CHẾT ĐỂ SINH HOA TRÁI
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đấy."
Nobel là một trong những giải thưởng
được đánh giá cao trong thế giới hôm nay. Thế nhưng giải
thưởng đó đã có một lịch sử đặc biệt.
Giải thưởng đó mang tên nhà phát minh nổi tiếng người Thụy
Điển, ông Alfred Nobel. Ông là một nhà phát minh có tài, đặc biệt trong lãnh vực
chất nổ. Nửa cuối thế kỷ 19, chất nổ được nghiên cứu chế tạo để phục vụ cho nhiều
công trình lớn, cũng cho cả vũ khí. Chết nổ rất nguy hiểm, ngay cả em trai của
Alfred Nobel cũng tử nạn khi nghiên cứu chất nổ.
Sau cùng, năm 1866, Alfred Nobel đã chế tạo thành công
Dynamite, một loại thuốc nổ nitroglycerin an toàn. Ông đã nhận bằng sáng chế từ
hai nước Anh và Thụy Điển vào năm 1867. Sáng chế này đã mang lại cho ông rất
nhiều lợi nhuận và danh tiếng.
Thế nhưng năm 1888, anh trai ông, Lugvic Nobel, đã
qua đời. Một tờ báo Pháo đã nhầm lẫn Alfred Nobel với anh của ông và đã đăng cáo
phó với tựa đề “nhà buôn cái chết đã chết” trong đó có mấy lời bình luận: “Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu
có sau khi phát minh ra cách thức giết chết con người nhanh hơn bao giờ hết đã
qua đời ngày hôm qua.”
Alfred Nobel như bị sét đánh khi đọc bản tin. Những lời
bình luận cho ông thấy trước ông sẽ bị coi như một kẻ sát nhân đáng kinh sợ khi
ông qua đời dù ông không dùng thuốc nổ để chế tạo vũ khi.
Ông đã sống trong phiền muộn những năm cuối đời. Thế
nhưng, một năm trước khi qua đời, ông đã quyết định thành lập giải thưởng
Nobel, và đã dành 94% tài sản mình nhằm đề cao và khích lệ mọi hoạt động sáng tạo
cống hiến cho hạnh phúc chung của nhân loại.
Chất nổ, sáng chế của Nobel, có đáng bị coi thường không,
có đáng bị nguyền rủa không?
Đúng là số người chết vì chất nổ là vô cùng lớn, và không
thể tính hết được những thiệt hại kèm theo. Những bãi mìn làm cho bao nhiêu miếng
đất màu mỡ phải bỏ hoang chỉ nói lên phần nào những thiệt hại kèm theo đó. Nhưng
nếu không có chất nổ thì nhiều công trình lớn cho công ích của nhân loại không
thể thực hiện được. Vấn đề không nằm ở chất nổ mà nằm ở người sử dụng chúng.
Hiến chế Vui mừng và Hy vọng của công đồng Vatican II đã
cho thấy mối nguy nằm ở tính kiêu ngạo và lòng vị kỷ: “Sự tiến bộ tuy là một lợi ích to lớn cho con người, nhưng cũng kéo
theo một thử thách lớn lao. Thực thế, khi bậc thang giá trị bị đảo lộn, khi ác
và thiện pha trộn vào nhau, thì cá nhân mỗi người cũng như cả tập thể chỉ còn
quan tâm đến lợi ích riêng mình, chứ không để ý đến lợi ích của người khác.”
Thập giá Chúa Kitô được Công đồng đưa ra như phương thuốc
cứu nhân loại khỏi tính kiêu ngạo và lòng vị kỷ, khỏi hiểm họa tự diệt vong: “Mọi hoạt động lo toan của con người đang bị
đe dọa mỗi ngày do tính kiêu ngạo và lòng vị kỷ, nên chúng cần phải được thanh
tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô.”
Năm 1846 đã xảy ra cuộc chiến tranh Mexicô, Henry
Thoreau, một văn sĩ kiêm triết gia, đã cực lực phản đối cuộc chiến, vì ông tin
rằng đó là biện pháp để mở rộng lãnh thổ chiếm giữ nô lệ.
Ông cương quyết, không chịu đóng thuế, bởi vì cho rằng số
tiền ấy, sẽ được sử dụng vào cuộc chiến phi nghĩa. Sau cùng, ông thà chịu giam
vào tù, còn hơn là chấp nhận đóng thuế.
Waldo Emerson, cũng là một văn sĩ kiêm triết gia, bạn
thân của Thoreau và cũng là một nguoời kịch liệt chống đối cuộc chiến tranh và
chế độ nô lệ, đã đến nhà tù để thăm ông.
Emerson hỏi Thoreau, "Này
ông Henry, tại sao ông phải ở tù thế này?" Thoreau nhìn thẳng vào mắt
của Emerson và hỏi: "Waldo, còn ông
tại sao không ở trong này?"
Trước giờ tử nạn, Chúa công bố rõ ràng về chọn lựa của
Chúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn
vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác.”
Tình yêu đến quên mình là chọn lựa của Chúa, đó cũng là
và phải là chọn lựa của những ai muốn theo Chúa: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó.”
Đâu là chỗ đứng của tôi?