Tìm hiểu Lời Chúa _ thứ hai tuần 27 thường niên

THỨ 2 SAU CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
Gn 1,1- 2,1. 11; Lc 10,25-37
BÀI ĐỌC: Gn 1,1- 2,1. 11
1              1 Có lời Đức Chúa phán với ông Giô-na, con ông A-mít-tai, rằng:2 "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” 3 Ông Giô-na đứng dậy nhưng là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa. 4 Nhưng Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. 5 Thuỷ thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. 6 Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: "Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng.”7 Rồi họ bảo nhau: "Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này.” Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. 8 Họ bảo ông: "Vì ông là người đã đem tai hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?" 9 Ông nói với họ: "Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền.”10 Những người ấy sợ, sợ lắm; họ nói với ông: "Ông đã làm gì thế? " Thật vậy, do ông kể lại mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Đức Chúa. 11 Họ hỏi ông: "Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa? " Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. 12 Ông bảo họ: "Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa; vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này.” 13 Những người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển mỗi lúc một động thêm, uy hiếp họ. 14 Họ kêu cầu Đức Chúa và thưa: "Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích.”15 Rồi họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ. 16 Những người ấy sợ Đức Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên Đức Chúa và khấn hứa.
2              1 Bấy giờ, Đức Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giô-na. Ông Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm.
11 Rồi Đức Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giô-na ra trên đất liền.
ĐÁP CA: Gn 2
Đ.        Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống. (c 7c)
3 Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Đức Chúa,Người đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con.
4 Ngài đã ném con vào vực sâu, giữa lòng biển, làn nước mênh mông vây bọc con, sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để cho tràn ngập thân này.
5 Con đã nói: "Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! Nhưng con vẫn hướng nhìn về thánh điện của Chúa.”
8 Khi mạng sống con hầu tàn, con đã nhớ đến Đức Chúa và lời cầu nguyện của con đã tới Ngài, tới đền thánh của Ngài.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Ga 13,34
Hall-Hall: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Hall.
TIN MỪNG: Lc 10,25-37
25 Một hôm, có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 26 Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? "27 Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? "30 Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "37 Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Làm người ai cũng khát vọng được sống đời đời làm gia nghiệp (x Lc 10,25: Tin Mừng). Muốn được thế, Đức Giêsu dạy ta sống Giới Răn: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người lân cận như chính mình.” (Lc 10,27: Tin Mừng). Luật này trở thành lời kinh chính thức, người Do Thái gọi là kinh “Shema” trong kinh Nhật Tụng, từ trẻ nhỏ đến người già mỗi ngày phải đọc hai lần (giống kinh Lạy Cha, Hội Thánh dạy chúng ta đọc ngày ba lần: trong Thánh Lễ, kinh Sáng và kinh Chiều).
Thế nhưng, để được cứu độ, không phải chỉ đọc kinh mà còn thực hành lời kinh (x Mt 7,21), và phải bắt chước sống lời kinh này như Đức Giêsu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, đó là ngày Ngài dâng Lễ.
- “Yêu hết sức lực”: Đức Giêsu không đủ sức vác thập giá lên đồi Sọ, người ta phải nhờ ông Simon vác giúp (x Lc 23,26).
- “Yêu hết trí khôn”: Đức Giêsu bằng lòng hiến mạng cho kẻ ác vì muốn cứu phàm nhân. Dưới con mắt người đời, người ta cho Ngài là kẻ điên dại (x 1Cr 1,18t).
- “Yêu hết linh hồn”: Trên thập giá người ta đã cướp hết những gì thuộc thân xác Ngài, chỉ còn linh hồn Ngài dâng cho Chúa Cha:“Lạy Cha,Con phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,46).
- “Yêu hết lòng”: Đức Giêsu đã tắt thở, nhưng kẻ ác vẫn lấy giáo đâm thủng tim Ngài, nước và máu dốc ra hết (x Ga 19,34).
Như thế,ta thực hành bốn hành động thể hiện tình yêu Chúa trên đây, chính là lúc ta dâng Lễ nhờ, với, trong Chúa Giêsu (Rm 11,36). Đây là Luật của Chúa và Hội Thánh dạy ta phải tuân giữ. Luật này ông Môsê đã nói tiên tri: “Mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay không quá sức hay ngoài tầm tay. Luật đó không ở trên trời khiến anh em phải nói: “Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói: “Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi, và nói cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành? Lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, ngay trong lòng để anh em đem ra thực hành” (Dnl 30,11-14).
- “Lệnh truyền cho anh em không quá sức lực hay ngoài tầm tay”: Vì ta được kết hợp với Chúa Giêsu mỗi khi đi dâng Lễ. và chỉ khi ấy ta mới được Chúa Giêsu thực hiện Lời Ngài đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”(x Mt 11,28-30).
- “Luật không ở xa trên trời hay bên kia biển để phải đi tìm kiếm đem về thực hành”: Vì Luật Hội Thánh không buộc ta khi ở quá xa Nhà Thờ vẫn phải đi dâng Lễ. Trường hợp ấy ta làm việc lành phúc đức bù lại: đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và khát khao rước lễ (gọi là rước Lễ thiêng liêng), thì cũng có giá trị như đi dâng Lễ. Như thế, người ở gần hay ở xa Nhà Thờ, quả thật giữ Luật hiệp dâng Thánh Lễ không còn sợ xa xôi phải đi tìm kiếm.
- “Luật ngay trong miệng trong lòng”: Việc đi dâng Lễ phát khởi từ trái tim yêu mến, như thánh Phaolô nói: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14).
Tình yêu Đức Kitô thúc bách ta để yêu đồng loại như chính mình (x Lc 10,27b: Tin Mừng). Cụ thể phải phục vụ đồng loại nhằm đưa họ vào Hội Thánh và để được Chúa và các Thánh chăm sóc, theo như giáo huấn trong dụ ngôn người Samari nhân hậu. Nhưng để nhận ra những điểm giáo huấn ta phải thực hành nhằm diễn tả Đức Ái Kitô giáo, ta hãy so sánh người Samari nhân hậu với Đức Giêsu:

NGƯỜI SAMARI
NHÂN HẬU (Lc 10,29-37)

a- Dân Do Thái coi người Samari là những kẻ rối Đạo, vì không thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, mà lại thờ ở Garizim. 


b- Người bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết!



c- Ông Samari đưa nạn nhân vào quán trọ.

d- Ông Samari và chủ quán cùng chăm sóc nạn nhân.

e- Ông Samari trả công cho chủ quán hai quan tiền.


g- Ông Samari có việc phải lên đường, nên hứa với chủ quán, khi vòng lại, ông sẽ trả những gì còn thiếu về việc chăm sóc nạn nhân!


ĐỨC GIÊSU


a* Các đầu mục Do Thái kết án Đức Giêsu là kẻ phá Đạo hay rối Đạo, vì Ngài không giữ các truyền thống sống Đạo của cha ông, họ liệt kê Ngài là quân Samari (x Ga 8,48)
b* Kẻ cướp là quỷ; nạn nhân là người bị quỷ tấn công; tình trạng nửa sống nửa chết là người khi phạm tội: xác còn sống, linh hồn đã chết vì tội lỗi!
c* Đức Giêsu đưa ta vào Hội Thánh.
d* Đức Giêsu và Hội Thánh cùng chăm sóc tội nhân.
e* Những ai cùng với Đức Giêsu chăm sóc đồng loại đều được Ngài thưởng công cả xác, cả hồn; đời này và đời sau.
g* Đức Giêsu sẽ trở lại trần gian vào ngày cánh chung. Lúc ấy Ngài thưởng công trọn vẹn cả xác hồn cho những ai biết chăm sóc đồng loại, nhất là giúp đồng loại thuộc về Chúa Kitô.

Vậy sống đức ái Kitô giáo, chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời làm gia nghiệp, ta phải đi ba bước:
1.           Luôn kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, là ta được đồng hóa với Ngài, để Ngài sẽ giúp ta sống: “Luật yêu Chúa hết linh hồn, hết lòng, hết sức, hết trí khôn” (x Lc 10,27)
2.           Chăm sóc đồng loại, bất chấp gian khổ: Không thua ông Samari giúp người bị cướp đánh! (x Lc 10,33-34)
3.           Đưa đồng loại vào Hội Thánh còn hơn ông Samari đưa nạn nhân vào quán trọ, để nhờ chủ quán cộng tác chăm sóc (x Lc 10,34). Đó là hình ảnh những người sống trong Hội Thánh đều được Chúa Giêsu (Samari) và các chủ chăn (chủ quán) chung tay chăm sóc. Bởi thế, giáo huấn của Hội Thánh trong Công Đồng Vat. II dạy: “Chúa không muốn cứu con người cách riêng rẽ thiếu liên kết” (HCHT số 9). Thế thì nếu hai ông tư tế và Lêvi có dừng lại chăm sóc người bị cướp đánh, thì đó chỉ là nhân bản, các ông cũng chưa có Đức Ái Kitô giáo, vì mọi tôn giáo,kể cả người vô thần cũng dạy thương giúp người lâm nạn. Tệ nhất, hình ảnh ông Tư tế và Lêvi là đại diện cho giới chống đối Đức Giêsu (x Ga 7,45-52); chống đối dự tiệc Thánh Thể (x Ga 6,53-66) và chống đối việc đưa người vào Hội Thánh (x Ga 11,47-48; Cv 9,1t). Mà ai không thuộc về Thiên Chúa thì người đó không có Đức Ái, chỉ có Thiên Chúa là Đức Ái (x 1Ga 4,8), nên họ có làm việc tốt theo nhãn giới người đời, thì trước mặt Chúa cũng ra vô ích đối với họ, đến nỗi thánh Phaolô nói: “Giả như tôi đem hết gia tài sự nghiệp mà chia sẻ hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có Đức Mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Đức Mến ở đây không phải là phẩm tính mà là một ngôi vị: “Thiên Chúa là Đức Mến” (1Ga 4,8).
Đây là giáo lý về Đức Ái quan trọng và chính xác nhất, để hướng dẫn mọi sinh hoạt đời ta đạt sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đó là “Giao Ước đã lập ra muôn đời Chúa nhớ mãi” (Tv 111/110,5b: Đáp ca năm chẵn). Giao Ước Tình Yêu này chỉ có Hội Thánh Chúa Kitô rao giảng, nên: “Bất cú ai, kể cả các thiên thần dạy một giáo lý khác với Hội Thánh đã tin như trên, thì nó là đồ bị chúc dữ!Vì việc dạy giáo lý là làm đẹp lòng Chúa chứ không phải làm đẹp lòng người đời, bởi đó nếu chỉ lo làm hài lòng người đời, thì không còn xứng đáng là nô lệ của Chúa Kitô nữa!”(x Gl 1,6-12: Bài đọc năm chẵn).
Vì giáo lý của Chúa khác với suy nghĩ người đời, đó là lý do ông Giona không đi giảng cho dân thành Ninivê. Ông tin rằng chỉ có dân Do Thái mới đón nhận được ý Chúa, mới đáng được Chúa cứu độ. Dân ngoại không thể hiểu được Lời Chúa, thì để chúng chết trong tội cũng là hợp lý, có giảng Lời Chúa cho chúng cũng chỉ là “vất ngọc trai cho bầy chó bầy heo!” (x Mt 7,6). Ấy chưa kể giảng Lời cho dân ngoại dễ gì thoát ăn đòn. Nhưng Chúa cứ giục ông đi, buộc ông phải đáp tầu trốn sang Tácxit, nơi Chúa không có mặt, thì Ngài không quấy rầy ông nữa. Chuyến tầu chở ông ra giữa biển liền gặp sóng gió kinh hoàng, mọi người động viên nhau ai theo đạo gì thì kêu cầu thần đó cứu giúp, nhưng biển vẫn không yên, nên họ phải vất bớt hành lý xuống biển, mà biển vẫn không lặng, khó mà thoát chết, lúc đó mọi người có sáng kiến gieo quẻ, để tìm xem ai là người đã xúc phạm đến thần minh sinh ra hậu quả này! Quẻ họ gieo rơi trúng ông Giona, họ lục tìm thì thấy ông đang ngủ say dưới hầm tầu, họ hỏi: “Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe dọa chúng tôi nữa?” Ông bảo họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển, thì biển sẽ lặng, không còn đe dọa các ông nữa!” Họ cất tiếng kêu cầu Chúa: “Ôi lạy Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô người tội trên đầu chúng con. Chính Ngài đã hành động tùy theo sở thích”, rồi họ đem ông Giona ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ! Họ sợ Chúa lắm, nên dâng lễ khấn hứa cùng Chúa. Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giona. Ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá ông cầu nguyện cùng Chúa (Gn 1,1-2,1-11: Bài đọc năm lẻ).
Như vậy ai trốn nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa thì, người đó là nguyên nhân gây ra sóng gió cho mọi người. Bởi đó thánh Phaolô hãnh diện nói với các tín hữu trước giờ ông bị giết: “Ngày hôm nay trước mặt anh em, tôi cam đoan rằng: tôi hoàn toàn trong sạch về máu mọi người. Vì tôi đã không e ngại mà giấu giếm đi, để không loan báo cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv 20,26-27- bản dịch NTT).
Thánh Giacôbê nói: “Lời Chúa là tấm gương soi mặt linh hồn” (Gc 1,23). Bởi đó, có rao giảng Lời Chúa, mọi người mới nhận biết mình có tội mà sám hối và trông cậy vào lòng Chúa thương xót, Ngài đang giơ tay đón chờ mọi người để giúp họ biết sống yêu như giới răn Ngài dạy: “Thầy ban cho anh em một Điều Răn Mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34: Tung Hô Tin Mừng). có thế mới có thể cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống” (Gn 2,7c: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Nếu có ai, kể cả chúng tôi (các Tông Đồ), hoặc một Thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! (Gl 1,8)
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH