”Bẩm quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy
chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận hòa với chồng theo như
giáo lý trong đạo.”
Giáo hội suy tôn Chúa
là Vua vũ trụ và như trong bài kinh tiền tụng của thánh lễ hôm nay: Nước Chúa
Kitô khác hẳn với các vương quốc trần gian, là vì Ngài đã tự hiến thân làm lễ
vật tinh tuyền, và lễ vật giao hòa trên bàn thờ thập giá, để hoàn tất mầu nhiệm
cứu chuộc nhân loại, quy phục mọi loài dưới quyền bính, và dặt dưới uy quyền vô
hạn của Ngài một vương quốc bao la vĩnh cửu, vương quốc sự thật và sự sống
vương quốc thánh thiện và ơn sủng, vương quốc đầy công chính đầy yêu thương và
đầy an bình.
Quả thực vương quốc
Chúa Kitô phải là vương quốc đầy công chính, và đầy yêu thương. Nói kiểu khác
thần dân trong nước Chúa Ki tô phải luôn luôn nghĩ tới cuộc sống công chính và
yêu thương. Chỉ mến Chúa mà không có tinh thần yêu thương, công bình và bác ái
thì không phải mến Chúa, và chưa phải là con dân của nước Chúa. Cũng vì thế bài
tin mừng ta vừa nghe, trong ngày phán xét, Chúa đặc biệt lưu ý tới cuộc sống
bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta được công hay mắc tội là do ta có thi
hành bác ái hay không.
Thánh Anrê Dũng Lạc
(tử đạo ngày 21.12.1839, 44 tuổi) chẳng những đã nêu gương cho chúng ta về chí
khí anh hùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin, mà suốt cuộc đời ngài,
ngài còn là tấm gương sáng về cuộc sống khắc khổ, cuộc sống đầy bác ái, lo lắng
giúp đỡ những người cơ cực, nghèo túng. Như người ta thuật lại: thì khi được ai
cho của gì, ngài chia sẻ cho hết những người nghèo khó.
Khi cha Dũng Lạc bị
bắt lần thứ ba, giáo hữu cùng đức cha Retord Liêu tìm cách chuộc cha về, nhưng
lần này, cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình. Người nhắn về với đức cha câu chuyện
thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã dậy ở lại
Roma và cha xin các tín hữu đừng lo tiền bạc làm chi nữa.
Trần An Dũng Lạc sinh
năm 1795 trong một gia đình ngoại giáo tại thị trấn Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày
nay). Dưới triều Gia Long, Dũng theo cha mẹ đi lập nghiệp ở Bắc Thành (Hà Nội).
Vì nhà nghèo, Dũng được ủy thác cho một thầy giảng nuôi cho ăn học và rửa tội,
mang tên thánh Anrê. Ít lâu sau cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, nhận cha
Chính Langlois Lan làm nghĩa phụ. Ngay từ đó chủng sinh Dũng đã tỏ ra tư chất
thông minh với trí nhớ đặc biệt, lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và
lịch thiệp hòa nhã với mọi người. Người ta kể rằng: Thầy chỉ đọc một đoạn sách
hai lần là đã thuộc lòng đoạn đó.
Sau 10 năm làm thầy
giảng và ba năm học thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng thụ phong linh mục,
được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối (Hà Nam) giúp cha Khiết. Sau đó về giúp cha
Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Nguyên (Hà Đông). Cuối
cùng, khi cha làm chánh xử Kẻ Đầm (Hà Nam) thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh
mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày chay tịnh theo luật giáo hội,
cha còn giữ chay suốt mùa Chay, và nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thử bảy quanh
năm, bữa ăn của Cha như một dân quê nghèo. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ mục
tử, không khi nào thấy cha nề hà việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người
nghèo. Được của cải gì, cha chia sẻ cho họ hết.
Khi lệnh bách hại của
vua Minh Mạng trở lên gay gắt, cha phải ẩn náu trong nhà bổn đạo, sau trốn lên
Kẻ Roi (Hà Nam) lập giáo xứ ở đó.
Một hôm cha dâng Thánh
Lễ vừa xong, thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn giữa các tín
hữu. Lính bắt 30 giáo hữu hôm đó và cũng bắt Cha, coi Cha như một giáo hữu, vì
quan quân không biết cha là linh mục. Ông Tổng Thìn bỏ ra 6 nén bạc, nhận cha
là thân nhân đi dự lễ, để chuộc về. Sau vụ đó cha đổi tên Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt
khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng. Lý trưởng Pháp
bắt được hai linh mục nhưng vì giáo dân chỉ góp tiền đủ để tha cho một, viên lý
trưởng thả cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha
phải ghé vào bờ. Căn nhà cha định vào trú gặp ngay lúc một toán lính đến kiểm
tra. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha
Thị.
Quan huyện Bình Lục tỏ
ra rất vị nể hai linh mục và đối xử tử tế. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho
tuổi già sức yếu, nên ông cư xử nhẹ nhàng hơn. Ông nói: ”Tôi làm quan phần đời, còn các cụ làm quan bên đạo. Phép triều đình
cấm đạo và giết các cụ, chớ không phải tôi. Tôi không có lỗi gì trong việc này.”
Ba ngày sau, quan
huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển lên Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi
theo rất đông, người bằng thuyền, kẻ đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: ”Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương
tiếc quá vậy?” Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: ”Bẩm quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền
lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận hòa với chồng theo như giáo lý
trong đạo.” Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã
dừng lại an ủi và khuyên họ sống sao cho tốt đạo đẹp đời.
Ngày 16 tháng 10,
thuyền áp giải hai cha cập bến. Hôm sau quan án cho điệu hai cha ra công đường
và bảo đạp lên Thánh Giá. Cha Thi quỳ xuống nghiêm trang tôn kính. Sau nhiều
lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục được hai vị linh mục, liền
làm án tâu lên vua xin trảm quyết.
Thời gian chờ đợi ở
trong tù, hai cha đã chiếm được tình cảm của lính gác, họ trọng kính hai cha và
đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ
lại những món tối cần. Sáng tối hai cha quỳ bên nhau, cầu nguyện lâu giờ. Tuy
các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm
mình, bảo họ đừng mang thịt hay cá. Các ngài vẫn giữ chay các ngày thứ Hai, thứ
Tư, thứ Sáu, thứ Bảy, thừa sai Jeantet Khiêm viết thư vào đề nghị cha già Thi
giảm bớt hãm mình đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.
Lễ các Thánh năm 1839,
linh mục Trân đưa Mình Thánh Chúa vào ngục. Vừa thấy người, cha Dũng Lạc ra
chào đón: ”Kính chào bác, tôi đợi bác đã
lâu vì hết lương thực rồi.” Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình
Thánh Chúa cho cha già Thi. Ngày 21 tháng 12, lần thứ hai cha Trân đem Mình
Thánh Chúa đến, lần này cha Thi đã nằm liệt. Chính hôm đó là ngày cuối cùng
cuộc đời dương thế của hai cha, bản án vua châu phê đã về tới.
Quan quân dẫn hai cha
ra pháp trường Ô Cầu Giấy. Trên đường hai cha trầm tĩnh cầu nguyện. Lúc ra khỏi
cổng thành, cha lại chắp tay lại, hát lớn tiếng câu thánh vinh: ”Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa - Ngàn dân
ơi, hãy chúc tụng người…” (TV 116). Cha Thi không còn sức đi được nữa, một
người lính phải cõng cha. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với hai
cha: ”Chúng cháu không biết các cụ có tội
gì, chúng cháu chỉ làm theo lệnh trên, xin các cụ miễn chấp.” Cha Dũng Lạc
tươi cười trả lời: ”Quan đã truyền, anh
cứ thi hành.” Sau đó hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi
nghiêng đầu cho lý hình chém. Giáo hữu thấm máu tử đạo, thâu lượm các di vật,
rồi đưa thi hài hai đấng tử đạo về Kẻ sở, dâng Thánh lễ an tang rất trọng thể.