Các bài
suy niệm
Chúa Nhật II Mùa Chay năm B
Chúa Nhật II Mùa Chay năm B
27. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
28. Theo
Chúa chịu chết để được sống catholic.org.tw
29. Cũng
vì thương Thiên Chúa ban...Lm Carolo Hồ Bạc XáI
30. Thử
thách trong cuộc sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
31. Tin
tưởng đón nhận thập giá.. Lm. Phêrô Lê văn Chính
32. Đừng
quên mảng tốt nơi mỗi người Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
1. Đau khổ
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách
khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ
vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà
Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm
ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ
Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu
dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với
ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn
tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi
là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối
với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng
ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con
mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị
giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị
giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha,
hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài
người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin
Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi
thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa
Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một
chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng
chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó
chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến
để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự
kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ
lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời
sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay
vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của
nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng,
chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa,
trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim
của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng
ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường
lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục
sinh.
2. Biến hình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng
nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây
phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu
biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn
luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế
lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt
bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho
bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn
đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ
thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì
gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình
thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn.
Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong
thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho
ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc
Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng.
Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi
ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng
láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn
che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với
Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua
đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác
khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự
bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của
Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta
càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng
thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên
giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng
muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin
Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc
thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm
vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác
thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các
tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua
mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì
Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh
thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút
dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự
thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh
tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa
trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn
nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người.
Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố
gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn
bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là
sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ
trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua
rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với
Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như
thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có
dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng,
xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc
đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên
trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều
đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ
chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ
làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
3. Sống thân mật với Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo
không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu
của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là
người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở
về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình
yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa
ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không
thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là
mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người,
muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao.
Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân
mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại
sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp
gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa
là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều
về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời
sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba
Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh.
Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh
phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần
nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa.
Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa
Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập
tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ
lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết
định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ
ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô?
Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?...
Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương
trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu
được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành
hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của
Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã
chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng
tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu
của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập
giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản
thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong
trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu
của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn
sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong
mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng
tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái
nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên
Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ
nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình
yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường
Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng
ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với
Chúa không?
4. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
Tha hồ lựa chọn.
“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa
Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào
lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc?
Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta
không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự
lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta
vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo”
xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các
giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi
họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng
những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là
ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là
thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều
người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái
của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là
nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa
nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được
mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe
Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi
chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải
được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là
Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị
ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là
ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ.
Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ
mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của
Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa
chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh
chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh.
Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ
bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để
làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi
hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người.
Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực
ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều,
nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của
Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết
đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh
giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn
không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn
nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên
Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền
được gọi là “Con yêu dấu”.
5. Được biến đổi hình dạng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha,
chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về
các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng
thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm
tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai
trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm
thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này
ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay
được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che
lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu
tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ
Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con
yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến
hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta
sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr
3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô
mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa
Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình,
nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn
mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành
đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy
theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong
tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có
tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng
những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết
thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên
cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu
nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
6. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille
Degeest)
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn
Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có
thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ
lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ
Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu
Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một
hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng
sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô
tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng
nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần
phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt
họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin
của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng
trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con
người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải
cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách
nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ
điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được
vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải
gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại
và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con
Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta.
Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng
quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật
là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ
quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã
được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ
mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh
vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu,
điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa
và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa
Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán
thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi
Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự
chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm
kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người.
Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng
chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết
những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa
Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta
là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như
những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau
khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng
cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi
đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan
trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà
Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của
chúng ta không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai
đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ
Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi
của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu
không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường
đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho
chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương
mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa
Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của
chúng ta.
7. Hai khuôn mặt một tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất
ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và
có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp
nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô
liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng
cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu
tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả
tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em
nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng
vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ
sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống
hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi
mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu
bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa
vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn
mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi
thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt
khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu.
Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được
vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha
và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã
dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng
Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh
Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì
tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của
Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của
Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên
trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của
Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về
cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá
theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi
Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con
yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên
Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết
và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá
đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố
lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha,
đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái
chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô
giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình
làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm
chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng
ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám
yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong
sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm
nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa
niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha
Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và
mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”,
đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha,
để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy
sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha
tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử,
nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái
hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa
Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời
sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng
trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
8. Suy niệm của Noel Quesson
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI.
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống
lại”.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai
người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục
Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng.
Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y
mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được
khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa
toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có
bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta
biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh
quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể
định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của
Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông
đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên
cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện
quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất
thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn,
tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội
tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng
thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám
đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được
sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc
5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp
hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên
Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông
thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính
Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây
là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói
với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh
Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng
rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa
đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui
thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai
‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái
chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực
của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu
đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn
thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
9. Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra
trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc
khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi
Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con
xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta
khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay
chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh
quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và
Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa,
chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ
không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết
sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương
thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra
trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ
cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an
toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ
mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa
một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới
thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối
của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm
chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn
chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là
kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm
nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình
tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu
trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm
nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo
tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị
Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng
chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án
và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố
Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh,
thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một
khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ
đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ
được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
10. Tabor với Đức Giêsu
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ
tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert)
đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu
phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế
và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm
tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi
nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời,
khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người
lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn
luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng
nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước sự hiện diện của
những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông.
Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có
đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây
ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó
về cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một
thời điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương
lai. Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số
phận giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng
khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu
nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng
dường như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người
nghe được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức
Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người,
và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe
dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi
sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta.
Có rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi
tiếng, thì bạn mới là một người tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong
tâm hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần
phải chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người
con yêu dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân
lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh
tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông
tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích
cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta”.
11. Đức tin và đau khổ
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống
bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh
quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc
1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một
người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc
ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara,
nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham,
nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên
Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên
Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng
tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa
muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức
tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể
xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học.
Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối
thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà
ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững
lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp
hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn
chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên
Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà
Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có
thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị
mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận
và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin
trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra
cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ,
không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên
Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử
thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa
sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng
ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng
ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa
chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài
cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu
lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang
người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi
người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một
điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương,
tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên
Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị
chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể
mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng
kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng
mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ,
chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện,
càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn.
Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa
sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở
đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày
ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy
đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho
đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế,
những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng
đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự
cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu
nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng,
hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
12. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu
sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô,
Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn
cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh
vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và
đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá.
Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai
những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc
9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết
sống lại nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời
Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi
Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục,
thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc
8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau
khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ
hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và
trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị
bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính
tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết
trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các
tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu
tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách
hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang,
không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở
nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ
cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại,
chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ
không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con
(Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại
như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử
đạo, cũng đã hiểu đuợc từ cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý
hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi
người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống
thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta
cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống
lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng
trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng
không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời
này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa,
và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống
lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho
tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính
nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục
nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái
(Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về
đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý
nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.
13. Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được
diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú
giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau
khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy,
không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút
đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con
không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một
liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta
có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu
đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những
điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống
đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba
vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc
trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ
một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê,
các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta
cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng
ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới
Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng
ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không
còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà
chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc
sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm
gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin
của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa
con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm
cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác
vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc
và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng
thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay,
bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông
vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh
Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó
sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu
mến Ngài.
14. Sống với Chúa.
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi
ấy chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều
đã trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy
nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình,
chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình.
Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình
trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái
máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều
việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo
chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó
với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần
dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận
rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác
tín chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời
sống thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy
nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên
làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt
và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên
Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng
ta làm trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa
trên việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có
lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán
gì”.
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả
năng dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ
làm cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng
ta, bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
15. Biến hình.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm
có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một
bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra
hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm
trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai
thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh
quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố
niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh
quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không?
Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được
xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa,
chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ
hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa
Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay
đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa
Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình
dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao
siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông
chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông
thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên
Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ
biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài
là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm
sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc
lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong
công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của
việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên
Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ,
động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là
sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ,
Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh
quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng
muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ
rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn
chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối
trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân
thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô
gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại
cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng
đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm
hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy
từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền
nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những
mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô
gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món
quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc
bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm
chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta,
Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho
chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang
tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng
của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi
dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ,
Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp
cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài
cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập
giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần
chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang
lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá,
chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực
tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào
đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là
con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ
cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn
tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử
thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo
vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời
này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
16. Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ
tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của
cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói
năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét
bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui
sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động
đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút
ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu
thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào
những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn
thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì
mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã
cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong
một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên
Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí
báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút
quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội
diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc
biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay?
Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra
ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem
chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên:
"Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan!
Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên
Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc
mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình
giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính
tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu
trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những
giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một
phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được
những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm
cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần
gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến
Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi
phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung
lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng
không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời
Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa
Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng
sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay
Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
17. Trên đỉnh Taborê.
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự
hỏi: - Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín
nhất.
Tôi xin trả lời: - Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các
ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã
không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử
nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông: - Con
Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba
sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã
khiển trách ông nặng lời: - Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những
việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về
cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông
của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá,
các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm,
không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa
Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ
phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những
cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó
trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như
vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh
quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy
sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập
giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến
tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an
ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay
chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ
được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không
phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi
mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi
đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời
thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như
trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ
yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc.
Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được
với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần
thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng
ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ
được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh
quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
18. Thiên Chúa về phía …
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng
ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức
Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ
khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã
được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn
giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng
lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có
nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên
Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du
với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những
Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu
chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần
tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu
“Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo
bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa
yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu
cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương
tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu
thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được
những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể
chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên
Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa,
nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng
rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế
rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có
thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu
thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê.
Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía
các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng
một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước
số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi
lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng
nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”.
Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ
ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao.
Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay.
Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ
nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng
ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng
ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi
Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình
yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng
của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta
phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu
trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi
của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta
đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay
trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế
giới sắp đến.
19. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên
núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các
ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con
người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và
sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh
và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta
thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng
hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến
và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được
dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một
người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều
cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài
nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự
giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là
chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của
Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện
tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với
những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của
Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế
đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có
thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của
các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà
các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa
của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy
nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn
ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu
biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái.
Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y
phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của
Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích
thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài
chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình
hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy
những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên
ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí
ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ
căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự
vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người,
việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành
xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác,
theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực
của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế
khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn
giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau
nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá
nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha
nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta
không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái
của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta
thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất
đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ
và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng «theo hình ảnh của Ngài» (St 1,27; 9,6; Ep
4,24), «giống như Ngài» (St 1,26; 5,1), để trở thành «con cái Ngài» (Lc 20,36;
Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa
«ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại» là «được thông phần bản tính của
Ngài» (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi «được thông phần
bản tính của Ngài», một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi
bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm
giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin,
và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi
trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành,
cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ
là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh
của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của
một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất
mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với
bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng,
cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn,
hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào,
hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao
trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội
nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những
hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã
nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều
«hiển dung» trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất
đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên
Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của
Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng
hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không
tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và
yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: «Nếu ai nói:
"Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến
các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa.
Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi
người chung quanh con «hiển dung» trước mắt con với bản chất rất cao trọng của
họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và
tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang
sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
20. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính
và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra
trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và
xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông
làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi
ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là
cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương
đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay
lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ
cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống
của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất
cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của
Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới
hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến
một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức
tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy
nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm
cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa.
Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr
5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì
chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện
diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc
đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn'
khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc
khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe
Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối
trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những
giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm
hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải
ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các
tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm
sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô
mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương
tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của
Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa
thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những
giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành
sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của
Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình
với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên
con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt
xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng
ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết
đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ
không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham
xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của
mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc
cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người
trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì
không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
21. Chú giải của Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi
theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày"
trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng
theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen
với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó
là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa:
"Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi
Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"...
"Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của
Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý
nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel
lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ
lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh
trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con
người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một
nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba
ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể
không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi
sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối
của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy.
Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ
đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta
cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình,
nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp
gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp
nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có
thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy
hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên
Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập
cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy
biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những
chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường
mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao
trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân
chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế
gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian
để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au
tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian
này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới
và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người
Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã
đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng,
xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo
vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh"
tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu
diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để
một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người,
đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh
sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến
Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên
qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người
họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ
anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay
không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội,
về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những
cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá
ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô,
đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4).
Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một
biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản
chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi
nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác
động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa
là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy
nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ
bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi
Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được
xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần
gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây
ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là
các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào
về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta
nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất",
"trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh
Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần
thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc
Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao
trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng
của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được
mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất
tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con
người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi
trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi
nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt
tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức
Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là
thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên
những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một
"cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên
Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi
hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt
3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt
ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con
ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói
gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước
đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc
8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc
8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ
vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với
ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt
khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người,
khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc
lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh
chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông.
Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó
buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có
tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên
Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là
tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó
chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể
vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những
nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình
trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta
biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của
con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai
nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông
tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại"
nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn
tính đích thực của Chúa Giêsu.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG TRÊN NÚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố
Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và
chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: "Rồi
Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”.
Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu
thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều
không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức
Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu
trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức
Giêsu: "Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp:
"Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con
đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với
việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng.
Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn
tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ
mình) ở núi Sinai ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố
cho con cái Israel rằng: "Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên
giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm
nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên
mới đã khai sinh.
Maccô viết: "Sáu ngày sau" mà lại không chỉ rõ sau cái
gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, "Thiên
Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là
một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu
Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó
người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng
nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư
ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời
đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các
bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý
nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc
tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc
khải quyết định của Thiên Chúa.
- Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê,
Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có "Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng
ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà
được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của
Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời
điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
- Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với
Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35),
Đức Giêsu "hiển dung" trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái
vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm
chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là
hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để
lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho
toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại
cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị "Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một
cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh
hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa
cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám
mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở
đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát
ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc
chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu:
"Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con" (1,11), còn ngày nay
tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của
Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu
dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh
của Con Người: "Các ngươi hãy vâng nghe lời Người".
J.Hervieux quảng giải: "Giờ đây dường như qua tia chớp loè
sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa", và vượt qua khỏi sự
chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không
giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?"
(L’evangile de Marc", Centurion p.125).
- Bỗng chốc, Maccô kết luận: "Các ông chợt nhìn chung
quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi
xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa
thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một
lần nữa "bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa
thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng
Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này,
dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có
thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên
Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu
của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người.
Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh
"vượt sức người" (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một
thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô.
Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa,
Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng
Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là
con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng
một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi
hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế.
Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng
ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy
vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết "chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm
nhân”.
(Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại,
luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và
dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa
Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên
Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn
chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ
bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người
chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết
chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được
thông công sự sống của Người. "Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những
người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của
Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con " (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận
sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình
bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để
chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo
bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
23. Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con
người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v.
chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ
vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng
hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã
không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời
của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh
quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một
cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được
chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này
có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó
và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được
nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới
cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn
toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy,
Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc
sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn
cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các
giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm
tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn
chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình
bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy
nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng
có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho
người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên
trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ
lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc
sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống
vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống
thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con
người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc "tách
riêng" thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân
tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là
sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ
là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc
bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt
khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu
nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời
sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần
gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết
dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó
là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm
mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng
mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô
hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người
đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng
phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá
được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính
nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên
đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi
cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn
sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình
và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d'evangiles,... année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó
chấp nhận, "là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân
ngoại" (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể
hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham
sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy
thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không
phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac
con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi
Chúa làm một điều tương tự như Abraham là "không dung tha Con mình, nhưng
lại phó thác Con vì tất cả chúng ta" (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà
Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã
chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng
"công chính hóa" nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi
thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên
núi Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và
cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu
là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy
biết đọc các "dấu chỉ thời đại" dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu
Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến
hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui
buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó
khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong
kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên
Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới:
Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà
cửa, trong các sứ giả Tin Mừng... "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai
tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta". Mùa Chay giúp ta thay đổi cái
nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
HÃY TỎ MÌNH LÀ HÌNH ẢNH CHÚA
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: “chọn mặt gửi vàng”. Nghĩa là để tin tưởng một
ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng
tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì “Sông sâu còn có kẻ
dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn
dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng – trưa – chiều -
tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có
hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò
thể đóng kịch đến mức độ “nói vậy mà không phải vậy”. Có ai đó nói không ngoa
rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối
nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền
lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm;
có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì,
nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát.
Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong
truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng,
một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi
người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh
Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái
xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu
ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê
tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của
nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho
Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo
cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho
Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức
về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng
đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì
như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội.
Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã
trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người
khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt
vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của
trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù
tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi
mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất
tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng
vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là “nhân linh ư vạn vật”.
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên
Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản
tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ
con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu
thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con
người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có
những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có
thể là những con người có “duyên lặn vào trong” dầu rằng bên ngoài chẳng có gì
hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho
dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô
thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm
mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng
ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt
và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin
nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao
quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự
sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều
được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giê-su Ngài hoà nhập vào đời nhưng
Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người
ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như
thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt
nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là
lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi
thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa
mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công
bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con
người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều
theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con
người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và
hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh
Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình
ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp
ấy nơi mỗi người chúng ta.
NHÌN VÀO MẶT TỐT
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên
Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm
hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được
ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào
giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu
số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa
Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận
sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành
vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an
đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ
nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông
Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa
với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con
xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng
phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ
phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo
Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt
phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm
vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao.
Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa
Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc
khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa
Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của
Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào
tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng
cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mặt sáng của Người trước,
qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ
thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông
khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn
mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người
ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt
trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó,
thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ
chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời
của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt
sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn
xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt
sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất
vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc
vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với
thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho
chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương
thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu
điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương
quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với
nhau sẽ hạnh phúc hơn.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
HÀNH TRÌNH ĐẾN VINH QUANG
Thanh Hương
Đức Kitô đã làm Người, và Ngài đã sống một mùa chay.
Mùa chay và thân phận của con người thật gần gũi, bởi vì mùa
chay có cám dỗ, có chiến đấu, và có tự do chọn lựa.
Vâng tuần thứ nhất đã mời gọi chúng ta cùng Đức Kitô sống một
mùa chay như thế để giúp chúng ta nhận rõ hơn những khuynh hướng cám dỗ của thế
gian, và hiểu thế nào là thân phận của con người. Chúa không dùng quyền năng để
thỏa mãn những nhu cầu của riêng mình, không muốn phô trương để được ngưỡng mộ,
lại càng không muốn khuất phục trước lợi lộc và vinh quang của trần thế ban
tặng.
Nhưng hôm nay, nhìn về câu chuyện diễn ra trên núi Tabor, thật
khác xa và trái ngược với những gì đã diễn ra trong sa mạc của 40 đêm ngày.
Điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Chúa GiêSu không được, thì chính Chúa lại lấy
sáng kiến để tỏ ra cho ba môn đệ thân tín của Ngài được thấy. Đó là "vinh
quang của Con Thiên Chúa" Và vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân
vật lịch sử Cựu Ước, đó là Môsê và Êlia.
- Điều gì đã khiến Đức Kitô từ chối không tỏ cho Satan biết Ngài
là Con Thiên Chúa?
- Satan đã cám dỗ Chúa: Hãy tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách
phô trương thân thế và biểu dương quyền lực.
- Chúa Giêsu đã từ chối trước dịp bày tỏ vinh quang đó,
nhưng...Ngài sẽ tỏ mình là Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh.
Vâng! chính Thập Giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên
Chúa.
- Chúa Giêsu không những đã không màng đến của cải, địa vị, thậm
chí đến cả quyền lực Ngài có sẵn. Mà Ngài còn không màng đến chính phẩm giá của
mình, đến nỗi chấp nhận để cho thiên hạ cười chê là "bạn với quân thu thuế
và phường tội lỗi", là kẻ"phạm thượng", và do đó Ngài đã bị kết
án và chết như một phạm nhân giữa những người trộm cướp. Nhờ sự hạ mình thẳm
sâu và quên mình tới mức tự hủy như thế, mà Ngài đạt được "danh hiệu trổi
vượt trên muôn ngàn danh hiệu".
Chính vinh quang mà Chúa sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm Thập
giá, thì hôm nay Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, với mục đích là để các ông
đừng ảo tưởng về một vinh quang trần thế, đồng thời cũng chuẩn bị cho các ông
khỏi chán nản thất vọng khi thấy Ngài bị lên án và chết thảm trên Thập giá.
Bởi thế biến cố trên núi Tabor, rất mật thiết và gắn liền với
mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh. Biến cố đó đã xảy ra thực sự, và được ghi chép
như là điềm báo trước vinh quang của Đấng Phục Sinh từ cõi chết.
Ba môn đệ được chứng kiến Đức Kitô biến hình, cũng là ba môn đệ
được ở riêng với Ngài trong đêm Ngài bị bắt nơi vườn cây Dầu.
Hành trình làm người cũng là hành trình đức tin, không thiếu
những niềm vui và nỗi buồn, ngọt ngào và cay đắng. Điều quan trọng đối với mỗi
người Kitô hữu là: Bình tĩnh trước mọi biến cố, dù thuận lợi cũng như bất lợi,
vì cả hai đều có giá trị giúp chúng ta tiến sâu vào vinh quang vĩnh cửu của
Thiên Chúa, bởi Thánh Phaolô có nói rằng: "Mọi sự đều sinh ích cho kẻ có
lòng mến Chúa".
Và...trên hành trình chúng ta đi hằng ngày để đến với Chúa, Ngài
vẫn biến hình hằng ngày trong những người bệnh tật, nghèo đói, đau khổ, bơ vơ,
và ngay cả trong những người chúng ta đang tiếp xúc và cùng phục vụ. Nếu mang
con tim và cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra được hình ảnh của Ngài trong
con người họ để mà yêu thương.
Như thế là chúng ta đã biết nhìn và sống mùa chay trong sự sống
động của tình yêu, và trong sự tỏa sáng của Thập giá. Nhờ đó, cuộc đời của mỗi
chúng ta sẽ mang giá trị của sự sống, vì đã biết kết hiệp vào sự khổ nạn và sự
biến hình hằng ngày để nên tốt lành thánh thiện ngày mỗi hơn.
Vậy nên, mọi thực hành đạo đức trong mùa chay như "cầu
nguyện, khổ chế, hy sinh và bác ái" phải được thực hiện bởi tình yêu và
được nhìn bằng ánh mắt tình yêu. Tất cả chỉ vì lòng mến cho đi, chứ không mong
để phô trương tỏa sáng.
Hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, gẫm suy và đọc những
thao thức của Ngài để biết rằng không phải Ngài phổ biến vẻ huy hoàng sáng láng
của Ngài, mà chính là để minh chứng tình yêu vô biên. Ngài nhìn về cảnh khổ nạn
sắp tới như một chứng minh của tình yêu trong hạ mình khiêm tốn, trong hy sinh
từ bỏ, mà Ngài muốn gởi gắm lại cho tất cả chúng con. Không phải do đau khổ cứu
chuộc, nhưng chính tình yêu của Ngài đã cứu chuộc chúng ta.
Cùng nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn sức mạnh và trái tim của Chúa,
vì thực ra cuộc sống của mỗi người chúng ta là một mùa chay liên lỉ, bởi vì
chúng ta thường xuyên gặp cám dỗ, và phải luôn chiến đấu để sống theo tinh thần
Chúa Kitô. Ước gì Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta tránh chạy theo ảo tưởng,
thích phô trương, và thích lợi lộc cá nhân trong phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, con đường Ngài đã đi xưa, vẫn là con đường Ngài
đã chọn cho những ai thành tâm theo Ngài hôm nay, và Chúa Cha cũng đã rất đẹp
lòng: "Đây là Con Ta yêu dấu, các con hãy nghe Lời Ngài". Xin giúp
chúng con biết vâng nghe Lời Chúa, trong ánh sáng của Thần Khí, để tin rằng
trong cuộc khổ nạn của Ngài, cũng sẽ có cuộc khổ nạn của mỗi chúng con, cùng
kết hợp và trung thành đến cuối cuộc đời chúng con. Amen.