THỨ HAI SAU LỄ HIỂN
LINH
1Ga 3,22-4,6; Mt 4,12-17. 23-25
BÀI ĐỌC: 1Ga 3,22-4,6
3
22 Anh em thân mến, bất
cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ
các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. 23 Đây là điều
răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và
phải yêu thương nhau,theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. 24 Ai
tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở
lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại
trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.
4
1 Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần
khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa
hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. 2 Căn
cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên
xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi
Thiên Chúa; 3 còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì
không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là
nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. 4 Hỡi anh em là
những người con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa, và anh em đã thắng được các
ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. 5
Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế
gian nghe chúng. 6 Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai
biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe
chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần
khí làm cho sai lầm.
ĐÁP CA: Tv 2
Đ. Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng. (c 8a)
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng. (c 8a)
7 Tân vương lên tiếng:
Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của
Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con. 8 Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
10 Vậy giờ đây, hỡi các
vua chúa, hãy biết điều, thủ lãnh trần gian, nào tỉnh ngộ! 11 Đem
lòng kính sợ mà phụng thờ Đức Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Mt 4,23
Hall-Hall: Đức Giêsu rao giảng Tin
Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Hall.
TIN MỪNG: Mt 4,12-17. 23-25
12 Khi Đức Giê-su nghe
tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. 13 Rồi Người
bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa
hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li,14 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói:15
Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn
sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!16 Đoàn dân đang
ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi
trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
17 Từ lúc đó, Đức
Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã
đến gần.”
23 Thế rồi Đức Giê-su
đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước
Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. 24 Danh
tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc
đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người
đã chữa họ. 25 Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành
Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo
đến đi theo Người.
TIN ĐẠO, CHỚ VỘI TIN
NGƯỜI CÓ ĐẠO!
Dân gian
hay nói: “Áo dòng không làm nên thầy tu”.
Câu ấy còn phải hiểu: nhiều kẻ chỉ có nhãn hiệu Công Giáo, nhưng bản chất nó là
“kẻ phản Kitô, là ngôn sứ giả đã xuất
hiện trên trần gian, nó không tuyên xưng Đức Giêsu, nó không thuộc Thiên Chúa,
nó thuộc về thế gian” (1Ga 3,1-3; 4,6a: Bài đọc).
Ngày hôm
nay trên thế giới, có nhiều nhóm giáo dân do Linh mục quy tụ đến cầu nguyện và
xin ơn, rồi cử những người làm chứng được ơn này, ơn kia để minh chứng về lòng
thương xót của Chúa. Hình thức quy tụ này không biết có phải là “Phản Kitô” hay
không? Trừ khi việc ấy rập theo khuôn sống Đạo theo gương Chúa Giêsu. Đành rằng
Phúc Âm có nhắc đến việc Đức Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, trừ quỷ xuất khỏi
nhiều người (x Mt 4,24: Tin Mừng), và khi Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông Đồ
đi rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo, thì Ngài cũng ban cho họ quyền làm
nhiều phép lạ, thậm chí uống nhằm thuốc độc cũng không bị hại, cầm rắn trong
tay mà vẫn bình an (x Mc 16,17-18). Nhưng ta phải hiểu Chúa làm phép lạ ấy, không
nhằm giải quyết những đau khổ của con người về bệnh tật, mà chủ đích cho người
ta nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai mà Thiên Chúa hứa ban để cứu dân, như lời ngôn
sứ Isaia (53,4) nói: “Chúa gánh lấy bệnh
tật chúng ta”, mà theo quan niệm người Do Thái: chữa bệnh bằng lời nói hay
bằng quyền phép là thể hiện quyền tha tội, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga
9,2). Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền này, để người ta nhận biết Đức Giêsu là
Đấng Chúa Cha sai đến, hầu họ được sự sống đời đời (x Ga 17,3).
Bởi
vậy,những ai chỉ chủ tâm đến xin ơn cho thể xác, thì Đức Giêsu trốn họ! Thậm
chí có lần cả ngày Ngài đã chữa lành nhiều bệnh nhân, thế là càng lúc bệnh nhân
càng kéo đến đông, Ngài vẫn bỏ họ mà tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện, ông Phêrô và
các bạn lùng kiếm Ngài suốt đêm, sáng sớm mới gặp Ngài đang cầu nguyện, ông Phêrô
thưa: “Mọi người đi tìm Thầy”, thế mà
Đức Giêsu không bảo: “Ai cần ơn gì cứ đến
với tôi”, nhưng Ngài bảo Phêrô: “Bây
giờ chúng ta phải lên đường đi giảng nơi khác, đó là lý do Thầy đã ra đi”
(x Mc 1,29-39); Lần khác, người ta lũ lượt kéo nhau đến xin Ngài cho bánh ăn và
muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã lên tiếng trách: “Các ngươi tìm Ta không phải vì dấu lạ, nhưng chỉ vì cái bụng, hãy ra
công làm việc tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát”. Thế rồi Ngài say sưa
giảng, cả đoàn lũ dân không chấp nhận quay gót đi. Đức Giêsu không hối hận, mà
còn quay lại nói với Nhóm Mười Hai: “Kìa,
người ta bỏ đi hết thảy, sao chúng con còn đứng đây?!” (Ga 6, 25-66).
Những
chứng từ trên đây đủ nhấn mạnh: Chúa chỉ tha thiết giảng Lời, ai nghe Lời Ngài,
tâm hồn họ được thanh tẩy (x Ga 15,3). Bởi thế, nếu ta chỉ tin Chúa thương xót khi
ta được ơn thể xác hay cầu xin được như ý mình, thì làm sao chúng ta hiểu được
tình thương của Cha trên trời dành cho Chúa Giêsu, khi hai lần Ngài tha thiết
cầu nguyện, thì sự dữ lại ập đến:
-
Ngài thức suốt đêm xin Chúa Cha giúp Ngài chọn môn đệ, thế mà
Ngài chọn phải tên Giuđa phản bội (x Lc 6,12-13).
-
Ngài thiết tha cầu nguyện trước giờ Tử Nạn đến toát mồ hôi máu:
“Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi uống chén đắng này…” Thế mà ngay sau khi
vừa dứt lời cầu, thì kẻ ác ập đến bắt Ngài (x Lc 22,39t).
Như thế, đau khổ là dấu chỉ sự tùng phục tuyệt đối:
-
Để tỏ lòng vâng phục Thiên Chúa cách tuyệt đối, tổ phụ Abraham sẵn
sàng đưa con một lên núi giết để tế lễ (x St 22).
-
Đức Giêsu chấp nhận cái chết đau thương để tỏ lòng tùng phục
Chúa Cha (x Pl 2,8).
Ai càng
tỏ ra hết lòng tùng phục Thiên Chúa như thế, thì Ngài cũng hết lòng ban ơn cho
họ: Abraham được Chúa cho sinh con đàn cháu đống, mọi dân tộc sẽ lấy dòng giống
ông mà cầu phúc cho nhau (x St 22,17-18); Sự tùng phục đến chết của Đức Giêsu
đem ơn cứu độ cho muôn dân, để mọi miệng lưỡi trên trời dưới đất tuyên xưng
Ngài là Đức Chúa (x Pl 2,11).
Thánh Tôma
Tiến sĩ nói: “Mỗi vấn đề được giải quyết trong lãnh vực của nó”: Bệnh tật cần
nhờ đến y khoa, y khoa bó tay cần đến Bí tích Xức Dầu, làm hết cách mà bệnh
không thuyên giảm, thì đó là ý Chúa muốn ta được cộng tác với Ngài để làm hoàn
hảo cuộc Tử Nạn mà Ngài đã khởi sự (x Cl 1,24), và như thế ta được chia phần sự
sống Phục Sinh với Ngài (2 Tm 2,11-12).
Để kết
luận về vấn đề xin phép lạ, ta đừng quên lời thánh Gioan ghi: “Trong
thời gian Đức Giêsu ở tại Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, thì trong đám người
đến chầu lễ,đã có lắm kẻ tin vào danh Ngài,bởi được chứng kiến các dấu lạ Ngài
làm. NHƯNG ĐỨC GIÊSU KHÔNG TÍN NHIỆM HỌ, VÌ NGÀI BIẾT HỌ HẾT THẢY” (Ga
2,23-24).
Còn “ai tin
vào danh Con của Người, Đức Giêsu Kitô, và yêu mến nhau như Ngài đã truyền
lệnh, để nhờ Thần Khí họ tuyên xưng Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, đó là
Thần Khí thuộc về Thiên Chúa, người ấy được thắng các ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở
trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. Cho nên chúng ta đã thuộc về Thiên
Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe lời chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa,
thì không nghe chúng ta” (1Ga 3,22-23; 4,2. 4-6: Bài đọc).
Chúng ta
muốn xứng danh là người Công Giáo chân chính, ta phải sống ba điểm giáo lý mà
Tin Mừng hôm nay gợi ý:
1/
TA CÓ CHẾT VÌ CHÂN LÝ, TA MỚI LÀ NGƯỜI CAO CẢ NHẤT, DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN.
Tin Mừng
hôm nay tác giả Mátthêu viết: “Ông Gioan
Tẩy Giả bị NỘP trước khi Đức Giêsu đi rao giảng” (Mt 4,12: Tin Mừng).
Động từ
NỘP trong Tin Mừng Mátthêu luôn nói về cái chết của Đức Giêsu. Thực vậy:
* Trước giờ Đức Giêsu bị bắt, ba lần Ngài báo
cho các môn đệ Ngài sẽ bị NỘP:
-
“Con Người sắp bị NỘP
trong tay người đời, và họ sẽ giết chết Ngài” (Mt 17,22-23a).
-
“Này chúng ta lên
Giêrusalem và Con Người sẽ bị NỘP cho các thượng tế và ký lục, và người ta sẽ
lên án tử hình Ngài và NỘP Ngài cho dân ngoại, để họ nhạo báng đánh đòn và treo
lên khổ giá” (Mt 20,18-19).
-
“Anh em biết sau hai ngày
nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sẽ bị NỘP để chịu đóng đinh thập giá”
(Mt 26,2).
* Trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Mátthêu lại
ghi ba lần Đức Giêsu bị NỘP:
-
“Họ trói Đức Giêsu mà điệu Ngài đi NỘP cho tổng trấn Philatô (Mt
27,2).
-
“Philatô đã biết vì ganh tỵ mà họ đã NỘP Ngài cho ông” (Mt
27,18).
-
“Philatô tha Barabba cho họ, còn Đức Giêsu thì ông cho đánh đòn
rồi phó NỘP cho đóng đinh thập giá” (Mt 27,26).
Vậy ông Gioan bị NỘP hay Đức Giêsu bị NỘP, đều nói lên cái chết
giống nhau là chết vì chân lý. Chính vì ông Gioan có nhiều điểm giống Đức Giêsu,
đặc biệt chết vì chân lý mới là con người cao cả nhất (x Mt 11,11). Ta có bắt
chước ông Gioan giống Đức Giêsu như thế, ta mới trở thành một Gioan Tẩy Giả
khác dọn lòng mọi người đón Đức Giêsu, diễn tả sức bật của Tin Mừng. Thực vậy:
-
Ông Gioan bị NỘP cho vua Hêrôđê cắt đầu, vì ông dám phản đối
Hêrôđê cướp vợ anh mình. Kẻ ác tưởng như thế là đã trù dập được chân lý, nhưng
Đức Giêsu là Mặt Trời Công Chính bắt đầu ló rạng (x Lc 1,78), bắt đầu loan báo
Tin Mừng cho cả dân ngoại (x Mt 4,2: Tin Mừng).
-
Người Do-Thái NỘP Đức Giêsu cho Roma đóng đinh vào thập giá, họ tưởng
làm như thế là chôn vùi được chân lý, nhưng các Tông Đồ tích cực liều mạng rao
giảng Tin Mừng, nối tiếp sứ mệnh Thầy Giêsu đã trao (x Mt 28,19-20; Cv 4,1-22).
-
Những kẻ ghen ghét Stêphanô, họ NỘP ông cho thượng hội đồng Do Thái
ném đá đến chết, thì các tín hữu tản đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng (x Cv 8,1-8).
-
Các tín hữu bất kể lớn nhỏ, đàn ông hay đàn bà, bị ông Saulo
bách hại, thì Chúa quật ngã Saulo xuống đất, Ngài hỏi tội ông, ông biết sám
hối, cụ thể đi học Giáo Lý nơi các môn đệ (x Cv 8. 9). Từ đó ông trở thành Tông
Đồ xuất sắc hơn các Tông Đồ thượng đẳng, vì ông đã tập họp muôn dân về cho Chúa
(x Gl 1,11t; 2Cr 11,5).
Như thế sức
bật của Tin Mừng giống như chiếc lò xo bị nén, càng nén mạnh thì sức bật càng tăng.
Đây là chân lý đã được khai mở khi Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai. Ông
Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu nghe tin ông
Gioan đã bị NỘP, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Capharnaum,
một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để
ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con
đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân
ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên
chiếu rọi” (Mt 4,12-16: Tin Mừng).
Galilê
miền Bắc nước Israel,
còn Dơvulun và Náptali là hai chi tộc trong số 12 chi tộc con của ông tổ Giacob.
Tại sao ông Mátthêu lại gọi họ là “vùng
các dân ngoại đang ngồi trong bóng tối sự chết”?
Thưa: Vào năm -734, hai
bộ lạc Dơvulun và Náptali cư ngụ ở Capharnaum, nằm ở vùng duyên hải,bên kia
sông Giođan thuộc miền Galilê (Gs 19,10-39),đã bị ông Seleucos, vua Assur chiếm.
Do đó, ngôn sứ Isaia gọi đó là “vùng dân
ngoại đang ngồi trong bóng tối sự chết, đã thấy một ánh sáng huy hoàng” (Is
8,23; 9,1-2).
Vậy việc
Đức Giêsu sang vùng dân ngoại này rao giảng, vừa nói lên hình phạt đối với những người Do Thái tự hào nắm trọn
luật Môsê, nhưng đã khước từ Tin Mừng Chúa muốn ban tặng trước cho họ, thì Tin
Mừng lại được loan báo cho dân ngoại, Đức Giêsu gọi họ là “chiên lạc nhà
Israel” (x Mt 10,6) vừa nói lên ơn cứu
độ phổ quát Chúa không chỉ ưu tiên cứu người Do Thái như họ tưởng nghĩ, mà
Chúa còn muốn cứu muôn dân. Bởi đó chúng ta không phải là dân Israel, cần dọn tâm hồn đón nhận
Đức Giêsu, là đón nhận được nguồn sống vinh phúc dồi dào bất tận, để rồi cũng
liều chết vì chân lý. Có thế mới làm cho Tin Mừng bung ra, thâu họp muôn dân về
cho Chúa.
2/
TA PHẢI HIỆP NHẤT VỚI CHÚA GIÊSU ĐỂ HÀNH ĐỘNG.
Không
phải mọi sự hiệp nhất đưa đến sự sống, và cũng không tất yếu mọi chia rẽ là
chết!
·
Ma quỷ đã hiệp nhất với kẻ ác, các đầu mục Do Thái cùng thông
đồng với chính quyền Roma, nên đã đưa đến cái chết cho Đấng vô tội! Hoặc những tên
trộm cướp hiệp nhất thành băng đảng giết hại bao nhiêu dân lành!
·
Ông Phaolô đã lợi dụng niềm tin bất đồng về sự sống lại giữa nhóm
Biệt phái và bè Sađốc, ông kêu lên: “Tôi
tin có sống lại!’’ Thế là bè Sađốc vì không tin sống lại càng có cớ đòi giết
ông Phaolô; ngay lúc đó nhóm Biệt phái lại ra sức bảo vệ niềm tin sống lại của
ông Phaolô Biệt phái, cũng chính là của họ, thế là hai nhóm ẩu đả nhau, trưởng
cơ thấy náo loạn đã đưa ông Phaolô ra khỏi nơi ấy, nhờ đó ông thoát chết! (x Cv
23,1-11).
Vậy chỉ
có hiệp nhất trong chân lý, hiệp nhất với Chúa,như Đức Giêsu đã cầu nguyện cho
các môn đệ Ngài: "Lạy Cha xin cho
chúng nên một, như Con ở trong Cha và Cha ở trong Con" (x Ga 17,21a) mới
đem lại sự sống. Để nói lên sự hiệp nhất với Đức Giêsu trong chương trình hành
động, ông Mátthêu đã ghi lời mở đầu sứ mệnh rao giảng của ông Gioan Bt, giống y
như lời mở đầu rao giảng của Đức Giêsu, để rồi các Tông Đồ cũng rập khuôn lời
mở đầu ấy, khi các ông bắt đầu sứ mệnh : “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”
(Mt 3,2 = Mt 4,17 = Mt 10,7).
3/
TA PHẢI CHĂM SÓC LINH HỒN ĐỒNG LOẠI TRƯỚC THÂN XÁC HỌ.
Thánh Mátthêu
ghi nhận: “Đức Giêsu rảo khắp xứ Galilê trước nhất là để giảng Tin Mừng về Nước
Thiên Chúa trong các hội đường của họ, sau
đó Ngài mới chữa lành mọi tật nguyền bệnh
hoạn trong dân’’ (Mt 4,23: Tung Hô Tin Mừng). Như thế Đức Giêsu đã làm mẫu
cho Lời Ngài dạy: “Hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa trước, và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban thêm
cho” (Mt 6,33), và Ngài làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh nói: “Người
ta được lành mạnh không phải vì cỏ nọ hay thuốc kia, nhưng nhờ Lời Chúa chữa họ
khỏi mọi tật nguyền” (Kn 16,12).
Vậy Đức
Giêsu đã vạch cho chúng ta con đường phục vụ: Phải chăm sóc linh hồn đồng loại trước khi chăm sóc nhu cầu thân xác họ.
Nói cách khác: chăm lo đời sống tâm linh, đời sống Đạo của đồng loại hơn là
chỉ dừng lại lo cho họ được no cơm ấm áo. Bởi thế, thánh Phaolô nói: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn
uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17),
và ông còn cảnh cáo: “Đừng lấy cái bụng
làm Chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng phải xấu hổ!” (Pl 3,19)
KẾT LUẬN
Ta sống
ba điểm giáo lý trên đây là ta “giữ các Lệnh truyền của Người và làm những
điều đẹp lòng Người, thì ta xin gì Người cũng ban cho’’(1Ga 3,22: Bài
đọc). Đúng như lời Thánh vịnh 2 câu 8: “Con
cứ xin, rồi cha ban tặng, muôn dân nước làm sản nghiệp riêng” (Đáp ca). Bởi
vì: “Ta đã thuộc về Chúa, ta thắng được các
ngôn sứ giả, vì Đấng ở trong ta mạnh hơn là kẻ ở trong thế gian. Chúng ta thuộc
về Thiên Chúa, ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta” (1Ga 4,4. 6: Bài đọc).
Người Kitô
hữu nào không sống những điểm giáo lý trên đây, thì “thân xác họ ở trong Hội Thánh,nhưng linh hồn họ ở ngoài Hội Thánh, họ
chẳng những không được Chúa cứu độ mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn” (Hiến
Chế Hội Thánh số 14). Thánh Gioan kết án họ: “Nó là phản Kitô, là tiên tri giả” (1Ga 3,3: Bài đọc), nó độc ác,
quỷ quyệt hơn cáo già Hêrôđê, hắn đã cắt đầu ông Gioan, người công chính của
Thiên Chúa, và sự cố ấy lại trở nên dấu giết Con Thiên Chúa, loại đi nguồn ơn cứu
độ! Thế thì nó tệ hơn “dân ngoại ngồi
trong bóng tối sự chết, đã đón nhận được Tin Mừng sự sống Đức Giêsu đem đến
(x Mt 4,16: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Anh em phải sống Đạo sao cho lương dân níu lấy áo anh em mà nói:
Chúng tôi muốn đi theo anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng: Thiên Chúa ở với
anh em (Dr 8,23).
Lm Giuse Đinh Quang
Thịnh