáng Sinh của một vị Thiên Chúa Làm Người, toàn vẹn, toàn tài, toàn năng, toàn bích, phép tắc vô cùng... Ngài xứng đáng được tôn làm vua cõi lòng, vua tâm hồn, làm Chúa yêu thương, làm minh chủ dẫn đàng, làm bạn đường yêu ủi lúc vui buồn trong cuộc sống...
Ngài không muốn chúng ta chỉ ngắm nhìn Ngài như ngăm nhìn một em bé nõn nà xinh xắn trong máng cỏ với chuỗi điện mầu... Nhưng Ngài muốn chúng ta đón Ngài bằng cả tâm hồn thanh sạch, tâm hồn ấm áp tình mến, tâm hồn bình an, tâm hồn tràn niềm vui, tâm hồn đầy ơn nghĩa.... Nghĩa là một tâm hồn trong sạch, không tội lỗi, không hận thù. Một tâm hồn vị tha đầy tình huynh đệ, để khi Ngài đến, Ngài lấy cái kỳ diệu của Ngài mà đồng hóa, mà biến đổi cuộc sống chúng ta, làm chúng ta nên hiện thân, nên nghĩa tử muôn đời của Ngài.
Ước mong những ngày còn lại, chúng ta hãy dọn lòng một cách xứng đáng để đón rước Ngài, tiếp nhận Chúa, suy tông Chúa là Chúa bình an của cõi lòng, cho lời Thiên Sứ ca vang nên ý nghĩa cho lòng chúng ta:
Sáng danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lể Chúa Giáng Sinh. Thời điểm này Giáo Hội trình bày cho chúng ta một gương mặt quan trọng của biến cố Chúa Giáng Sinh. Đó chính là Đức Maria, một người nữ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, để qua Người, Con Thiên Chúa được Nhập Thể và Nhập Thế.
Đức Maria là một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi người thiếu nữ khác nhưng là người đặc biệt hơn mọi thiếu nữ khác vì được "đầy ân sủng" và được "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Hơn nữa, Đức Maria là người được chọn làm Mẹ Đấng Messia ( Lc 1, 30 -33). Mặc dù được những ưu tiên như thế nhưng Mẹ Maria không tỏ ra kiêu căng, ngược lại, Đức Maria đã làm theo sáng kiến của Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn, Vâng Phục Ngài cách tuyệt đối.
Con người là một tạo vật được Thiên Chúa yêu thương , và vì yêu thương mà Ngài đã dựng nên. Ngài ước ao sẻ chia tình yêu thương nên đã tạo dựng con ngưởi, một lòai thụ tạo trên mọi loài thụ tạo. Nhưng khác với mọi thụ tạo khác, con người có lý trí, ý chí và con người còn có tự do, nó có thể ước muốn, đón nhận hay chối từ món quà của Thiên Chúa, có thể nói tiếng "xin vâng" hay "không xin vâng" với lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn muốn cho con người hạnh phúc và Ngài tôn trọng tự do của con ngươi. Vì được tự do và muốn làm theo ý mình nên người nữ đầu tiên tức là Bà Evà đã phạm tội, Bà đã đưa nhân lọai vào sự chết do bất tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, Đức Maria được coi là Bà Evà mới, dùng sự tự do của mình để hoàn toàn vâng phục và cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, để Ngài thực hiện chương trình cứu độ trong cuộc đời mình.
Đọc lại bài Tin Mừng Lc 1, 26 - 38 này, ta được chứng kiến giây phút lịch sử của tình thương, giây phút tràn trề niềm hy vọng, giây phút mang lại sự sống mới, sự sống cứu độ đến cho con người.
Sống trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, như những người khác, Đức Maria đang trông chờ Đấng Cứu Thế. Mẹ nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, nỗi trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người của nhân loại của Đức Maria. Đức Maria cũng có những dự tính riêng tư, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ đã sẳn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, khi được sứ thần đề nghị Mẹ cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thì Mẹ chấp nhận ngay, Mẹ đã nhận lời với tâm tình của một người tôi tớ, đón nhận tất cả trong sự vâng phục.
Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria âm thầm lăng lẽ trong ngôi nhà nhỏ bé. Việc Chúa khởi đầu bao giờ cũng nhỏ bé, nơi những con người nhỏ bé. Tiếng "Xin Vâng" với lòng yêu mến và sự khiêm hạ của Đức Maria đã trổ sinh sự sống mới cho con người. Từ tiếng "Xin vâng" của Đức Maria mà Thiên Chúa làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ con người. Mẹ đã góp phần vào ơn cứu độ thế giới, qua việc hiến dâng bản thân mình, sẳn sàng phục vụ cho ý muốn của Thiên Chúa.
Càng nhìn về Đức Maria, càng cho ta thấy mẫu gươngvề sự cộng tác với Thiên Chúa. Cuộc sống có những điều xảy đến ngoài ý muốn của mình. Xin Chúa cho ta biết can đảm chấp nhận. Ngoài ra chúng ta biết cho đi những định kiến, nóng vội, những trái ý trong cuộc sống.... khi có những người không làm cho mình vui. Đó là lúc chúng ta đi theo bước chân của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vui lòng cộng tác với Thánh Ý Thiên Chúa, Mẹ là Đấng đồng công Cứu chuộc, là máng chuyển thông ơn cho nhân loại. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống đạo cho nên, biết thờ phượng Chúa cho phải Đạo, và sẳn sàng yêu thương, giúp đỡ cho tha nhân,.. để nhằm làm sáng danh Chúa. Amen.
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, mọi loài hữu hình và vô hình. Mọi sự đều tốt đẹp và tồn tại trong tốt đẹp, chỉ với một điều kiện là: các thiên thần và loài người luôn biết thờ phượng, kính mến và vâng lời Thiên Chúa.
Ma quỷ và tổ tông loài người đã không vâng lời Thiên Chúa, không thờ phượng kính mến Chúa, nên đã gây ra một sự phản nghịch với Thiên Chúa, một sự hỗn độn giữa các loài, mất trật tự trong chính loài mình, và ngay cả trong chính bản thân mình.
Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế, để giao hoà mọi loài với nhau và giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài chuộc lại sự bình an hạnh phúc ban đầu cho mọi loài.
Như vậy, để cứu chuộc nhân loại, Đấng Cứu Thế phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa cách triệt để. Cũng một thể ấy, người mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách trọn vẹn. Ngay cả người cha theo luật của Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Chúng ta có thể thấy rõ, Chúa Giêsu vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu có thể được...". Đức Maria thưa với thiên thần: "Nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền". Thánh Giuse âm thầm chỗi dậy thi hành hết những gì Chúa muốn.
Để chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế, thánh Giuse và Đức Maria đều tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Trong những ngày chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, trong ngày Chúa nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay, mỗi người chúng ta phải tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Nếu như chúng ta có vấp phải sự bất tuân luật Chúa, chúng ta phải thật lòng sám hối, và nhất quyết không phạm tội. Hơn nữa, chúng ta còn phải trang trí cho tâm lòng chúng ta những bông hoa đẹp là các việc lành, những dầu thơm của các nhân đức, những ánh sáng màu sắc của đức tin, và những nghĩa cử của lòng bác ái .v.v...
Trên tất cả mọi sự, thì đức vâng lời là làm đẹp lòng Thiên Chúa, là hơn mọi lễ vật. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết thưa xin vâng, và biết thi hành thánh ý Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng con xứng đáng đón mừng Chúa Hài Nhi giáng sinh ngự đến cứu chuộc chúng con. Amen.
QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA SẼ BAO TRÙM TRÊN BẠN.
Chủ đề: “Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người Đức Giêsu - làm cho tất cả mọi sự đều trở nên có thể thực hiện được”.
Thánh Inhaxiô Loyola chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ Châu. Ngài chưa đực 16 tuổi thì cha mẹ Ngài đã mất hết. Vì thế, cho tới khi trưởng thành, Inhaxiô vẫn sống vô kỷ luật và ngông cuồng bướng bỉnh. Một ngày kia, Inhxiô cải thiện đời sống và từ bỏ tội lỗi mình. Ngài thành tâm thống hối sâu xa và trở lại với Chúa. Ngài viết nhật ký kể lại những kinh nghiệm của mình. Về sau Ngài xuất bản cuốn nhật ký đó như một cẩm nang chỉ dẫn cho người khác con đường tìm gặp Đức Giêsu của họ. Nhật ký đó gọi là tập “Linh Thao”.
Một trong những bài “linh thao” ấy dạy về cách suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay. Cách đó gồm ba bước:
Bước đầu tiên là tưởng tượng xem thế giới thời trước Đức Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan hờ hững đối với Thiên Chúa. Sự xấu tràn lan như một ung thư khổng lồ. Thế giới rơi vào một tình thế vô vọng.
Bước thứ hai là tưởng tượng Thiên sứ Gabriel từ trời xuống báo tin cho Maria rằng nàng được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chính chúng ta cùng với Thiên sứ từ trời bay xuống. Chúng ta nhìn xuống trái đất xa thật xa. Nó chỉ là một chấm sáng bé tí trong vũ trụ đầy sao. Khi chúng ta bay tới gần hơn, chúng ta thấy một đốm trên mặt địa cầu gọi là Đất Thánh. Khi tới gần hơn nữa, chúng ta thấy làng Nazarét. Cuối cùng, chúng ta gặp Maria trong căn nhà. Nàng đang im lặng qùi gối cầu nguyện.
Bước thứ ba là lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới hai câu: câu thứ nhất là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên cô: vì thế Đấng Thánh con của cô sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu xh.40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” vốn ít được dùng tới trong Kinh Thánh ấy không phải là ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt hòm giao ước của Thiên Chúa. Ông so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa có thể hiện diện nơi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, y như người ta có thể hiện diện với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một đứa con đang trọ học ở trường vẫn có thể hiện diện đối vối mẹ nó qua bức ảnh chụp của nó trên bàn của bà, hay một cách thân mật hơn qua lá thư nó viết mà bà cầm trong tay. Khi đứa con về nhà, nó sẽ hiện diện một cách thân mật và hiện thực nhất có thể đối với mẹ nó, một sự hiện diện bằng xương bằng thịt.
Cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết Ngài hiện hiện với chúng ta qua vạn vật mà Ngài sáng tạo. Nơi vạn vật Thiên Chúa có đặt một cái gì đó thuộc về bản thân Ngài cũng giống như nhạc sĩ đặt một cái gì đó thuộc về bản thân ông trong dòng nhạc của bài ca ông sáng tác. Kế đó, Thiên Chúa hiện diện đối với chúng ta qua lời của Thánh Kinh. Tư tưởng của Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh Kinh, y hệt như tư tưởng của người nhạc sĩ hiện diện với chúng ta trong bài ca của ông. Sau cùng, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu. Thiên Chúa đã trở nên hiện diện với chúng ta bằng xương bằng thịt, y như nhạc sĩ có thể hiện diện có thể hiện diện đối với chúng ta bằng xương bằng thịt của ông. Điều này khiến chúng ta trở về với câu đầu tiên mà chúng ta phải đặc biệt lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria rằng quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm nên nàng. Khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì Thiên Chúa trở thành hiện diện đối với chúng ta bằng cách thức thân thiện nhất có thể tưởng tượng được. Ngài đã trở thành hiện diện đối với chúng ta qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giêsu.
Điều này dẫn chúng ta trở về với câu thứ hai mà chúng ta phải lưu tâm tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu này được nói tiếp theo câu trước nói về quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria. Trong câu này, Thiên sứ nói: “xin báo cho cô biết rằng bà Isave, chị họ của cô, đã thụ thai một cậu con trai trong tuổi gìa. Ai cũng nghĩ bà sẽ không con, thế mà bây giờ bà đã có thai được sáu tháng, vì không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”. Trong câu này, mệnh đề quan trọng là “đối với Thiên Chúa thì không có gì không thể làm được”. Tin Mừng hôm nay làm nổi bật môt cách tuyệt diệu biết bao ý tưởng “không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”.
Trước khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì thế giới đang sống trong tình trạng vô vọng. Tội lỗi và bạo lực lan tràn khắp nơi. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, không có ai hy vọng nàng sẽ sinh con cả, vì nàng là một trinh nữ. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Isave, bà không còn có thể hy vọng sinh con được nữa, vì bà đã gìa không còn khả năng sinh sản. Và cuối cùng, trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, nhân loại không có hy vọng được cứu rỗi, vì nhân loại đang sống trong vòng nô lệ Satan.
Quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria đã thay đổi tất cả.
Điều đó ý nghĩa gì đối với chính chúng ta hôm nay? Điều đó có ý nghĩa là:
Thế giới chúng ta có thể đang hỗn độn. Gia đình chúng ta có thể đang xáo trộn. Cuộc sống chúng ta có thể đang hỗn loạn. Nhưng vẫn còn có hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã nhập vào thế giới này qua con người Đức Giêsu.
Đó là những gì chúng ta đang chuẩn bị cử hành đón mừng trong những ngày cuối cùng trước Giáng Sinh. Đó là những gì đem lại cho chúng ta niềm vui ngoài sức tưởng tượng, niềm hy vọng không dám ước mơ.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện bằng những lời mà Đức Maria đã dùng để cầu nguyện khi Ngài đến thăm chị họ Isave của Ngài. Xin anh chị em cùng cầu nguyện với tôi trong thinh lặng:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa. Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa cứu chuộc tôi… Ngài đã giữ lời hứa với Tổ phụ chúng ta … Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham. Và với tất cả dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc.1, 46 -47. 54 -55)
Cách đây ít lâu, có một tờ báo có thuật lại chuyện về ông bầu của một đội bóng. Ông là một người rất nổi tiếng. Trong giới thể thao ai cũng biết đến tên của ông. Hôm đó ông cùng với vợ đi nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đưa vợ đi xem chiếu bóng tại một rạp hát trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái chí. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: "Mình ở xa cách đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến mình và kính trọng mình, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô. Chắc là họ đã ngưỡng mộ mình và đã biết mình qua màn ảnh Tivi.
Sau đó, có một người tiến đến bắt tay chào ông. Mặt mày hớn hở, ông nói: "Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?" Người kia trả lời: "Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi chúng tôi thấy ông và vợ ông bước vào rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không chiếu phim, nếu không có thêm hai khán giả nữa". Bấy giờ, ông ấy mới tỉnh ngộ. Ông nói: "Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng". Thật là chua chát!
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: - Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
Thánh Agustinô đã nói: "Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến của con, nhưng để thánh hoá và cứu độ con thì Chúa cần sự góp sức của con". Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa quyền năng: "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dẫu vậy, Thiên Chúa không muốn hành động lấn át tự do của con người, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Tự do chính là tặng phẩm cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Khi ban tặng tự do cho con người, Thiên Chúa vẫn biết rằng: con người có thể lạm dụng tự do để làm việc chuyện xấu, nhưng Ngài vẫn ban cho con người tự do vì quá yêu thương họ. Tự do đi liền với trách nhiệm. Vì có tự do nên con người phải có trách nhiệm và chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm về những việc liên quan đến phần rỗi đời đời của mình.
Con người thường dùng tự do để thực hiện những chọn lựa của mình và họ phải chịu trách nhiệm trong những chọn lựa ấy. Con người có thể dùng tự do để chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của đời mình, làm hạnh phúc của đời mình; nhưng con người cũng có thể dùng tự do của mình để khước từ Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy được rất rõ điều này trong cuộc sống. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy được rằng: Càng biết dùng tự do của mình để chọn những điều tốt thì chúng ta càng được tự do, nhưng nếu chúng ta sử dụng tự do của mình để chọn những điều xấu thì chúng ta càng bị mất tự do.
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại cho chúng ta nghe biến cố "truyền tin". Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho Đức Maria biết là Thiên Chúa muốn mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa chờ đợi sự tự do đáp trả của Đức Maria trong việc quan trọng này. Chúng ta thấy, Đức Maria cũng rất bối rối và đầy thắc mắc khi nghe lời báo tin của Sứ thần. Nhưng sau khi được nghe giải thích: Đấng Mẹ sẽ cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Con Thiên Chúa tối cao và sẽ trở thành Đấng Cứu độ muôn dân, Mẹ đã tự nguyện nói lên 2 tiếng "Xin vâng". Đức Maria đã đồng ý để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã dùng sự tự do của mình để chọn Thiên Chúa, chọn chương trình của Thiên Chúa để làm theo và Mẹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Mẹ đã quên đi lời cầu nguyện mà mọi người thường dùng để thưa với Chúa là: "Xin ý Chúa được đổi lại", nhưng Mẹ đã học biết và thân thưa với Chúa lời cầu nguyện lớn nhất của trần gian là: "Xin ý Chúa được thực hiện" .
Chắc chúng ta cũng có suy nghĩ này là: được kêu gọi làm Mẹ Thiên Chúa thì còn gì bằng! Tội gì mà không chịu? Nhưng đó là cách nhìn trần thế và mang tính dụ lợi của con người. Quả thật là khi kết thúc cuộc đời trần thế, thì Mẹ Maria được vinh dự đón nhận triều thiên vinh quang với tước hiệu Nữ vương Thiên quốc. Nhưng để đạt được điều đó. Đức Maria đã trải qua một cuộc đời đầy những gian lao, đau khổ và nguy hiểm. Trước hết, Đức Maria đã phải hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Tin mừng cho chúng ta biết là trước khi được Sứ thần đến báo tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse rồi. Đính hôn nhưng chưa chung sống. Như thế, nhận cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ có thể bị hiểu lầm từ nhiều phía: từ thánh Giuse và từ những người quen biết Mẹ, ngay cả Mẹ có thể bị ném đá cho đến chết. Vì đối với luật Do thái, một phụ nữ chưa có chồng chính thức mà mang thai thì sẽ bị ném đá cho đến chết. Như thế, chúng ta thấy nguy hiểm đang đe doạ Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Thiên Chúa và chịu trách nhiệm cho những gì Mẹ đã chọn lựa. Một lần xin vâng là Mẹ xin được trọn vẹn thuộc về Chúa. Chọn lựa của Mẹ Maria là sự chọn lựa cao nhất và lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại.
Chọn lựa của Mẹ Maria làm cho chúng ta phải suy nghĩ về chọn lựa đối nghịch lại của bà Eva ngày xưa. Eva cũng dùng tự do của mình để chọn lựa, nhưng chọn lựa của bà Eva đã làm cho mọi sự bị xáo trộn và đảo ngược theo chiều hướng xấu. Mọi sự đang tốt đẹp trở nên xấu xa và tội lỗi. Hậu quả bi thương ấy không những ảnh hưởng cho riêng bà mà còn cho biết bao nhiêu con người khác. Chọn lựa của bà Eva ngày xưa xuất phát từ sự tham lam và kiêu căng. Bà Eva đã chọn làm theo ý riêng mình mà khinh thường mệnh lệnh của Chúa, khinh thường thánh ý của Chúa và cũng là khinh thường chính Thiên Chúa nữa. Ngược lại, Đức Maria đã chọn lựa làm theo ý Chúa để làm vinh danh Chúa và mang lại nhiều ích lợi cho con người. Hạnh phúc không phải là kết quả của những chọn lựa tham lam và kiêu căng theo ý con người, nhưng là chọn lựa và làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Con người thường lầm tưởng là tiền tài, danh vọng, sức khoẻ sẽ mang lại hạnh phúc cho con người. Những điều ấy tuy có làm cho con người bớt đi phần nào những gánh nặng trong cuộc sống trần thế, nhưng đó chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người đâu. Chúng ta đừng lầm tưởng và mê muội như thế. Chọn lựa sai lầm trong cuộc sống sẽ đưa đến hậu quả tai hại biết là dường nào, và trách nhiệm nặng nề ấy chúng ta phải mang lấy.
Chuyện kể rằng: "Có một người nông dân nghèo, suốt đời vất vả ngược xuôi nhưng cũng không có đủ cơm ăn áo mặc cho đàng hoàng. Thình lình anh nghe người ta nói là ở trên ngọn núi cao cách nhà anh khoảng 200 dặm, có một vị pháp sư tài giỏi, có thể giúp anh thoát cảnh nghèo khổ. Thế là anh khăn gói lên đường. Vất vả tìm kiếm và cuối cùng anh cũng tìm được vị pháp sư ấy. Vị Pháp sư hỏi anh muốn gì? Anh trình bày với vị Pháp sư hoàn cảnh của mình và mong muốn được giúp đỡ. Vị Pháp sư bình thản trả lời: "tưởng gì chứ chuyện đó thì dễ thôi. Nhưng tôi cũng nói cho anh biết nó nguy hiểm lắm". Anh nông dân nghèo liền trả lời: "Không sao. Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm chứ ngoài ra không có gì nguy hiểm cả". Thế là anh năn nỉ cho bằng được điều anh mong ước. Cuối cùng vị Pháp sự cũng chìu ý anh. Vị Pháp sư căn dặn rằng: "Tôi sẽ dạy anh thuộc lòng câu thần chú này. Bất cứ khi nào anh đọc câu thần chú lên thì có một thằng quỷ xuất hiện và đợi lệnh anh. Nhưng anh nhớ là phải có việc cho nó làm, nếu không thì nó sẽ vặn cổ anh đó". Anh nông dân hí hửng ra về. Vừa đến nhà, anh liền đọc câu thần chú lên và một thằng quỷ xuất hiện. Anh ra lệnh nó dọn cho anh một bữa ăn thịnh soạn. Tưởng cũng phải mất 1 tiếng đồng hồ. Ai ngờ chỉ 30 giây là xong ngay. Nó đứng chờ lệnh anh. Anh ra lệnh cho nó xây cho anh một căn nhà sang trọng cỡ nhà vua ở. Tưởng phải mất một vài tháng, nào ngờ chỉ 5 phút là xong. Anh ra lệnh tiếp cho nó đi tìm cho anh một người mỹ nữ về làm vợ. Tưởng mất vài ngày, nào ngờ cũng chỉ 3 phút là có ngay cho anh một cô giá tuyệt trần. Hốt hoảng anh không còn biết phải ra lệnh gì nữa. Nhưng thằng quỷ nói: "Nếu ông không có việc cho tôi làm là tôi sẽ vặn cổ ông đó". Sợ quá, anh bảo nó canh nhà cho anh đi công việc. Nó tuân lệnh và anh hối hả chạy đi tìm vị Pháp sư để xin được giúp đỡ. Gặp vị pháp sư anh liền trình bày vấn đề. Vị Pháp sư bình thả trả lời: "Tôi đã nói với anh rồi. Nó nguy hiểm lắm, thế mà anh không nghe". Anh năn nỉ vị Pháp sư thương giúp anh khỏi chết. Thế là vị Pháp sự dặên bảo anh về nhà bảo thằng quỷ ngồi đó vuốt đuôi con chó cho thẳng ra. Và thế là thằng quỷ phải làm công việc ấy cho đến thiên thu vì đuôi con chó được vuốt thẳng ra lại co vào mãi. Thế là anh thoát nạn.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: chọn lựa sai lầm trong cuộc sống này thật là nguy hiểm và chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm nặng nề là dường nào. Câu chuyện cũng cho chúng ta thấy: hạnh phúc không hệ tại ở việc có đầy đủ mọi thứ sang trọng ở trần gian nhưng là niềm vui được sống bình an trong những chọn lựa của mình, với những gì mình đang có trong tầm tay.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tự do cũng như mọi khả năng của mình để chọn và làm theo ý Chúa như Đức Maria đã làm để chúng ta được hạnh phúc ngay ở trần gian này vì mình được tâm hồn bình an và nhất là ngày sau chúng ta được chia sẻ vinh quang với Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Amen.
“Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng… Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7,9, 16).
Khoảng 700 năm trước Thiên Chúa giáng trần, sau khi Đavit được xức dầu làm vua các chi họ Do Thái và Giuđa, thì việc đầu tiên ông nhắm tới là phải đánh chiếm thành Giêrusalem từ tay người Giơ-vút để thiết lập một thành trì chính trị chung cho cả nước. Để bảo đảm được lòng trung tín của mọi chi họ, Vua Đavít cũng quyết định sẽ biến Giêrusalem thành một trung tâm tôn giáo chính. Với quyết định như vậy, Vua Đavít đã đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào trong thành để tiến hành công việc xây dựng một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Đây là một việc làm rất đáng ca ngợi, nhưng Thiên Chúa cho Đavít biết, Ngài sẽ thực hiện một công việc vĩ đại hơn, đó là làm cho dòng dõi của ông thành một triều đại vững mạnh và miêu duệ của ông sẽ trị vì ngôi báu đến muôn đời. Chúng ta thấy lời hứa này đã được Thiên Chúa hứa với Abraham, Isaac và Giacób là các tổ phụ của Đavít, và Ngài đã thực hiện lời hứa đó qua biến cố nhập thể của Đức Giêsu như lời Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria: “Này bà sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacób và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1,31-33).
Qua câu chuyện Thánh Kinh này, chúng ta thấy đường lối của Thiên Chúa không như những gì con người suy nghĩ. Trong sự hiểu biết giới hạn, nhiều lúc chúng ta thấy những dự tính của mình rất là tốt lành và cao cả, nhưng đối với Thiên Chúa, với quyền năng thấu suốt mọi sự, Ngài không cho đó là một việc đáng làm. Bằng chứng cho thấy là việc Vua Đavít xây dựng đền thờ là một việc làm thánh thiện để bày tỏ lòng biết ơn và kính yêu của ông đến Thiên Chúa, ngay cả tiên tri Nathan cũng cho đó là hợp tình hợp lý, nhưng Thiên Chúa lại muốn thực hiện một chương trình vĩ đại hơn, đó là thiết lập một triều đại vững bền để cho Ngôi Lời nhập thể và trị vì ngôi báu đến muôn đời. Vương quốc mà Thiên Chúa đã thiết lập không thuộc về thế gian này, nhưng bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Giêsu Con Một của Ngài. Khi áp dụng chi tiết này vào trong đời sống đức tin, chúng ta thấy, rất thường xuyên có những dự tính chúng ta cho rằng tốt lành và cao cả đã không thành công như lòng mình mong muốn, mà đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận đó là thánh ý của Thiên Chúa. Chẳng hạn như có nhiều những bậc cha mẹ mong muốn cho con mình lớn lên trở thành những linh mục, nữ tu, hay những bậc vị vọng trong xã hội. Rồi từ những ước vọng đó, họ đã làm tất cả để được thành công. Nhưng đâu phải có ước vọng rồi đem ra thực hiện là thành công. Chúng ta cần phải để cho Thiên Chúa quan phòng cho chúng ta theo như ý định của Ngài. Đó chính là lý do tại sao, có nhiều lần chúng ta thấy lời cầu xin của mình rất là chính đáng mà không thấy Thiên Chúa ban cho. Không phải Ngài không nhận lời chúng ta, nhưng vì thấu hiểu mọi sự nên Ngài ban hay không ban đều nhằm mục đích mang lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta và cho chung tất cả mọi người.
Nhận thức rằng sự hiểu biết của mình có giới hạn và với niềm tin nơi Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương, chúng ta hãy sẵn sàng đón nhận mọi ý định của Thiên Chúa và chu toàn ơn gọi Ngài đã thương ban để danh Ngài cả sáng và triều đại Ngài vững bền muôn thuở.
CÙNG MẸ MARIA SỬA SOẠN ĐÓN NHẬN NGÔI LỜI NHẬP THẾ
Vào thời trước Chúa Giáng Sinh, thì dân Do Thái mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết, vì họ đã chán ngấy cái tình trạng suy đồi ở xã hội Do Thái. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều trên đường xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tính đến để giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do Thái nói chung thì mong được làm mẹ Đấng Cứu thế. Riêng trinh nữ Maria thì lại không có cao vọng làm mẹ Đấng Cứu thế, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse. Cái luật đính hôn của Do Thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Đã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên bà Maria qua một sự thỏa thuận nào đó với ông Giuse, như một lời khấn, đã giữ mình đồng trinh. Chẳng thế, mà khi sứ thần Gabriel đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế, trinh nữ tỏ mối quan tâm về cái lời hứa đồng trinh của mình: Điều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Điều đó chứng tỏ Trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi Sứ thần bảo đảm với Trinh nữ là việc Trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì Đức Maria mới chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng Cứu thế. Việc thánh Giuse từ bỏ Đức Maria ra đi cách kín đáo khi nhận ra Bà đang mang thai cũng chứng tỏ là Thánh Giuse ý thức được rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại Trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền qua miệng Sứ thần Gabriel để được thụ thai, mặc dù không hiểu sự việc có thể xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng Trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận bằng hai tiếng Xin Vâng theo thánh ý Chúa. Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng Trinh Nữ. Thời bấy giờ, Trinh Nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Đấng Cứu Thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do Thái riêng. Đặc biệt, Trinh nữ mong đợi Đấng Cứu thế sinh ra từ lòng mình.
Vậy cái lòng mong đợi mà ta cần có là cái mong đợi của Trinh nữa Maria mang thai. Đàn ông và những người đàn bà không lập gia đình không có được cái kinh nghiệm mang thai đó. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai, ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào trinh nữa Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng chín tháng cưu mang như những người đàn bà mang thai khác. Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa, tin vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ Maria thụ thai cách kỳ diệu, không có sự cộng tác của người nam phải kiến ta nảy sinh ra cái cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã đi cái cảm giác đó, mất đi cái cảm giác kính sợ, lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên. Đức tin của trinh nữ Maria vào lời Chúa phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là cái gì thuộc quá khứ không ăn nhập với nếp sống hiện tại. Lời Chúa nói với loài người cả ngàn năm trước đây, và Lời Chúa phải có sức sống động trong ta, vì Chúa là Đấng hằng sống.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Vào thời mà ngay trước Đấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi trong xã hội Pa-lét-tin. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự sống đời buông thả. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Đấng cứu thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do thái nói chung thì mong được làm mẹ đấng cứu thế. Riêng trinh nữ Maria lại khác nữ giới thời bấy giờ, không nuôi tham vọng đó, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse.
Luật đính hôn của Do thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Đã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên trinh nữ Maria qua một sự thoả thuận kín đáo với ông Giuse, như một lời khấn, quyết giữ mình đồng trinh. Chẳng thế mà khi sứ thần Gáp-ri-en đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế, thì trinh nữ tỏ mối quan tâm về lời hứa của mình: Điều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Điều đó chứng tỏ trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi sứ thần bảo đảm với trinh nữ rằng việc trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì trinh nữ mới chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Còn việc thánh Giuse từ bỏ Đức Maria ra đi cách kín đáo, khi nhận ra Bà đang mang thai, cũng chứng tỏ rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền, qua miệng sứ thần Gáp-ri-en để mang thai, mặc dù không hiểu sự việc xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận theo thánh ý Chúa: Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói (Lc 1:38). Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng trinh nữ. Giả sử trinh nữ Maria không ưng thuận, thì điều gì sẽ xẩy ra cho nhân loại? Và đời ta sẽ ra sao bây giờ? Ôi, hồng phúc thay lời xin vâng muôn thuở!
Khi vua Đavít đã ổn định tình thế quân sự, chính trị và xà hội trong nước, mà nhà vua thì được ở nhà gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì lại ở trong lều vải (2 Sm 7:2), nên nhà vua có ý định xây nhà để giữ Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia được coi là biểu tượng của giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và nhà Ít-ra-en vì Người đã chọn họ làm dân riêng và ban giới luật cho họ. Vì thế Hòm Bia cũng được coi là biểu tượng của sự hiện diện của Giavê. Tuy nhiên Thiên Chúa lại có chương trình khác. Chương trình của Thiên Chúa nhắm tới thời gian mà một người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en (Is 7:14). Chương trình đó được thực hiện khi trinh nữ Maria chấp nhận thụ thai Đấng Em-ma-nu-en (Mt 1:23). Vì thế mà trong Kinh cầu Đức Mẹ, Giáo hội coi trinh nữ Maria chính là Hòm Bia của Thiên Chúa như khi ta kêu cầu: Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy, vì trinh nữ đã cưu mang Ngôi hai Thiên Chúa trong lòng mình. Chương trình của Thiên Chúa đã được ghi lại trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn La mã: Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa ( Rm 16:26).
Thời bấy giờ, trinh nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Đấng cứu thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do thái riêng. Đặc biệt, trinh nữ mong đợi Đấng cứu thế sinh ra từ trong dạ mình. Vậy lòng mong đợi mà người tín hữu cần có là lòng mong đợi của trinh nữ Maria mang thai. Đàn ông và những người đàn bà không lập gia đình thì không có được kinh nghiệm mang thai. Để cho người ta có được ý niệm phần nào về việc mang thai, có một hãng xưởng kia chế tạo một túi bị với chiều kích theo đường cong của bụng mang thai, mà khi đeo vào bụng, thì người ta cũng đi đứng, nằm ngồi tựa hồ như người đàn bà mang thai. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai hay không đeo bị vào bụng, người ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào, trinh nữ Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng đợi chờ chín tháng mười ngày như những người đàn bà mang thai khác.
Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa và cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ thụ thai cách kỳ diệu mà không có sự cộng tác của người nam, phải giúp ta nảy sinh ra cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã mất đi cảm giác đó, nghĩa là mất đi cảm giác kính sợ, ngạc nhiên và lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên và cao vời. Để bù lại cảm giác mất mát đó, ta cần tiếp xúc với những gì Chúa đã làm trong đời sống cá nhân và trong thế giới loài người.
Như Mẹ Maria, ta cần ghi nhớ và suy niệm (Lc 2:19) những sự việc Chúa đã thực hiện trong đời sống ta. Đức tin của Đức Maria vào lời Chúa, phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là điều gì thuộc quá khứ, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại. Lời Chúa là lời hằng sống nên phải có sức biến đổi tâm hồn và tác động đời sống ta, vì Chúa là Đấng hằng sống và chân thật.
Lời cầu nguyện xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón chờ Chúa đến:
Lạy Ngôi hai Thiên Chúa hằng sống.
Đấng hiện hữu từ muôn thuở.
Chọn nhập thể trong lòng một trinh nữ.
Xin khơi dậy trong con một cảm giác ngạc nhiên lạ lùng.
Một tâm hồn mong mỏi đợi chờ ngày Chúa Giáng sinh.
Xin dạy con dọn cho Chúa một máng cỏ trong tâm hồn.
Kết bằng việc cầu nguyện, sám hối, hi sinh và bác ái.
Để sưởi ấm tâm hồn Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ "Chúa ở cùng anh chị em" càng thêm ý nghĩa. Đây chính là lời ngôn sứ Natan nói với vua Đavít trong bài đọc I hôm nay, và cũng là lời thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ trong bài Tin Mừng. Chúng ta hãy dọn tâm hồn cho xứng đáng để Chúa thực sự ở cùng chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà không lo chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo cho bản thân và gia đình mình mà không quan tâm đến những người khác.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh người công giáo chỉ biết mừng lễ với nhau mà không chia xẻ niềm vui cho anh em lương dân.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-11. 16
Sau khi vua Đavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Đavít:
Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa.
Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây "nhà" cho Đavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.
2. Đáp ca: Tv 88
Tv này ca ngợi Thiên Chúa đã trung thành giữ lời Ngài đã hứa với Đavít là sẽ cho "nhà" (triều đại) của ông bền vững muôn đời.
3. Tin Mừng: Lc 1, 26-38
Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Đavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Đavít nữa.
Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người: Đức Giêsu là dòng dõi Đavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Đavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Đức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Đức Mẹ biết về tương lai của hài nhi: "Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài... và triều đại Ngài sẽ vô tận".
4. Bài đọc II: Rm 16, 25-27
Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ: đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Đức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân.
Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Đavít và thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ: triều đại của Đức Giêsu mở rộng đến vô biên.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Loài người muốn xây nhà cho Chúa
Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Đavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Đức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Đức Mẹ phải sinh Đức Giêsu trong hang đá.
Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta!
Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Đavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Đức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa.
Để chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng "cất nhà" cho Chúa. Đó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v. v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.
* 2. Thiên Chúa xây nhà cho loài người
Vua Đavít có kế hoạch xây một Đền thờ huy hoàng cho Chúa bằng tất cả những vật liệu quý giá nhất mà ông có thể có được. Đức Maria cũng có một hướng sống mà Người cho là đẹp lòng Chúa nhất: "Tôi không biết đến người nam".
Thiên Chúa không từ chối ý tốt đó: Ngài nói với Đavít "Điều gì ngươi nghĩ trong lòng thì cứ thực hiện". Nhưng Ngài giúp vua Đavít và Đức Maria thực hiện theo một cách thức vượt ngoài dự tưởng của các ngài: Natan nói với Đavít "Thiên Chúa ở cùng bệ hạ"; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria "Thiên Chúa ở cùng cô". Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.
Nhưng do đâu mà tâm hồn vua Đavít được Chúa chọn làm nhà? Do lòng sám hối sâu xa về tội đã phạm. Và do đâu mà tâm hồn Đức Maria trở thành nhà của Chúa? Do lòng khiêm tốn và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên sứ truyền".
* 3. Đón nhận Chúa
Hai gương mặt nổi bật hôm nay là Vua Đavít và Đức Maria. Cả hai giống nhau ở điểm là muốn làm cho Chúa những gì tốt đẹp nhất, nhưng cuối cùng điều tốt đẹp ấy không phải là do hai vị làm cho Chúa mà là đón nhận việc Chúa làm cho mình.
Chuyện của hai vị gợi cho chúng ta một số ý tưởng:
Thiên Chúa quý chuộng thiện chí của con người. Vì thiện chí nên vua Đavít và Đức Maria được Thiên Chúa chọn.
Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Chương trình này vượt quá dự tính của con người.
Nhờ vâng lời, con người được tham dự vào chương trình của Thiên Chúa và thiện chí của con người được Thiên Chúa nâng lên đến tầm mức kết quả không ngờ.
Chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Chúa bằng cách:
Trình bày cho Chúa những thiện chí của mình.
Khiêm tốn thưa với Ngài "Này con là tôi tớ của Chúa"
Xin vâng theo kế hoạch của Ngài, cho dù có bất ngờ hay vượt quá dự tưởng của mình.
* 4. Chiếc đũa thần và Cô bé Lọ lem
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng "đã là", "đang là" và "sẽ là" của Maria:
- Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường: một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, mang một cái tên khá phổ biến là Maria (nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế). Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là "thuộc dòng dõi Đavít".
- Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn: Maria "sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Đứa con đó "sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận". Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ.
Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat. Trong Kinh Truyền tin, chúng ta vẫn đọc "Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người". Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem, sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú "Vừng ơi mở ra" vậy!
Nhưng Fiat là gì? Fiat không hẳn là "Xin vâng", vì "xin vâng" hàm ý là Maria sẽ đi làm theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người. Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu. Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người. Đúng hơn, Fiat là "Xin Chúa cứ làm cho tôi", chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm "Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả" (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, chỉ ở yên để Chúa làm, vậy thôi. Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào: Người muốn một tương lai êm ả, nhưng Chúa làm cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn. Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới. Để Chúa làm có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Ngài định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài. Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp: "Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat: "Xin Chúa cứ làm cho con"
* 5. Xin vâng
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích. Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quảng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
*
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ: "Kính Mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc. 1, 28). Vâng, mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành, tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa" (Lc. 1, 3). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ" (Lc. 1, 35). Như vậy, việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu: "Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được" (Lc. 1, 38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác, liền thưa: "Xin hãy thể hiện nơi tôi theo như ngài nói" (Lc. 1, 38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay tất cả, nhưng là tiếng "xin vâng" liên lỉ trọn kiếp người. Từ tiếng "xin vâng" đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời "xin vâng" trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
*
Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm mầu của Chúa. Nhất là xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 6. "Xin Chúa cứ làm nơi con"
"Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Câu này chẳng gây thắc mắc gì đối với những việc Thiên Chúa đã làm trong vũ trụ và trong lịch sử: Thiên Chúa đã làm ra trời đất muôn vật bao la vô vàn vô số; Thiên Chúa đã làm bao phép lạ từ xưa tới nay v. v.
Nhưng tôi có thể áp dụng câu này vào chính bản thân tôi không? Nói cách khác, Thiên Chúa có thể làm được bất cứ điều gì nơi bản thân tôi không?
Rất nhiều khuynh hướng xấu đã đâm rễ rất sâu trong con người tôi. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng tôi đã không bứng rễ chúng được. Thiên Chúa có bứng được không?
Tôi là một kẻ tội lỗi. Thiên Chúa có thể làm cho tôi thành một vị thánh không?
Tôi là một người rất ít khả năng. Thiên Chúa có thể dùng tôi để thực hiện những dự định lớn lao của Ngài không?
Dù còn bối rối và chưa hiểu như Đức Maria ngày xưa, nhưng thôi, tôi hãy bắt chước Mẹ mà thưa lại "Xin hãy thể hiện nơi con".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lễ Giáng Sinh đã gần kề, hôm nay Hội thánh nêu bật Đức Maria là mẫu gương cho những người tiếp đón Đức Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Đức Maria đã rộng lòng đón tiếp Đức Giêsu xuống thế cứu độ loài người / Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi thành phần trong Hội thánh biết noi gương Đức Maria / đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của mình.
2. Đức Maria đã tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa rồi sẵn sàng vâng theo / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia biết tìm hiểu chương trình cứu độ của Đức Giêsu / để dẹp bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ đói với đạo Chúa.
3. Đức Maria đã tin rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người là nạn nhân của chia rẽ, bất công, hận thù, nghèo đói không rơi vào thất vọng / nhưng tìm được hy vọng nơi Chúa là Đấng có thể làm được tất cả.
4. Đức Maria đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu nhập thể cứu độ / Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn họ đạo chúng ta / biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu luôn được chúng ta tiếp đón trong cuộc đời.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến với mỗi người chúng con, giúp chúng con biết đón nhận Đức Giêsu, để đem Đức Giêsu đến cho mọi người chung quanh chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô. . .
VI. Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 4, nhấn mạnh những chỗ sau:
. (Cuối đoạn 1): Hơn nữa nhiều lần Cha đã giao ước với loài người và dùng các ngôn sứ mà dạy cho biết đợi chờ ơn cứu độ.
. (Đầu đoạn 3): Lạy Cha chí thánh, Cha quá yêu thương thế gian, đến nỗi khi tới thời viên mãn, đã sai Con Một đến cứu độ chúng con...
- Trước kinh Lạy Cha: Bài đáp ca hôm nay chứa đựng một lời Chúa hứa cho vua Đavít: "Đavít sẽ thưa với Ta: Chúa là Cha tôi". Lời hứa này chúng ta đang được thừa hưởng: chúng ta trở thành con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình vui sướng được làm con Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước Lễ: Chúng ta hãy đón rước Chúa vào lòng với những tâm tình sốt sắng như Đức Mẹ ngày xưa. "Này con là tôi tớ Chúa. Xin hãy thực hiện nơi con điều Chúa muốn". "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã ở cùng anh chị em. Anh chị em hãy ra về và suốt tuần hãy nhớ ở cùng Chúa trong mọi nơi, mọi lúc và mọi việc anh chị em làm.
Khi hồi tưởng lại những kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ thân yêu hiện ra. Cho dù còn trẻ hay đã già, dù nước da trắng hay sẫm, dù thế nào đi nữa, thì người ấy vẫn là người mẹ lo toan cho cuộc sống của chúng ta. Mối liên hệ giữa mẹ và con rất là đặc biệt và luôn dựa trên một mối dây yêu thương. Bởi thế không lạ gì mà Mẹ Maria xuất hiện giữa Tin Mừng hôm nay, gởi gắm cho chúng ta một sứ điệp rất đơn giản mà lại rất xúc động chưa từng thấy. Đơn giản là một thiếu nữ đang quỳ gối đón nhận sứ điệp huyền nhiệm từ thiên sứ Gabrien, với tâm tình rất thanh thản, và nàng đã trao về Thiên Chúa trọn vẹn cuộc đời mình khi nói: “Xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”
Giây phút Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Đúng là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi muốn trở thành một người giữa chúng ta. Và Thiên Chúa phải cần đến Mẹ Maria là để Ngài có thể sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Mẹ đã được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để làm mẹ của Đức Kitô. Thì lúc Mẹ nói: “Xin vâng” với thiên sứ chính là phút bình mình của ơn cứu độ của nhân loại. Và Mẹ sẽ sinh hạ ơn cứu độ ấy tại Bêlem vào Đêm Giáng Sinh. Mẹ Maria đã không thưa “Xin vâng” một lần với Thiên Chúa mà thôi, nhưng Mẹ luôn luôn xác nhận lại hai tiếng “Xin vâng” ấy nhiều lần trong đời. Mẹ đã không hề nghĩ tới chuyện mọi cánh cửa nhà trọ sẽ đóng lại, xua đuổi Mẹ đúng vào ngày sinh hạ Hài Nhi. Sau đó Mẹ lại phải lên đường bôn tẩu sang đất Ai cập, và 33 năm sau lại phải chứng kiến xác con treo trên khổ giá, một cái chết của kẻ tội đồ. Những lúc ấy Mẹ lại thưa với Thiên Chúa của Mẹ hai tiếng “Xin vâng”.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, lễ Giáng Sinh sắp đến nơi rồi, tâm tự chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta soi về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Thiên Chúa không chỉ muốn trở nên một người như chúng ta mà khi hành động như thế Ngài còn muốn chúng ta trở nên giống như Ngài.
Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng mở đôi tai tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa gọi hầu có thể đáp lại ngay tiếng Ngài. Chúng ta có thể cầu xin Mẹ giúp đỡ mỗi một người có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Mẹ Maria đã sinh hạ Đức Kitô trong máng cỏ và nay lại muốn sinh hạ Chúa trong tâm hồn chúng ta. Mẹ đã sửa sang cuộc sống của Mẹ thành một nơi xứng hợp cho Chúa đến thì nay chúng ta cũng phải làm như thế. Thiên Chúa đã không để Mẹ Maria đứng bên ngoài lễ Giáng Sinh, chúng ta cũng thế không thể để cho Mẹ đứng bên lề cuộc sống chúng ta.
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã ti.ếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết "báo cáo" của mình rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế... ông này - không tin điều đó.
Trường hợp sau: Đó là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?" (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: "Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm cho". Còn tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng". Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên "Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: "Miryam"... "Yosephel"?
Sứ thần vào nhà cô và nói: "Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".
Có lẽ chúng ta đã chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay vì Maria, sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành "Đầy ân sủng" mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng ái" trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ý nghĩa "Hãy vui lên". Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui lên". Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hãy vui lên!".
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! ". Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: "Chúa ở cùng anh chị em!". Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi" cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong tình trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên là Giêsu.
Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel". Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos" (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng "lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý định của Luca thật là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ gì với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời" mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, thì "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
"Thần khí...", "Quyền năng...", "Đấng thánh...", "Đấng tối cao...". Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin - thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: "Ngôi lời đã nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Tin Mừng cho người biết khiêm tốn
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân... Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi vì trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ tình yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn: trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ý ngay lành, Mẹ lo lắng vì "làm sao có chuyện ấy được"; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi vì Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hãnh diện khi biết rằng mình là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả.
Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. Còn gì cao quý và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật hình thành từ chính máu thịt của mình. Nhưng cũng có gì đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lý, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự mình sống đời của mình. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được tình trạng đau thương này. Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đã chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của mình. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ mình, để cho chính người con mình đã sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi vì Mẹ biết rằng, người con Mẹ đã cưu mang trong cung lòng trinh khiết của mình là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai trò làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Ngôi nhà chính là một thái độ
Điều đáng lưu ý trong trình thuật truyền tin, đó là Đức Maria đã không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ nhận được một hồng ân lớn lao; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đã ưng thuận. Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đã không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi vì Thiên Chúa đã đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho mình chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá.
Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đã đến trong cung lòng Đức Maria. Về phần mình, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng bằng nỗ lực của mình.
Như thế, một bên, chương trình của vua Đa-vít vẫn còn nằm trong ý tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích: mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của mình, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không tìm cách chiếm hữu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu: Người đã đến xây dựng ngôi nhà cho mình.
Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đã được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ý muốn duy trì nếp sống này mãi mãi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu: "Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa". Đức Maria đã từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn; đã từ bỏ ý định cao cả của mình để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời.
Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế; nhưng bởi vì là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương trình của Thiên Chúa, và Mẹ đã đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn đang tìm một ngôi nhà
Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt mình vào vai trò của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm.
Một em bé gái đã đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria: Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi? Người kể chuyện đã đặt câu hỏi khác với em: Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác?
Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không? Có thể được, bởi vì chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, thì đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta.
Bởi vì, như Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh.
Theo nhãn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này.
Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đã bối rối. Còn chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy.
Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói "Làm sao...". Còn chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi "tại sao?"
Và khi Đức Maria thưa "Xin vâng", thì chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa.
Lời thưa "Xin vâng" của Đức Maria hoàn toàn chìm sâu trong tình yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ! Còn chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria thì cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đã đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đã không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Có một người kia đã nói: "Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen".
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu truyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gáp-ri-en; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gáp-ri-en và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói".
Tiếng " Xin vâng" vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó, Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức Mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẩu đối thoại: từ một mẩu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa con rắn và bà E-và trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẩu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gáp-ri-en đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà E-và ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa "Xin vâng" và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, Con Đức Mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự "Xin vâng" của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu " Xin vâng thánh ý Chúa". Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là "Con đến để làm theo ý Cha". Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là "Vâng theo thánh ý Chúa", thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng Sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như Mẹ.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gáp-ri-en, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavít. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do Thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” thì phụ nữ ở Do Thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết.
Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Na-da-rét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp chuyện gì đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng” để giữ vững tinh thần và thêm niềm tin vào Chúa và xin Đức Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Mẹ ơi, đường đi phủ đầy bóng tối, bẫy chông giăng tràn muôn lối. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời.
Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
(Suy niệm của Antôn Nguyễn Thành Chương)
Kính thưa cộng đoàn!
Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đã nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hãy tỉnh thức, sám hối, dọn tâm hồn và hãy vui lên để đón Chúa vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng trong bốn Chúa Nhật Giáo hội dành cho chúng ta để chuẩn bị đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Chúa Giáng Sinh.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, tả lại bối cảnh sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho Đức Bà Maria. Đây là biến cố đặc biệt mà Đức Maria đã được đặt vào vị trí trung tâm, vị thế quyết định vận mệnh cho cả thế nhân: hoặc được giải thoát khỏi tội lỗi – hoặc vẫn sống đắm chìm trong đêm tối mà vẫn khắc khoải chờ mong một đấng cứu thế. Vì thế, biến cố truyền tin phải được xếp vào trong những biến cố quan trọng hàng đầu trong chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có lời “Xin vâng” của Đức Maria thì Đấng Cứu Thế vẫn chưa đến, thế giới này đã không được trở nên trời mới đất mới và có thể loài người chúng ta chưa được hưởng ơn cứu độ.
Lời xin vâng ấy đã làm xoay chuyển cả cuộc đời còn lại của Đức Maria vì trước đó Mẹ đã nhận lời đính ước cùng Thánh Giuse, dòng dõi con vua Đa-vit. Vì thế, khi sứ thần Thiên Chúa Gabrien xuất hiện, chào kính cùng báo tin đã làm thiếu nữ Maria vô cùng sửng sốt và bối rối… nhưng Đức Maria đã không phụ lòng hết thảy nhân gian đang ngày ngày trông đợi, mong có một đấng đến giải thoát họ khỏi khổ cực lầm than.
Đức Maria đã đáp: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. (Lc 1,38).
Khi lời xin vâng trịnh trọng của Đức Maria cất lên không những làm cho cuộc đời Mẹ thay đổi mà cả thế giới cũng được chuyển mình. Vì thế, Đức Maria xứng đáng được làm Mẹ Con Thiên Chúa và trở nên một Eva mới của trời mới, đất mới. Khi chấp nhận để Chúa Con ngự vào lòng mình thì Mẹ đã sẵn sàng để Thiên Chúa Cha hướng dẫn cuộc đời Mẹ, dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu. Quả là một lời hứa bất chấp sự rủi ro, Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình, hành động đó của Mẹ cũng chỉ vì Tình Yêu cho nhân thế mà bất chấp mạng sống. Mẹ đã nói: Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng nhưng điều tốt đẹp sẽ xảy ra.
Do đó chúng ta có thể nói Đức Maria đã không chỉ thưa tiếng xin vâng một lần đơn giản trong ngày Sứ Thần Thiên Chúa truyền tin. Trái lại, Đức Maria đã tiếp tục thưa tiếng xin vâng mọi ngày trong suốt cuộc hành trình với Chúa Giêsu và suốt cả cuộc đời Mẹ sau này. Lời thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” đã chứng tỏ Đức Maria đã thực sự là một người khiêm hạ, nhận mình nghèo hèn và đặt mình tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ nâng đỡ và giúp Mẹ sống trung tín suốt cả cuộc đời Mẹ.
Mẹ xin vâng để Chúa Con được làm người và thực thi sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó.
Mẹ xin vâng trong suốt chặng đường của cuộc sống gia đình đầy khó khăn.
Cuối cùng Mẹ xin vâng khi chấp nhận để con mình ra đi thi hành sứ mệnh, kể cả khi thấy con đau đớn, kiệt sức và chết trên thập giá.
Thưa cộng đoàn, Lời Chúa trong ngày Chúa Nhật hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy sống theo gương Đức Maria với lòng khiêm tốn và xin vâng qua những công việc tầm thường xảy ra hằng ngày trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mẹ Maria đã vui mừng nói lời xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời hỏi ý, vậy còn chúng ta những Kitô hữu đã và đang lữ hành trên đường tìm kiếm hạnh phúc đích thật, chúng ta có giám mạnh dạn nói “Này con xin vâng” khi Thiên Chúa cần để thực thi Thánh ý của Ngài?
Trong tâm tình những ngày cuối của mùa vọng chúng ta thử một lần nhìn thẳng vào chính con người thật của mình và cùng xin Mẹ Maria phù trợ để biết nói lên lời xin vâng như Mẹ trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ Maria đã xin vâng trong suốt cả cuộc đời. Amen.