THẬP GIÁ VÀ BÓNG TỐI
TRONG ĐỜI TẬN HIẾN
Đâu là thành công của đời thánh hiến? Đâu là
điều chính yếu linh mục tu sĩ phải lo tìm kiếm, vun trồng và xây đắp?
Cuối đời Chúa
Giêsu đã có cảm tưởng như bị Cha mình bỏ rơi. Ngài đã kêu lên “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao
Ngài bỏ rơi con?” lúc bị treo trên thập giá(x. Mc 15, 33-34). Thân xác Ngài
đã bị bầm dập vì đòn roi, linh hồn Ngài hoàn toàn thiếu vắng sự an ủi. Nhưng
chính từ trong tâm hồn tan nát ấy, những dấu chỉ của sự sống mới đã chảy ra.
‘Chúa Giêsu là Thiên Chúa trao ban trọn vẹn
con người Ngài cho ta, dốc cạn mình cho ta. Chúa Giêsu không giữ lại cũng không
bám vào những sở hữu của Ngài. Ngài cho tất cả những gì Ngài có để cho’(Henri Nouwen).
Đức Giêsu Kitô
cả đời hiến thân phục vụ con người nhưng lại chết trong sự cô đơn, vô ơn tủi nhục,
thất bại thảm hại như thế. Ngài được ca ngợi và cũng bị chỉ trích, được ngưỡng
mộ và cũng bị khinh khi; Ngài được người ta xin làm vua và cũng bị người ta
đóng đinh vào thập giá... Lúc bấy giờ không gian tối tăm! Lòng người càng tăm tối! Sự cô đơn ghê gớm kèm theo nỗi đau thể xác và tâm hồn. Chẳng có ai để
thông cảm. Thánh giá chồng lên thánh giá. Tối tăm phủ lên tăm tối. Đây mới là sự
cay đắng khó đón nhận nhất. Rất dễ bỏ cuộc lúc này. Đức Giêsu rất khó xử. Chỉ
còn ít phút nữa thôi nhưng cũng là hơi lâu đối với thời gian tâm lý. Nhưng Đức
Giêsu làm chủ được thời gian. Và chính Ngài phải bắt buộc dùng thời gian để
hoàn tất và cứu chuộc loài người. Ngài luôn trung thành tới cùng. Tình yêu của Chúa Giêsu được triển nở nhẩn nha trong bóng tối của sự hận thù và phản bội. Tình
yêu ấy ngấm sâu chậm chạp nhưng bền bỉ khó gỡ. Giống như lối sánh ví của Tgm.
Fulton Sheen diễn tả: ‘tình yêu của Chúa
giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó’.
“Hiệp thông với Chúa Giêsu có nghĩa là trở nên giống như
Ngài. Với Ngài ta cùng chịu đóng đinh vào thập
giá, cùng chịu mai táng trong mồ, cùng được trỗi dậy để tháp tùng các du khách
đã bị lạc hướng trong cuộc hành trình của họ. Hiệp thông, nghĩa là trở thành Đức Kitô, đưa ta tới một lãnh vực khác của sự hiện hữu. Nó dẫn ta vào trong Nước
Thiên Chúa. Trong vương quốc ấy, những phân biệt xưa giữa hạnh phúc và u buồn,
thành công và thất bại, những lời ca ngợi và kết án, sức khỏe và bệnh tật, sự sống
và cái chết không còn nữa. Trong vương quốc ấy, ta không còn lệ thuộc vào thế
giới này, một thế giới vẫn còn chia rẽ, xét đoán, phân cách và chỉ trích. Trong
vương quốc ấy ta thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về ta, và cùng với Ngài ta
thuộc về Thiên Chúa.” Chúa Giêsu muốn đưa ta tới nơi ta thuộc
về. Nhưng ta chỉ có thể nghe lời Ngài mời gọi sống đời sống thiêng liêng khi ta
sẵn sàng thú nhận cách chân thành tình trạng vô gia cư và lo âu của ta và nhận ra hậu quả có tính phân mảnh của chúng trên đời sống hằng ngày của
mình. Chỉ khi ấy khát vọng muốn có một căn nhà đích thật mới phát triển” (H.Nouwwen. sđd). Đau khổ thất bại của
Chúa Giêsu thường gây cho chúng ta cảm nhận hơn là tính chủ động cho mình dấn
thân. Và vì thế xem ra đấy chỉ như là một thứ chủ nghĩa, lý thuyết để chúng ta
hô hào, cổ võ chứ chưa đạt được tầm mức cho mình rập khuôn mẫu. Chắc chắn Chúa
Giêsu chưa hài lòng lắm về thái độ như thế. Phấn đấu để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô quả là một thách đố lớn lao và là sự dấn
thân cao độ nhất.
Người môn đệ
Chúa cũng chẳng hơn thầy mình ‘môn đệ không hơn thầy, được như thầy là khá lắm
rồi’. Xem ra chúng ta chỉ muốn giống Chúa ở những điều như là sự cao sang, đẹp
đẽ, uy nghi, quyền bính, lãnh đạo, điều hành, phán quyết,… nhưng hễ đụng chạm tới
sự cô đơn, thất bại thế nào cũng tìm cách trốn tránh, từ khước. Có lẽ chúng ta
hay cầu nguyện xin Chúa ban cho mọi việc được thuận lợi, trôi chảy,... mà quên
không cầu nguyện để có sức chịu đựng hay can đảm đương đầu với khó khăn thử
thách. Nhìn vào những thất bại của Chúa Giêsu trong giai đọan cuối đời Ngài
trên thập giá chắc chắn chưa có một linh mục, tu sĩ nào phải đau khổ và thất bại
thảm hại như Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã
phải chịu một thử thách rất lớn khi ngài đã phải kêu lên: "một thủ hạ satan được sai đến vả mặt tôi" (2Cr 12,7).
Ngài đã phải chịu bắt bớ, đau khổ trong thân xác - hoặc đã chịu những điều cực
nhọc; nhưng đây chắc phải là điều gì rất đau xót cho tâm hồn Ngài, chính vì thế
mà ngài đã xin Chúa giải thoát ngài: tôi đã nài xin Chúa đến ba lần (2Cr12, 8):
"và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những
mạc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm
vào, một thủ hạ của satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.
Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với
tôi: "ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng
khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì
khi tôi yếu chính
là lúc tôi mạnh"(2Cr 12, 7-10).
Tình trạng lãnh
đạm, sự mệt mỏi thiêng liêng sẽ diễn ra trong hành trình đức tin của chúng ta.
Bóng tối trong đời sống nội tâm không phải là điều mới lạ trong truyền thống thần
bí học Công giáo. Trên thực tế, đây là một hiện tượng thường xảy ra vơí rất nhiều
vị thánh trong lịch sử giáo hội. Họ đã trải qua cái mà thánh Gioan thánh giá, một
nhà thần bí nổi tiếng người Tây ban nha thuộc dòng Carmel đã gọi là 'đêm tối'. Vị thánh bậc thầy trong đời sống nội tâm này đã sử dụng rất chính xác cụm
từ trên để chỉ giai đoạn thanh luyện đau đớn mà một người phải trải qua trước
khi đạt đến sự kết hiệp với Chúa. Sẽ có hai giai đoạn trong cuộc thanh luyện
này: 'đêm tối của giác quan' và 'đêm tối của tinh thần'. Trong giai đoạn đêm tối
đầu tiên, người đó sẽ thoát khỏi sự ràng
buộc của những thoả mãn giác quan và được dẫn vào cầu nguyện bằng chiêm niệm. Trong lúc Chúa truyền ban ánh
sáng và tình yêu của Người, linh hồn người ấy vẫn còn đầy thiếu sót nên không
đón nhận được và cho rằng đó là bóng tối, nỗi đau, sự khô khan và trống rỗng. Mặc
dầu sự trống rỗng và vắng mặt của Thiên Chúa là vẻ bên ngoài, nhưng đó lại là
nguồn đau khổ rất lớn. Tuy nhiên, nếu tình trạng này là 'đêm tối của giác quan'
chứ không phải là hậu quả của sự tầm thường, lười biếng hay đau ốm thì người đó
sẽ tiếp tục thi hành bổn phận của mình một cách trung thực và quảng đại mà
không nản lòng, không lo lắng cho bản thân, hay bị rối loạn tình cảm. Cho dù
không còn cảm nhận được niềm an ủi nào, nhưng lòng vẫn khát khao mong mỏi Chúa,
cùng với sự gia tăng về tình yêu, khiêm nhường, kiên nhẫn và các nhân đức khác.
Đôi khi ta trải
qua một sự khô khan kinh khủng trong đời sống thiêng liêng. Ta không còn cảm thấy
muốn cầu nguyện, không còn kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, chán chường
với những việc thờ phượng và thậm chí nghĩ rằng tất cả những gì ta tin vào Thiên
Chúa, vào Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần chỉ hơn những chuyện thần tiên thời thơ
ấu một chút thôi. Khi ấy điều quan trọng là nhận ra rằng hầu hết những tình cảm
và những suy nghĩ này là những tình cảm và những suy nghĩ đúng và Thần Khí
Thiên Chúa bao giờ cũng vượt quá những tình cảm và những suy nghĩ ấy của ta. Có
thể kinh nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong những tình cảm và suy
nghĩ của ta là một ân huệ lớn, nhưng khi ta không có được kinh nghiệm ấy, thì
cũng không có nghĩa là Thiên Chúa vắng mặt, nhưng không có được kinh nghiệm ấy
thường có nghĩa là Thiên Chúa đang mời gọi ta tới một sự trung thành hơn. Chính
những lần khô khan thiêng liêng ấy mà ta phải bám vào kỷ luật
thiêng liêng của mình để có thể lớn lên trong sự thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo nên trong trái tim ta một
khát vọng hiệp thông mà không ai trừ Thiên Chúa mới có thể và muốn thỏa mãn.
Thiên Chúa biết điều ấy. Đôi khi ta cũng biết, nhưng ta lại luôn tìm kiếm kinh
nghiệm của sự thuộc về ấy ở chỗ khác… Tuy nhiên, nếu ta khóc than vì những mất
mát của ta, nếu ta lắng nghe Ngài trên đường, và mời Ngài đi vào trong cõi thẳm
sâu của ta, ta sẽ biết rằng sự hiệp thông ta đang đợi chờ đón nhận chính là sự
hiệp thông Thiên Chúa đang chờ đợi trao ban.
Phải chăng sự
khô khan và tối tăm của ta chính là những dấu chỉ của sự vắng bóng Thiên Chúa,
hay đó là sự hiện diện sâu rộng hơn giác quan mình không thể cảm nhận?
Sau khi vượt
qua được đêm tối đầu tiên, người đó sẽ được Chúa dẫn tới giai đoạn 'đêm tối của
tinh thần' để được thanh luyện khỏi những
cội rễ thâm sâu nhất của các khiếm khuyết của mình. Đi cùng với quá trình thanh luyện này là
một tâm trạng khô khan đến cùng cực, và người đó sẽ cảm thấy như bị Chúa xua đuổi
và bỏ rơi. Đó là một trải nghiệm đau dớn đến mức con người cảm thấy như đang đi
vào chốn đoạ đầy muôn kiếp. Và thậm chí còn đau đớn hơn nhiều vì người đó chỉ cần
Chúa và yêu Người bằng một tình yêu lớn lao nhưng lại không nhận ra mình yêu
Chúa (x. Mẹ Têrexa, những bí mật lần đầu tiên được tiết lộ về Mẹ Têrêxa).
Sự hiện diện của
Thiên Chúa vượt xa kinh nghiệm của con người về sự ở với nhau đến độ sự hiện diện
ấy dễ dàng bị cảm nhận như sự vắng mặt vậy. Sự vắng mặt của Thiên Chúa, trái lại,
thường được cảm nhận cách sâu sắc đến độ nó đưa ta tới một cảm thức mới về sự hiện diện của Ngài. Đó là điều đã được diễn tả mạnh mẽ trong
thánh vịnh 21 (22), 1-5:
Lạy Thiên Chúa con thờ, muôn lạy Chúa
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào
Nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng
Đêm van nài mà cũng chẳng yên
Thế nhưng Chúa ngự nơi đền
Vinh quang của Israel là Ngài
Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa
Họ cậy trông Ngài đã độ trì
van nài liền được cứu nguy
Đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài.”
Lời cầu nguyện
này không chỉ là diễn tả kinh nghiệm của dân Israel thôi mà còn là chóp đỉnh của
kinh nghiệm Kitô giáo. Chúa Giêsu nói những lời này trên thập giá, thì sự cô đơn tột cùng và việc trọn vẹn chấp nhận sự cô đơn ấy
gặp nhau. Trong lúc
hoàn toàn trống rỗng ấy, thì mọi sự đã được hoàn tất. Trong giờ phút đen tối ấy,
người ta đã trông thấy ánh sáng. Trong lúc người ta đang mục kích cái chết, thì
người ta đã khẳng định được sự sống. Ở đâu sự vắng mặt của Thiên Chúa được diễn
tả cách lớn tiếng nhất thì ở đó sự hiện diện của Ngài cũng được mạc khải cách
sâu sắc nhất… Chính mầu nhiệm này là mầu nhiệm ta bước vào khi cầu nguyện (tr.
181-182).
“Qủa vậy, nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ phải hối
tiếc; còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. Hãy xem nỗi ưu
phiền theo ý Thiên Chúa đã đem lại cho anh em những gì: bao nồng nhiệt, và hơn
thế nữa, bao lời xin lỗi, bao ân hận, bao sợ hãi, bao ước mong, bao nhiệt tình,
bao hình phạt; bằng mọi cách, anh em đã chứng tỏ mình vô can trong vụ này” (2 Cr 7, 10 -11).
‘Chớ
gì lời cầu nguyện của
ta trở thành một lời cầu khiêm tốn, bởi lẽ ta xin một ơn
trong khi âu lo, ơn mà ta không có quyền đòi hỏi; không phải là ơn xin để ta
tránh được tất cả những tấn công của kẻ địch mà là ơn luôn trung thành trong một
trận chiến chân thành. Chớ gì lời kinh của ta cũng luôn kiên trì, bởi vì nếu ta
nghĩ rằng ta không bao giờ bị địch tấn công nữa, thì quả là ta đã kiêu ngạo rồi
- hoặc đã suy nghĩ liều lĩnh rồi’ (Hồng y Bertram).
Những thử
thách, đau khổ trong đời tận hiến không ngạc nhiên cho lắm. Cần phát hiện ra những
nguyên nhân làm mất đi hay tăng trưởng tình yêu đầu đời thánh hiến; điều này có
thể đến sớm hoặc muộn tùy người, tùy hoàn cảnh; gọi là sự khủng hoảng đời tu.
Người ta hay
quan niệm: đi tu là phải được sung sướng, được kính trọng, được ưu đãi, khoẻ mạnh,
được giúp đỡ mọi mặt chu đáo,... đó mới là thành công, đó mới là đúng ý Chúa.
Còn ngược lại bị chống đối, đau khổ, bệnh tật, bị coi thường,... thì khó chịu lắm;
cho là bị thất bại, bị... Chúa không quan tâm! Thật là tai hại, sai lầm. Ma quỷ
hay dùng chiêu bài đó để lôi kéo, mua chuộc chúng ta một cách dễ ợt!
Sự chênh vênh,
mong manh của phận người và số phận tận hiến đôi khi không được chính mình nghĩ
tới và như một ý tưởng cần phải gạt ra, chính điều đó làm cho chúng ta hay ảo tưởng, sống không thực tế và chỉ biết tìm hưởng thụ ở chế độ cao! Nhưng lại là
điều chúng ta thường không quên nhắc nhở giáo dân! Có một vị giám mục nói khi
được mời giảng lễ ngài rất ngại vì toàn phải dạy người ta những điều mà mình
không chịu giữ!
Lời kêu cứu rất
cần cho tâm hồn linh mục khi ngài bị satan tấn công vũ bão, sức mạnh của ngài bởi
nơi phù trợ của Chúa. Ta phải kêu xin Chúa vào những giờ phút tranh đấu nội
tâm, kêu xin Người với sự hăng say, nhiệt tình, với sự kiên trì và tín nhiệm
nơi Chúa, như thánh Phao-lô đã cầu nguyện. Ta hãy tranh đấu với thiên thần ánh
sáng: "tôi sẽ không thả ngài ra trước
khi ngài chúc lành cho tôi" (St 32,26).
Như thế sự nhận
thức về con người và chính chúng ta đã gặp những khó khăn để nhận biết thực sự
Thiên Chúa thế nào, điều đó làm cho chúng ta hiểu được lòng thương xót của
Thiên Chúa qua ánh mắt đầy yêu thương và nhân từ. Khi chúng ta bị đắm chìm
trong tăm tối, bập bềnh trong cơn sóng biển gào thét dữ dội, ngay cả khi chúng
ta từ chối việc Chúa Giê-su đến gặp chúng ta, chúng ta nghĩ đó chỉ là con ma,
nhưng ngài đến để trấn an chúng ta, ngài nói với chúng ta 'hãy can đảm lên, thầy đây, đừng sợ!" Chúa Giê-su đến với ta để
giúp ta chiến thắng sợ hãi.
Trong buồn tủi,
cô đơn hay thất bại lại là lúc tỏa sáng ngời tình yêu quên mình phục vụ mà bên
ngoài thì đúng là chẳng hề làm chi cả. Các thánh đã kiên nhẫn tới cùng trong những
lúc như thế. Có khi hiểu lầm, bất công, chống đối, hận thù vẫn không qua đi kể
cả khi đã chết. Nhưng các ngài vẫn kiên nhẫn và hy vọng
rằng sự công bằng, tình yêu và bình an sẽ trở lại.
Mở ra cánh cửa
cho không gian nội tâm tiếp xúc với thế giới siêu việt nhờ sự gặp gỡ Thiên Chúa
trong cầu nguyện. Mỗi lần để cho tình yêu Thiên Chúa xuyên thấu tâm hồn mình,
là mỗi lần mình làm vơi đi một ít âu lo; và mỗi khi gạt đi một ít âu lo, là mỗi
lần mình lại biết mình hơn và nhất là làm cho Thiên Chúa tình yêu của mình biết
rõ mình hơn. Mọi sự được gìn giữ an toàn trong tình yêu Thiên Chúa. Cho nên,
Chúa Giêsu mời gọi: ‘Hãy ở lại trong tình
yêu của Thầy’.
Chúng ta tự đặt
ra mấy câu hỏi này: giá trị đỉnh cao trong đời tận hiến là gì? Đâu là thành công của đời thánh hiến? Đâu là điều chính yếu linh mục tu sĩ phải lo tìm kiếm, vun trồng
và xây đắp? Giáo hội và thế giới hiện đang cần, đang thiếu những linh mục tu sĩ
như thế nào?
"Giữa thế gian anh em phải chiếu sáng
như những vì sao trên vòm trời" và "thưa anh em, những gì là
chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và
đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em
hãy để ý. Và Thiên Chua là nguồn bình an sẽ ở với anh em" (Pl 4,
8.9b); rồi hãy 'luôn sẵn sàng trả lời cho
bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình" (1Pr 3,15). Đó là những lời
nhắn nhủ chân tình của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.
Có nhiều nguyên
nhân làm cho những điểm sáng và điểm tối nơi con người linh mục tu sĩ được thấy
rõ. Việc thiếu vắng đời sống nội tâm và thiếu khổ chế là nguyên nhân giảm sút việc hăng say nhiệt
tình. Việc suy niệm không những chỉ nhắm tới sự phát triển các nhân đức cho bản
thân mà còn thúc đẩy việc chiếu sáng trên mọi lãnh vực tác vụ mục vụ của chúng
ta. Phương pháp ‘khám bệnh tổng quát, chữa bệnh tận căn’ cần phải áp dụng trong
đời sống thiêng liêng một cách bài bản, cẩn thận và tỉ mỉ thì mới hết bệnh.
Chúng ta hay sợ, rồi chữa lan man vòng ngoài thì làm sao khỏi bệnh được. Phải sửa
chữa từ trong tâm hồn, trong lương tâm. Càng là người quan trọng càng phải được
chăm sóc và chữa trị cẩn thận. 'Chỉ có sự
thật mới có thể vượt qua được những chia cắt giữa con người và chiến thắng của
sự thật là tình yêu' (Augustino).
Khái niệm bao
trùm con người tận hiến phải được quy chiếu về thầy
chí thánh Giêsu Kitô. Chuẩn mực công việc phải được soi chiếu trong lời giáo huấn của Chúa. Động lực thúc đẩy hành động phải được kín
múc từ bí tích Thánh Thể là sự trao ban hiến thân trọn vẹn nhưng lại
rất âm thầm kín đáo, tế nhị. Điểm dừng của mọi công việc có thể là thành công
hoặc thất bại được thâu tóm lại trong mầu nhiệm thập giá. Các mối liên hệ ấy như những tia sáng mở
đường cho mọi hành trình và dự phóng của các công tác mục vụ của chúng ta. Hơn
nữa, chính nó diễn tả bản chất thật sự của người linh mục tu sĩ hiện đang trong
tình trạng nào?
Lm. Pet. Bùi Trọng
Khẩn