THẦY Ở CÙNG ANH EM
Công
việc truyền giáo phức tạp và đa dạng, với rất nhiều khó khăn; nhưng cũng có thể
trình bày rất đơn giản và phù hợp với mọi người: “Tôi sống, nhưng không phải là
tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Khi hai tai hầu như bị điếc, nhạc sĩ Beethoven đã viết nên
một số tuyệt phẩm âm nhạc, kể cả Bản Giao huởng số chín nổi tiếng; còn văn sĩ
John Milton lại viết hai tuyệt tác “thiên đường đã mất” và “thiên đường được
tìm lại” sau khi bị mù hoàn toàn. John Milton còn nói: “Đui không phải là khổ, không chịu được đui mới là khổ.”
Như vậy, đau khổ không chỉ là chuyện của những giới hạn
trong phận người, mà còn là chuyện của cái nhìn, của cách đánh giá vấn đề, và
hơn nữa, là chuyện của niềm tin. Người thế tục bị đau khổ đè bẹp, còn người sống
niềm tin lại được đau khổ thanh luyện và làm cho lớn lên.
Trong bộ phim “Sound of music”, khi phải đối diện với một
quyết định quan trọng làm thay đổi cả dòng đời, chị tập tu Maria quả quyết: “Khi Chúa đóng cánh cửa chính, Ngài mở một
cánh cửa sổ ở đâu đó.”
Trong cuộc sống, người ta luôn phải đối diện với nhiều
cánh cửa đóng (đau bệnh, thử thách, thất vọng…) nhưng đó chính là lúc đức tin
có thể giúp họ thốt lên hai chữ “Amen”
(đúng là thế, xin được như thế).
Trong chương trình của Chúa, mọi người đều hạnh phúc, chỉ
những ai chạy trốn thánh ý Chúa mới đánh mất hạnh phúc và mất cả chính mình: “Nếu người ta bứng nó đi khỏi chỗ nó ở, thì
nơi nó ở cũng chối bỏ nó: "Có bao giờ tôi thấy anh đâu!” (G 8,18);
trái lại, mọi đau khổ tiêu tan khi thánh ý Chúa được thực hiện, khi đó Chúa “sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và
phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác
nên liềm nên hái” (Is 2,4)
Chúa tuyển chọn con người chứ không dựng nên họ để chịu
đau khổ. Đau khổ bắt đầu từ sự từ bỏ Chúa: “Lạy
Chúa, (…) chính Ngài đã chọn Ít-ra-en giữa muôn ngàn dân tộc, đã tuyển chọn cha
ông chúng con giữa mọi bậc tiền bối của các ngài để làm thành gia nghiệp mãi
mãi thuộc về Ngài. Ngài thực hiện cho cha ông chúng con mọi điều Ngài đã hứa.
Nay chúng con đã phạm tội trước nhan Ngài, và Ngài đã trao nộp chúng con vào
tay kẻ thù địch vì chúng con đã thờ các thần minh của chúng. Lạy Chúa, Ngài
công minh chính trực xiết bao!” (Et 4,17m-n)
Đấng Cứu Thế đã đến, Ngài rao giảng Tin Mừng và đem hạnh
phúc đến cho mọi người bằng cách qui hướng tất cả về với Chúa. Tin Mừng Ngài
rao giảng không viết trong những pho sách lớn, mà trong cuộc sống cụ thể và sự
hiện diện sống động của Ngài giữa Giáo hội: “Và
đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)
Đúng vậy, ơn cứu độ còn được gọi là Tin Mừng vì chính
Chúa đã đến với con người và đem họ trở lại với Chúa. Niềm tin vào Chúa giải
thoát người ta khỏi mọi nỗi sợ hãi, âu lo, vốn là chuyện thường ngày của phận
người yếu hèn, khờ dại. Hoa trái của niềm tin là niềm vui thực sự tràn trề: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước
Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv
16,11)
Bởi đó, việc loan truyền Tin Mừng không là gì khác hơn là
để chính Chúa hiện diện và hoạt động trong mình: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Giáo lý cứu độ cần được loan truyền
theo cách thế Đấng Cứu Thế đã dùng, rao giảng bằng sự hiện diện của tình yêu
Thiên Chúa, như ĐGH Gioan Phaolô II quả quyết rằng thế giới hôm nay cần đến các
chứng nhân hơn là người rao giảng.
Công việc truyền giáo phức tạp và đa dạng, với rất nhiều
khó khăn; nhưng cũng có thể trình bày rất đơn giản và phù hợp với mọi người,
như thánh Phaolô đã đưa ra công thức đơn giản cho một tông đồ: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà
là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
“Giáo dân thời
sơ khai diễn tả cách nôm na: tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa
Kitô trên mặt, Chúa Kitô trong miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc,
Chúa Kitô trên vai… Tóm lại là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho kẻ khác Chúa
Kitô.” (ĐHV 292)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể chuyện: Một người Ấn giáo đứng âm
thầm sau một nữ tu trẻ đang lau lọt cho một người đàn ông vừa mới được mang về
Nhà Dành Cho Người Hấp Hối. Sau đó một lúc, ông ta đến và nói với tôi: “Tôi đã vào căn nhà này, tâm hồn rỗng tuếch,
lòng đầy chua cay, căm ghét và không tin vào thần thánh. Tôi đi ra, lòng tràn đầy
Thiên Chúa. Tôi đã thấy tình yêu Thiên Chúa sống động qua đôi tay của chị nữ tu
đó, cách chị vỗ về và săn sóc người đàn ông ấy.”
“Ông ta không nói lời nào nữa và ra đi.”
Chúa hứa ở cùng tôi mọi ngày cho đến tận thế. Công việc của
tôi là đón nhận và để Ngài sống trong tôi. Khi đó, tôi đích thực là một nhà truyền giáo!