ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA
Đức Giêsu trở về
thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc
sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và
các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh
xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ
uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền,
mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng
hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy
thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha
trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi
người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với
nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao
ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là
gì?”
Họ chẳng biết sự
khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là
Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon.” Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn
bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình
nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động,
làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp
giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có
bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang
mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện
tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,
và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi
Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu,
ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân
nhân bảo Ngài “mất trí.” Kinh sư chụp
mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ.” Dân
chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ
lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh.” Chẳng thấy ai huấn luyện
Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng,
ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên
trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ
hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết
sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết
Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa
biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết
Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống
với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng
Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con
người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch.” Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp
hòi nhìn bằng kính hiển vi.”
Còn Đức Giêsu
thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình.” Một
câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn
sứ không được quê hương mình chấp nhận.” Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy
họ không tin. Ngài rất muốn giúp
đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy
được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu
nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chuyện ngày xưa
cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của
một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có
chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta cho rằng họ
nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta
cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà
các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc
đãi (x. Lc 6, 23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức
quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình
thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu
sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một
đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành
đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của
người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn
nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần
linh đi đến nơi khác. Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp
Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết.
Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo,
chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất
hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ
nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ
trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng
ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa
đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng
tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh
ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai
hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối.
Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn;
qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét
ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ
là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như
đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho
linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ.
Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa
trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp
Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn
luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa,
dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ
của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của
Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con tỉnh thức để nhận
ra và đón nhận Chúa mỗi
lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu,
xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép
lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động
trong Giáo Hội, trong thế
giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết
ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
LM Giuse Nguyễn
Hữu An