Chuyện phiếm của Gã Siêu:
NĂM MÙI NÓI CHUYỆN DÊ
Từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người ta đều
nhìn dê bằng một cặp mắt khinh bỉ, gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa
dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm không?
Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu
tại sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng của mấy chú ba Tàu, lại chia vòng thời gian thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài mười
hai năm và được gọi là một can hay một con giáp.
Chẳng hạn khi nói:
-
Vợ nó hơn nó một con giáp.
Câu nói này nghĩa là:
-
Nó kém vợ nó những mười hai tuổi. Đúng theo cái mốt “vợ già chồng trẻ là
duyên con… bò”.
Tất cả có mười can, đó
là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí.
Mỗi năm trong một can hay trong một con
giáp được gọi là chi. Tất cả có mười hai chi, đó
là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Mỗi chi lại
được biểu tượng bằng một con vật nào đó.
Thí dụ năm nay là năm Quí Mùi. Quí là can
chót, can thứ mười. Còn Mùi là vị thứ tám trong mười hai chi và thuộc về con
Dê. Năm tới 2004, sẽ trở lại can đầu là Giáp và chi thứ chín là Thân. Như thế
năm 2004 sẽ được gọi là năm Giáp Thân, cầm tinh con khỉ.
Theo tục lệ tốt lành vốn có từ lâu trong
nghề viết lách, hôm nay gã xin bàn rộng bàn dài, tán hươu tán vượn về con dê, để
bàn dân thiên hạ được xả hơi trong những ngày đầu năm, mà quên đi những căng thẳng
của công ăn việc làm và những khủng bố đang xảy ra khắp đó đây trên cả và trái
đất.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau:
Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con
dê, bèn sai hết cả nhà đi tìm, lại sang nói với Dương Chu cho mượn một người đi
tìm hộ.
Dương Chu nói:
-
Ôi! Sao mất có một con dê mà cho những bao nhiêu người đi tìm.
Người láng giềng đáp:
-
Vì đường có lắm ngã ba.
Khi các người tìm dê đã về, Dương Chu hỏi:
-
Có tìm thấy dê không?
Người láng giềng nói:
-
Không.
-
Sao lại không tìm thấy?
-
Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã ba
khác. Thành thử không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về không
cả.
Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất không tìm thấy.
Người đi học cũng vậy, chỉ vì mê muội mà mất cả lương tâm.
Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức, thì:
“Dê
là loài thú có sừng, có râu, lông nhiều và hôi, bốn móng thon nhọn, thích chồm
phá để kiếm cỏ và dây leo để ăn.”
Khi con dê đực mang nặng tuổi đời và trở về
già, lúc bấy giờ râu cằm dài, lông nhiều và mùi hôi thật đậm đặc, người ta gọi
nó là dê… xồm.
Riêng những kẻ muốn bắt chước dê, để một
chòm râu ở cằm, thì bộ râu ấy liền được bàn dân thiên hạ tặng phong cho danh hiệu
là bộ râu dê.
Trong chữ Tàu, dê được gọi là dương. Chẳng
hạn cao dương là dê con, sơn dương là dê núi.
Tại Việt Nam có một thời người ta đua nhau
nuôi dê để lấy sữa bởi vì theo các nhà phân tích, thì sữa dê có nhiều chất bổ
dưỡng. Thậm chí các cụ già thường xuyên uống sữa dê thì sẽ trẻ ra vài chục tuổi,
còn quí bà quí cô ấy hở, nếu thường xuyên tắm sữa dê, thì da dẻ lúc nào cũng cứ
trắng nuốt như trứng gà bóc vậy!!!
Xem ra các chú ba Tàu, cũng như dân bợm nhậu
rất khoái món thịt dê, bộ phận nào của dê cũng được liệt vào hàng quí hiếm và
được chiếu cố tận tình, chẳng hạn như: dương trường là ruột dê, dương can là
gan dê, dương huyết là máu dê, dương nhục là thịt dê, dương thận là thận dê… Mỗi
thứ này được tẩm liệm và chế biến theo một cách thức riêng để trở thành món đặc
sản của những nhà hàng tại Chợ Lớn.
Những người chuyên nghiệp làm dê, tức là mần thịt dê, cho hay:
-
Để khử cái mùi hoi của dê, người ta thường phải đuổi cho dê chạy thật lâu,
hay cho dê uống rượu cốt để cho dê say đến toát cả mồ hôi hột, rồi sau đó mới
chọc tiết. Thịt sẽ không còn hoi nữa.
Có một thời ở Saigon, dân bợm nhậu rất ghiền
cái món lẩu dê, đi tới chỗ nào cũng thấy những bảng hiệu quảng cáo và mời gọi
cho lẩu dê. Thậm chí cả một dẫy phố, nhà nhà đều trở thành quán nhậu với món lẩu
dê. Sau thời đại của lẩu dê, tới thời đại của lẩu mắm. Còn bây giờ tại các đám
tiệc, cái “mốt” lẩu tươi sống đang rất được thịnh hành.
Ngày nọ, gã về Saigon và được mấy tên bạn
cùng lớp rủ đi nhậu lẩu dê. Quán nhậu chỉ gồm vỏn vẹn mấy chiếc bàn và một ít
ghế thấp lè tè được bày ngay trên lề đường vào ban tối. Khi món nhậu được bưng
ra, gã nhận thấy có một cái niêu đựng thịt dê đã được nấu sẵn với chao, đặt
trên bếp than và đang sôi sùng sục. Đi kèm với nó là hai đĩa mì vắt và hai đĩa
cải đắng. Mì và cải đắng được nhúng vào lẩu trước khi ăn.
Dân nhậu chính hiệu con nai vàng, khi xơi lẩu
dê, thì phải uống rượu huyết dê, nghĩa là rượu đế được pha với máu dê. Uống chừng
dăm cốc thì bầu khí bỗng trở nên vui vẻ, ai cũng thích nói to và nói dài. Dường
như mình là người duy nhất nắm được chân lý trên đời.
Riêng phần gã, dù bị dị ứng với mùi tanh của
máu, cũng phải nhắm mắt nhắm mũi làm vài cốc cho vui lòng bè bạn. Ăn miếng thịt
dê mà vẫn cứ phân vân không biết dê hay chó, bởi vì dê đâu mà lắm thế!
Nhậu lẩu dê là một hình thức nhậu bình dân
và rẻ tiền nhất. Chẳng thế mà quán lẩu dê nào cũng đông khách. Mấy anh tài xế
xe ôm, mấy bác đạp xích lô, sau một ngày lao động cực nhọc, ban tối rủ nhau làm
một cái lẩu dê với vài xị rượu huyết dê là sẽ quên tuốt những vất vả và khốn khổ
của mình.
Nhiều khi không có thịt dê, dần ghiền bèn
phệu ra món “giả dê”, tương tự như món “giả cầy” để được tưởng nhớ mùi hương.
Người ta dùng chân giò heo, nướng lên rồi thái nhỏ và bóp với riềng. Khi thưởng
thức, miệng thì ăn nhưng lòng thì phải mường tượng ra đó là thịt dê chính gốc.
Có một điều gã ghi nhận được khi suy gẫm về
loài dê, đó là từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người ta đều nhìn dê bằng một cặp
mắt khinh bỉ, gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm không?
Người ta dẫn tới trước mặt Aaron một con dê
đực còn sống. Ông ta sẽ đặt hai tay lên đầu nó mà xưng thú hết mọi sai lầm, hết
mọi phản nghịch, nghĩa là hết mọi tội lỗi của con dân Israel, như thể trút tất
tật lên đầu nó, rồi dùng tay một người đang chờ sẵn mà đuổi nó vào sa mạc. Ở đó
chẳng có sự hiện diện đầy yêu thương của Đức Giavê, mà chỉ có sự hiện diện của
ma quỉ độc dữ mà thôi.
Con dê này được người Do thái gọi là “oan
dương”, con dê gánh tội, con vật hy sinh.
Trong Tân ước, gã lại còn thấy rõ điều ấy
hơn nữa.
Thực vậy, hoạt cảnh vể ngày phán xét chung
đã được Kinh thánh mô tả như sau:
Bấy giờ các dân thiên hạ sẽ được tập họp
trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra, như mục tử tách biệt chiên với dê.
Ngài sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái.
Như thế, dê là biểu tượng cho những kẻ đứng
bên trái, tức là những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp
chẳng cùng. Thật là đại họa và vô phúc cho chúng ta nếu như trong ngày định mệnh
ấy chúng ta bị đứng ở bên trái và lầm lũi bước theo dấu chân dê mà đi xuống hỏa
ngục.
Chẳng biết có phải vì dê tượng trưng cho tội
lỗi và ngoại diện của nó không được bắt mắt cho lắm mà người ta rất ngại vẽ dê.
Năm ngoái cầm tinh con ngựa, thì hình ảnh về
ngựa thật là ê hề, từ hình chụp đến hình vẽ, từ ngựa đực đến ngựa cái, từ ngựa
mẹ đến ngưa con, thậm chí có cả ngựa đang mang bầu.
Còn năm nay cầm tinh con dê, gã đã phải chạy
đôn chay đáo, chạy ngược chạy xuôi, thậm chí còn vắt cả giò lên cổ mà chạy để
tìm cho ra một tấm lịch có hình con dê, hầu làm thiệp đón mừng xuân mới, gửi
cho bè bạn khắp bốn phương trời, thế nhưng bạc mắt tìm mà cũng chẳng thấy.
Riêng đối với người Việt Nam, nết xấu nổi bật
nhất nơi con dê đực, chính là cái “tính thích đờn bà
con gái”, chính là cái “thói ve vãn, chọc ghẹo đờn bà con gái”.
Cái tính và cái thói này nhiều khi nằm sẵn
trong huyết quản vì thế những kẻ mắc phải cái tính và cái thói này thường được
gọi là kẻ có… máu dê, hay máu băm nhăm.
Khi cái tính và cái thói này liên tục phát
triển và lên tới tột đỉnh của nó, thì kẻ ấy nghiễm nhiên được bàn dân thiên hạ
phong cho cái chức… ”dê xồm”, tức là kẻ cả gan dám dê một cách trắng trợn, ngay
cả giữa ban ngày ban mặt, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng kể gì đến những lời
bàn ra tán vào. Kẻ ấy giống như “dê cỏn
buồn sừng húc dậu thưa”, mà Hồ Xuân Hương đã diễn tả.
Ngày xửa ngày xưa, vua Tấn Võ Đế có rất nhiều cung phi mỹ nữ. Ban đêm, nhà
vua ngồi trên chiếc xe khảm vàng khảm ngọc, do một đàn dê kéo đi khắp trong
cung, tự ý dê muốn đi đâu tùy thích. Xe dừng ở nơi nào, nhà vua sẽ nghỉ đêm tại
đó.
Chẳng hiểu có phải vì vậy mà dê bị gán cho
cái tác phong “thiếu đứng đắn” khi giao tiếp với “phe địch” hay không? Nếu chỉ
vì thèm ăn nắm lá dâu mà dê bị kết tội dê, tức là “táy máy với đờn bà con gái”,
thì thật hơi oan cho dê một tí.
Cái tội dê này, báo chí phương tây hiện giờ
đã mặc cho nó một danh xưng nhẹ nhàng và mỹ miều hơn, đó là cái tội “quấy rối
tình dục”. Và theo những nhà tâm lý, thì từ “quấy rối tình dục” đến “lạm dụng
tình dục” chỉ cách nhau có một đốt ngón tay. Mấy ông quan tòa bên đó đã dành
cho những kẻ quấy rối tình dục những bản án nặng nề, nhưng chẳng biết có “sì tốp”
được cái tính và cái thói dê ấy chút xíu nào hay không?
Trong ngôn ngữ, gã ghi nhận được một vài
câu tục ngữ, nói lên tính cách giả dối của
người đời liên quan tới dê.
Trước hết các cụ đồ sính chữ nho hay những
người thuộc vào hàng nho chùm vốn thường bảo:
-
Dương chất hổ bì.
-
Cốt là cốt dê, mà da lại là da cọp.
Từ đó ám chỉ những kẻ dùng thế lực giả tạo
bên ngoài để lòe bịp hay hù dọa thiên hạ.
Họ là những kẻ:
-
Mượn đầu heo nấu cháo.
Hay:
-
Mượn hoa cúng Phật.
Họ giống như:
-
Cáo mượn oai hùm.
Chứ thực chất bên trong của họ chẳng đáng
giá một đồng xu cắc bạc nào cả.
Chuyện xưa kể rằng:
Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Còn Chiêu Hề
Tuất chỉ là một người bầy tôi của Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe
thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần
vì cớ làm sao? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một
hôm bắt được một con cáo. Cáo bảo: Liệu đó! Chớ đụng chạm đến ta mà chết ngay
bây giờ. Ta là trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta,
là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân tức khắc… Không tin, thử để ta đi trước,
ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường
trốn mau hay không? Hổ cho là cáo nói thật, bèn đi theo cáo. Quả nhiên bách thú
trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng
là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu
Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách
thú sợ hổ vậy.
Câu chuyện trên ám chỉ kẻ dưới thích mượn
quyền thế “bề trên” để hống hách và dọa nạt. Nếu không biết, người ta còn sợ,
chứ khi “lừa đã thò tai” thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà còn làm
đê nhục để cho bõ ghét.
Tiếp đến, người bình dân trong ngôn ngữ thường
ngày vốn thường hay nói:
-
Treo đầu dê, bán thịt chó.
Cửa hàng treo bảng hiệu bán thịt dê, nhưng
thực chất bên trong chỉ toàn chó với chó.
Cũng giống như gã đã trình bày ở trên: khi
ngồi nhậu lẩu dê với bè bạn mà lòng cứ thắc thỏm không hiểu là thịt dê hay thịt
chó, bởi vì dê đâu mà nhiều thế.
Câu tục ngữ ngắn gọn này cũng đủ diễn tả
tác phong của kẻ giả hình, họ nói vậy mà không phải vậy, họ nói một đàng nhưng
làm quàng một nẻo.
Kinh thánh đã bảo:
-
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì đầy
dòi bọ cùng mọi thứ xú khí.
Tục ngữ Việt Nam đã liệt họ vào hạng:
-
Khẩu Phật, tâm xà.
-
Miệng na mô, bụng bồ dao băm.
-
Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không
gươm.
Như thế, họ không làm đã đành, mà thậm chí
còn làm ngược lại những gì họ đã nói:
-
Na mô, một bồ dao găm,
Một trăm dao mác,
Một vác dao bầu,
Một xâu thịt chó.
-
Na mô, một bồ dao găm,
Một trăm con chó,
Một lọ mắm tôm,
Một ôm rau húng,
Một thúng rau răm.
Bàn về hạng người giả nhân giả nghĩa ấy,
thiết tưởng còn nhiều điều phải nói. Tuy nhiên để kết thúc những sự việc lỉnh kỉnh
về con dê, gã xin mượn một mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy
mang tựa đề là “Người bán thịt dê”:
Vua Chiêu Vương nước
Sở bị mất nước, phải bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là
Duyệt, cũng chạy theo vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về, lấy
lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo mình khi trước, trong số
đó có cả người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người
bán thịt dê từ chối và nói:
-
Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi
còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong
thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng:
-
Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà
vua lấy lại được nước, không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo:
-
Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói:
-
Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới
đến nhà. Nay tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ
giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà
vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến
chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã
Tử Kỳ rằng:
-
Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa.
Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói:
-
Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn,
giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua
mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ
lấy nghề bàn thịt dê.
Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm
lời bàn như sau:
“Vua
Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi
theo mình là người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận
thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán gì.”
“Nếu
ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê,
thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là
công minh lắn ru! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng
công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để
lòe đời vậy.”
Theo ý gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân
si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ tạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã
phất lên từ lâu.
Và trước khi giã từ để… ăn tết, gã xin:
Long trọng… kính chúc… Quí vị… năm con… dê nhiều… may mắn!!!