Mẹ Maria –
Mẫu gương đời dâng hiến(1)
Đó là người mau mắn
thưa tiếng “xin vâng”, là người dùng nội tâm để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và
là người đi cùng với Chúa trên mọi nẻo đường – hy sinh hằng ngày và chết đi đến
tận cùng.
Người tu sĩ nào cũng ý thức rất rõ rằng đi
tu là từ bỏ mọi sự để bước theo Đức Kitô một cách thật gần gũi. Nhưng thế nào
là “bước theo Đức Kitô”? Không phải cứ tuyên ba lời khấn là người tu sĩ ngay lập
tức trở thành thánh. Không phải cứ khoác lên người chiếc áo dòng là người tu sĩ
bỗng được biến đổi trọn vẹn cả xác thân. “Mang danh là người tu sĩ” thì khác với
“tư cách một tu sĩ thực thụ.” Người tu sĩ cần phải nỗ lực hàng ngày, bỏ mình
liên lỉ, sống kết hiệp với Chúa không ngừng để được Ngài sửa dạy và biến đổi.
Đây là điều, nghe thì rất lý tưởng, nhưng thực hành thì chẳng dễ chút nào. Các
môn đệ ngày xưa, tay chạm tay, mặt giáp mặt với Đức Giêsu hằng ngày, vậy mà đã
không biết bao nhiêu lần, thậm chí cho đến khi Thầy bước vào cuộc khổ nạn, các
ông vẫn mang một tư tưởng trần tục và hành xử như những người xa lạ của Chúa.
Trên hành trình dâng hiến, liệu có một mẫu gương nào cho các tu sĩ noi theo
không? Đã từng có người nào đó trên trái đất này, sống một đời sống tuyệt vời đến
độ trở thành một khuôn mẫu cho những ai sống đời dâng hiến không? Con người ấy,
không ai khác, chính là Mẹ Maria – là mẹ và cũng là người môn đệ đích thực của
Chúa.
Chúa muốn người môn đệ của mình phải luôn sẵn sàng và mau mắn khi
cộng tác với sứ mạng của Chúa. Một con người chần chừ, ngần ngại thì không
thích hợp với một Nước Thiên Chúa “đã đến gần.” Một thái độ ứng trực ra đi để
thực thi thánh ý Chúa là điều rất cần thiết trong đời tu. Muốn vậy, các tu sĩ
phải thật thanh thoát với mọi thứ trên đời, để không gì có thể làm cản vướng đôi
chân họ. Họ hệt như những người tôi tớ háo hức đợi Chúa sai vào vườn nho của
mình, để khi được gọi tên, họ hăng hái đứng dậy, nhanh chân lên đường với tất cả
lòng nhiệt huyết, hăng say và yêu mến. Đó chính là thái độ của Mẹ. Khi vừa được
sứ thần loan tin, báo cho Mẹ biết về ý định của Thiên Chúa và lời mời gọi của
Người dành cho Mẹ, Mẹ đã chẳng ngần ngại gì, nhưng ngay lập tức đáp lời “xin
vâng.” Mẹ không xin Chúa thêm thời gian để suy nghĩ. Mẹ không lưỡng lự suy tính
xem mình được gì mất gì. Mẹ không chần chừ nuối tiếc cho một tương lai tươi đẹp
mà mình đã hoài công vạch sẵn. Mẹ không lập luận, chất vấn để hiểu cho ngọn nguồn
mọi ý định của Chúa. Tất cả những gì Mẹ làm là cúi mình vâng phục trước những
gì Chúa muốn. Mẹ biết, Mẹ không ngang hàng với Chúa để thỏa thuận lợi ích,
nhưng Mẹ chỉ là một tớ nữ của Chúa mà thôi. Đối với Mẹ, đây không phải là một
cuộc đổi chát, nhưng là một lời mời gọi; đây không phải là niềm kiêu hãnh nhưng
là một vinh dự thẳm sâu.
Người môn đệ của Chúa phải là một người có
chiều sâu, có khả năng đọc được
những dấu chỉ Chúa gửi đến trong cuộc sống thường ngày. Họ không để
cho mọi thứ trôi qua, biến mất mà không đọng lại điều gì. Từng biến cố, từng sự
kiện xảy đến đều được họ ghi khắc lại trong tim và gẫm suy điều Chúa muốn nói.
Đây không phải là một thái độ xét nét, nhưng là một hành vi đi tìm Chúa trong mọi
sự, để chiêm ngắm những điều tuyệt vời Chúa làm mà không ngừng ngợi ca và tìm
vinh danh Chúa. Mẹ Maria đã thực hành điều này không biết bao nhiêu lần trong
cuộc đời của Mẹ. Việc các mục đồng đêm khuya đến viếng Chúa mới sinh, câu chuyện
các đạo sĩ từ phương xa đến để tìm Hài Nhi, lời tiên tri của cụ Simeon, câu nói
của Giêsu lúc 12 tuổi tại Đền Thờ… tất cả đều khiến trái tim đầy nhạy cảm của Mẹ
ghi khắc. Nhờ năng suy đi nghĩ lại những điều này, Mẹ đã chất chứa trong cõi
lòng mình một kho tàng rộng lớn những kinh nghiệm thiêng liêng, giúp Mẹ ngày
càng thêm yêu Chúa và có đủ sức mạnh để đối đầu với tất cả những trái ngang của
kiếp người. Càng chiêm ngắm những hành vi lạ kỳ của Chúa, Mẹ càng cảm thấy bừng
dậy trong mình một nỗi mừng vui vì “Chúa đã làm biết bao điều cao cả.” Người
môn đệ nào không biết ngạc nhiên trước những gì Chúa làm thì không thể yêu mến
Chúa sâu xa được. Người tu sĩ nào không nhìn thấy Chúa nơi tất cả những gì xảy
đến với mình thì cũng sẽ không có đủ nội lực thiêng liêng để gắn kết với Chúa.
Người sống đời dâng hiến nào không đưa cuộc sống vào Tin Mừng và không đưa Tin
Mừng vào cuộc sống thì sẽ thấy mình lạc lõng và chẳng biết Đức Kitô ở nơi nào để
mà theo.
“Bước theo Đức Kitô” chính là đi cùng với Ngài trên mọi hành trình Ngài đi.
Hành trình ấy có thể là những khúc khuỷu của các ngả đường rao giảng, nhưng đỉnh
cao chính là hành trình đi lên đồi vắng cùng với cây thập tự đầy thương đau. Nhớ
lại thời khắc lúc Giêsu bị bắt, bị kết án và bị hành hình, các môn đệ bỏ chạy
tán loạn, người thì bán Chúa, người thì chối Chúa, người thì tìm mọi cách để
thoát thân. Đứng dưới chân thập giá, chỉ có rất ít người thân cận của Ngài.
Thân phận người phụ nữ yếu đuối, lòng đau như cắt, nhưng Mẹ vẫn đứng đó, ngước
nhìn lên cây thập giá cách quả cảm, chiêm ngắm từng nhát roi, từng dòng máu chảy
ra từ chính thân thể của con trai mình. Đây chính là thân thể mà Mẹ đã sinh ra,
đã chăm bẵm cho từng chút một, không dám làm gì để bị trầy xướt. Vậy mà giờ
đây, Thánh Thể ấy bị đối xử tàn tạ chẳng còn chi hình hài. Chính ngay nơi đỉnh
đồi đau thương này mà tư cách người môn đệ Chúa của Mẹ được thể hiện rõ hơn bao
giờ hết, tiếng “xin vâng” của Mẹ trở nên trong vắt và sâm đậm hơn lúc nào hết.
Câu chuyện giáng sinh đã nói cho Mẹ biết là Chúa của Mẹ vốn yêu thích cái nghèo; lời
của cụ Simeon năm xưa đã giúp Mẹ chuẩn bị tinh thần cho một vết đâm vào trái tim
thanh khiết; câu nói của Giêsu mấy chục năm trước giờ đây Mẹ đã hiểu: thế nào
là thực thi ý Cha. Mẹ
đã khởi đầu hành trình theo Chúa cùng với Giêsu và Mẹ đã cùng Giêsu đi đến sự
hoàn tất.
Thật không thể hiểu nỗi nếu có ai đó tự nhận
mình là người của Chúa nhưng lại chẳng biết gì đến hai chữ “hy sinh.” Không vác
cây thập giá lên đồi cùng với Chúa thì chỉ có thể là chối Chúa, bán Chúa hoặc bỏ
mặc Chúa mà thôi. Sống trong đời tu, người tu sĩ phải hy sinh nhiều
lắm. Họ không được có gì sở hữu riêng, họ phải để con tim
mình được thanh thoát, họ phải từ bỏ luôn cả phán đoán, ý nguyện của mình. Rồi cả
nỗi cô đơn khi tuổi già đến, những trống vắng khi chẳng ai ở kề bên. Những câu
kinh biết đâu cũng có khi trở nên nhàm chán. Đời sống cộng đoàn lắm lúc trở nên
gánh nặng. Có thể họ được nhiều người yêu mến và kính trọng, nhưng sự đời là thế:
cái gì thuộc về nhiều người thì rốt cuộc chẳng thuộc về ai. Họ làm những việc
chẳng ai muốn làm. Họ cống hiến nhưng có khi chẳng ai thừa nhận. Họ sống thật
thà thì bị gọi là người cõi trên. Họ dấn thân để rồi bị coi là kẻ ngu muội… Khi
tất cả mọi sự dường như quay lưng lại với họ, kể cả bạn bè và người thân, họ được
mời gọi nhìn lên đồi vắng, nơi có một bóng hình bị treo trên cao và một bóng
hình khác bị mũi gươm đâm vào trái tim tan nát. Đó là hy sinh, là thập giá, là
cái giá và cũng là phần thưởng của đời tu.
Nhìn lên Mẹ, người tu sĩ thấy được chân
dung của một môn đệ thực thụ. Đó là người mau mắn thưa tiếng “xin vâng”, là người
dùng nội tâm để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và là người đi cùng với Chúa trên mọi
nẻo đường – hy sinh hằng ngày và chết đi đến tận cùng. Nhưng bao trùm tất cả những
điều này là tình yêu và một niềm
vui thiêng liêng khôn tả. Người tu sĩ nào không vui khi gật đầu với
Chúa thì không sẵn sàng cho sứ mạng của Chúa. Người sống đời dâng hiến nào hy
sinh với vẻ mặt u ám thì chỉ đang làm một chuyện dại dột hại đời mình. Người
môn đệ nào tiến đến cái chết mà không chan chứa trong lòng một hy vọng phục
sinh thì chỉ như tự đưa mình vào hỏa ngục. Cái mâu thuẫn của đời tu là thế: từ
bỏ nhưng vui, hy sinh như hạnh phúc, bị ghét bỏ nhưng lòng vẫn chan chứa tình
yêu thương.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ