"Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo
dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin,
và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt." (ÐGH Gioan Phaolô
II).
Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu
tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được
tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa
tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập
chủng viện ở Macao, Trung Cộng. Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương
qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và
thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa
sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài
bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.
Thánh
Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật
xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội,
có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại
Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả
thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công
Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người tín
hữu Kitô Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó,
khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người
Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công
Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào
năm 1883.
Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam
Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Ðại Hàn
và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867.
Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ,
45 quý ông.
Trong những người tử đạo năm 1839 là
Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng
sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam
chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba
phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy
nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou, bị tra tấn dã man
đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến
chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối
đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn
cho đến chết.
Lời Bàn
Chúng ta bàng hoàng khi thấy sau khi được
thành lập, Giáo Hội Ðại Hàn hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một
chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể?
Ðiều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức
tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí
tích là dấu chỉ của sự hoạt động và đáp ứng của Thiên Chúa đối với đức tin sẵn
có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng chỉ khi nào sẵn có một điều
gì đó để được gia tăng.
Lời Trích
"Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được
thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật
vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt.
Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo.
Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở
huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy
vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ
tuyến" (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).