NHỜ MẸ DÂNG HOA LÊN CHÚA
Tên bông hoa đó
là niềm tin vào tình yêu đầy xót thương của Thiên Chúa... người thời nay cảm thấy mình được thu hút bởi
dung mạo Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, hơn là bởi bất cứ dung mạo
nào.
1.
Trong 12 tháng, thì tháng Năm được Hội Thánh Việt Nam gọi là tháng dâng hoa
kính Đức Mẹ. Hoa dâng kính Đức Mẹ thường được hiểu là hoa tự nhiên trồng ở vườn,
mua từ chợ. Bên cánh hoa tự nhiên mang nhiều màu sắc và hương thơm, chúng ta
còn dâng lên Mẹ những hoa thiêng liêng trồng ở tấm lòng riêng tư của mỗi người
chúng ta.
Riêng đối với tôi, những hoa quan trọng nhất
tôi dâng lên Mẹ, đều là những hoa thiêng liêng. Nói cho đúng, những hoa thiêng liêng này
đều do chính Đức Mẹ đã giúp tôi trồng trong trái tim tôi, để rồi tôi lại hái
dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa.
2. Hôm nay, tôi ôm vào lòng một bông hoa tôi cho
là rất quý, mà chính Mẹ giúp tôi trồng trong sâu thẳm hồn tôi. Mẹ bảo tôi hãy
dâng hoa đó lên Chúa nhân lành. Chúa đã thương nhận. Người dạy tôi hãy kể ra
cho cộng đoàn biết chút ít về bông hoa đó, vì nó là công trình của Mẹ. Tên bông
hoa đó là niềm tin vào tình yêu đầy xót thương
của Thiên Chúa.
3.
Tôi xin vắn tắt.
Ngay từ rất nhỏ, tôi đã được cha mẹ dâng
tôi cho Đức Mẹ. Đọc kinh Mân Côi đã sớm trở thành thói quen tôi dùng để gặp gỡ
Đức Mẹ. Mỗi ngày nhiều lần, sự gặp gỡ Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi đã gieo vào lòng
tôi những tâm tình về đức tin. Tôi tin Chúa theo kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng
và kinh Sáng Danh. Dần dần, tôi nhận ra Chúa
là tình yêu. Rồi, đến
một lúc, tôi nhận ra tình yêu Chúa là tình yêu đầy lòng thương xót.
Phải nói là, Đức Mẹ cho tôi nhận ra trước,
rồi sau đó là tin tất cả những gì về tình yêu Chúa giàu lòng xót thương.
4. Tôi nhận ra Chúa
thương yêu tôi, qua
những gì đã xảy ra trong đời tôi. Đời tôi là một hành trình. Chuyến đi đời tôi
gặp nhiều trắc trở. Có những trường hợp tưởng là chắc chắn tôi sẽ rơi xuống hố
diệt vong. Nhưng đến phút chót, tôi đã được Chúa cứu. Tôi nhận ra tôi được cứu
hoàn toàn nhờ Chúa và do Chúa. Do vậy, tôi nhận ra Chúa là tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy Chúa dành cho tôi một cách
nhưng không, một cách bất ngờ, một cách quá sức tưởng tượng. Tôi chỉ biết gọi
Chúa là tình yêu, đúng như thánh Gioan tông đồ
đã viết: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16).
5. Chúa yêu tôi, trước khi tôi yêu Chúa. Không những
thế, Chúa còn yêu tôi, khi tôi còn trong tội lỗi, hư hỏng, đê hèn, đáng phải trừng
phạt. Qua đó, tôi nhận ra Chúa
giàu lòng thương xót. Nhận ra qua những bằng chứng sống động. Cảm thấy bằng những xúc cảm
không thể nào quên. Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, là điều bản thân tôi
đã nhận ra, đã cảm nghiệm, là điều đã đóng ấn sâu trên đời tôi. Tôi đã nhận ra
và đã tin. Như thánh Gioan đã viết:
“Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta được
biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của
Người, mà chúng ta được sống.
“Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng
ta đã yêu Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai
Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,9-10).
“Chúng ta đã nhận biết tình yêu của Thiên
Chúa nơi chúng ta, và chúng ta đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu”
(1Ga 4,16).
6. Tôi đã nhận ra
và đã tin Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Sự nhận ra và sự tin như thế đã nâng đỡ tôi rất nhiều
trong chức vụ linh mục và Giám mục. Nhất là khi mọi lãnh nhận các chức vụ trong
Hội Thánh đều hoàn toàn do được sai đi, chứ không do tự mình tôi chọn lấy cho
mình.
Được Chúa sai đi, và nhận lãnh sự sai đi chỉ
vì vâng phục ý Chúa, nhất là trong những tình hình phức tạp khó khăn, đó là tâm
trạng đòi nhiều phó thác. Sự phó thác đó nơi tôi đã được đỡ nâng bằng sự nhận
ra và tin mình được Chúa yêu thương đầy thương xót.
7. Khi được nhận ra và được tin vào tình yêu đầy
xót thương của Chúa, tôi tự nhiên ham
thích cầu nguyện. Tôi
theo gương Mẹ.
Có thể nói: Sự ham thích cầu nguyện nơi tôi
là do ơn Chúa. Chính Chúa làm cho linh hồn tôi ngoan
ngoãn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để cầu nguyện với Chúa một
cách khiêm nhường và cậy trông.
Cầu nguyện nơi tôi là sự gặp gỡ với Chúa, là sự trao đổi giữa tình yêu Chúa và sự hèn hạ khốn khổ
của tôi.
Cầu nguyện nơi tôi không hệ tại ở sự suy
nghĩ nhiều, mà ở tại sự yêu mến
nhiều.
Cầu nguyện nơi tôi là một việc đơn sơ, hồn nhiên. Bắt đầu cầu nguyện, tôi hay nhìn Chúa Giêsu và học ở
Người điều mà chính Người đã phán: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhường” (Mt 11,29). Rồi tôi nhận được sự bình an, như Người đã hứa: “Tâm hồn
các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
8. Khi cầu nguyện, tôi xác tín mình rất hèn mọn,
khó nghèo, tội lỗi, xấu xa, rất cần đến lòng
thương xót Chúa. Tôi
tin Chúa xót thương tôi, chính vì tôi là như thế. Và vì tôi chính là kẻ khó nghèo,
tội lỗi, nên tôi tự nhiên không dám mơ ước đến những sự lớn lao, như hãm mình
khắc khổ lớn, trở thành ánh sáng lớn, làm những việc lành lớn.
9. Trở thành bé nhỏ, đó là một cách tôi thuộc về Chúa Giêsu. Đấng
mà tôi tin luôn yêu tôi với tình xót thương vô bờ.
Trở thành bé nhỏ như thế luôn đi kèm với sự
cậy trông. Chính ở đây tôi hiểu lời thánh Phaolô đã nói: “Khi tôi yếu, chính là
lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
10. Những
gì tôi vừa vắn tắt chia sẻ trên đây là rất chân thành. Đó là bông hoa thiêng
tôi dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ, dâng lên Chúa.
Tôi tin rằng: Tại Việt Nam hôm nay đang có
nhiều bông hoa thiêng liêng dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa. Những bông
hoa thiêng liêng đó có thể khác nhau. Nhưng tất cả đều muốn làm chứng về Thiên
Chúa.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, người thời nay cảm thấy mình được thu hút bởi dung mạo
Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, hơn là bởi bất cứ dung mạo nào. Do vậy, mà việc làm chứng
cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót rất cần được thực hiện do chính ơn
Chúa, một cách khiêm nhường vâng phục, để có sức dấn thân phục vụ theo đúng ý
Chúa.
Long
Xuyên, ngày 3.5.2015.