"Dạ bẩm quan,
tôi là người giảng dậy đạo, sao lại có thể bỏ đạo được? Vả nữa,
đây là chính đạo, vì chỉ dậy các điều tốt lành, chớ không phải là
tà đạo, như quan hiểu lầm đâu." (Thánh Phêrô Đoàn Công Quý)
"Bình an cho các
con": Lời chào này Chúa nhắc tới hai lần, cách nhau có mấy câu.
Theo tin mừng thánh Gioan (14,27;16,33) trong những lời thân mật và tha
thiết từ biệt các môn đệ, Chúa đã nhắc tới sự bình an. Chúa hứa
ban bình an, và nay Chúa đến ban thực sự.
Điều khiến ta ngạc
nhiên, là trong khi phần đông con người lo lắng hoặc tỏ vẻ uất ức
trước bản án tử hình họ phải gánh chịu, thì trải qua hai ngàn năm
lịch sử của Giáo Hội, những môn đệ Chúa, những người sẵn sàng đổ
máu hy sinh vì Chúa vẫn luôn tỏ thái độ bình tĩnh, biểu lộ một tâm
hồn đầy bình an, trước bản án đó.
Khi nghe tin mình sắp
bị chém đầu, thánh Phêrô Đoàn Công Quý (tử đạo ngày 31.7.1859, 33
tuổi) đã bình tĩnh sáng tác bài thơ sau đây gửi thân mẫu của mình
(Thân phụ của cha đã qua đời), những câu thơ nói lên sự bình an vui
mừng của một người sắp được chết vì Chúa.
"Dầu trăng trói, gông cùm tù rạc,
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề,
Niềm vui, lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử
Chí con dốc đền công ơn Chúa
Dạ con hằng báo nghĩa mẹ cha.
Xin mẫu từ chớ chút phiền hà,
Một cam chịu cho danh Cha cả sáng..."
Cha Đoàn công Quý sinh
năm 1826. Cha mẹ là người xứ Bắc di cư vào Nam từ năm 1820, sinh sống
tại họ đạo Búng, xã Hưng Thịnh, Thủ Dầu Một (Bình Dương)
Cậu Quý thường lui tới
gặp gỡ học hỏi Cha Tám, ở nhà thờ Búng. Rồi qua ít lâu, cậu xin
phép cha mẹ tới ở với Cha. Năm 1847, Cha Tám giới thiệu chàng trai 21
tuổi này với Cha Miche, để được học Lavăn, và tiếp tục theo đuổi ơn
gọi. Cậu Quý vào chủng viện thánh Giuse Thị Nghè do Cha Borel Hòa làm
giám Đốc. Năm 1848 Thầy Quý được gửi đi du học đại chủng viện của
hội Thừa Sai Paris ở Pénang (Mã Lai). Tại đây, thầy học triết lý và
thần học, ngoại ngữ.
Năm 1855, Thầy Quý hồi
hương, Đức Cha Ngãi trao cho Thầy nhiệm vụ chăm sóc, dạy giáo lý và
động viên giáo hữu tại các họ đạo. Tháng 9 năm 1858 Thầy Quý được
thụ phong Linh Mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục vụ
Lái Thiêu, Gia Định: Đức Giám Mục địa phận, bổ Cha Quý làm Phó xứ
Cái Mơn.
Cha Phêrô Quý được
truyển chọn vào cánh đồng truyền giáo trong giai đoạn đạo Chúa gặp
hoàn cảnh thật đen tối.
Nhưng lòng nhiệt thành
truyền giáo đã giúp cha Quý chịu đựng mọi gian khổ, mọi hiểm nguy.
Chỉ 3 tháng sau khi về Cái Mơn, quân lính bao vây dòng Mến Thánh Giá
để lùng bắt Giáo Sĩ, nhưng không có vị nào ở đó, nên lính bắt giam
một số nữ tu để tra tấn. Nghe tin các nữ tu bị bắt, Cha Quý muốn
nộp mạng để lính tha cho chị em, nhưng giáo dân can ngăn cha thực hiện
ý định. Từ đây cha cải trang làm thường dân đi thăm viếng, an ủi và
ban phát các bí tích cho giáo hữu.
Đức cha Ngãi bổ nhiệm
cha Quý về Giáo xứ Đầu Nước (Cù Lao Giêng) thuộc tỉnh Châu Đốc ngày
27 tháng 12 năm 1858. Chỉ 10 ngày sau (7.1.1859) quan Tổng Trấn được mật
báo có cố Tây ẩn tại nhà ông Lê Văn Phụng ở Đầu Nước. Nghe tin quan
sai 100 lính đến bủa vây làng, giáo hữu vội báo tin cho gia đình ông
Phụng. Lúc đó Cha Pernot Định cùng Cha Quý đang trọ tại nhà Ông Phụng
Được tin này cha Định
(Pernot) đã đề nghị với cha Quý cùng chạy trốn, nhưng cha Quý bình
tĩnh trả lời:
"Tôi là người bản quốc, chắc quan quân khó nhận ra. Cha cứ đi
trước, tôi ở lại thu dọn đồ lễ khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và
giáo xứ, rồi sẽ theo sau."
Thừa sai Định vừa đi
khỏi, thì quân lính ập vào nhà ông trùm Phụng. Cha Quý ẩn nấp dưới
sàn nhà. Quan ra lệnh cho ông Phụng phải nộp đạo trưởng như đã có
mật báo. Ông Phụng dõng dạc trả lời không có ai là đạo trưởng người
tây phương cả. Quan đe dọa nếu không tuân lệnh thì ông Phụng sẽ bị đánh đòn. Thấy lính sắp sửa đánh
đòn chủ nhà, cha Quý tự ra nhận mình là đạo trưởng. Quan không tin
,nói:
"Không phải mày, mày phải nộp cho tao Tây Dương Đạo Trưởng mới
được."
Cha Quý đáp:
"Không có đạo trưởng người Tây ở đây, tôi chính là đạo
trưởng, tôi hãnh diện làm việc giảng đạo cho đồng bào muốn nghe
tôi."
Quan thấy cha Quý còn
trẻ nên không tin, quay sang hỏi một em nhỏ 10 tuổi con nuôi ông trùm Phụng.
Em gan dạ không chịu khai báo gì. Quan quất cho em mấy roi, bắt phải
khai chỗ ẩn của đạo trưởng người Tây. Đứa nhỏ chỉ vào Cha Quý và
nói:
"Chính ông này là đạo trưởng"
Lính liền trói Cha
Quý, ông Phụng và 32 giáo hữu giải về Thị trấn Châu Đốc.
Tại phiên tòa Quan hỏi
Cha Quý:
"Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê
theo tà đạo, hãy nghe tôi mà bỏ đạo đi."
Cha Quý trả lời:
"Dạ bẩm quan, tôi là người giảng dậy đạo, sao lại có thể bỏ
đạo được? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dậy các điều tốt lành,
chớ không phải là tà đạo, như quan hiểu lầm đâu"
Quan ra lệnh tống giam
Cha Quý và Ông trùm Phụng. Sau đó dùng nhiều phương kế dụ dỗ, đọa
nạt, tra tấn, để cả hai thay đổi ý định, nhưng cả hai vẫn kiên trung
với Chúa Kitô. Sau cùng quan thảo bán ản trảm quyết, gửi về kinh.
Bảy tháng trong ngục,
Cha Quý động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện gẫm và đọc
kinh Mân Côi chung với họ. Trong số giáo hữu đến thăm Cha, có cả linh
mục cải trang vào giải tội, và cho hai chứng nhân rước Mình Thánh
Chúa.
Ngày 30 tháng 7 năm
1859, bản án trảm quyết cha Phêrô Quý được gởi tử Kinh Đô vào đến
Châu Đốc cùng với bản án xử giảo (xiết cổ) ông Trùm Emmuel Phụng.
Sáng hôm sau 31 tháng 7, linh mục Phêrô Đoàn công Quý và ông trùm Lê văn
Phụng được dẫn ra pháp trường Chà Và. Hai vị bước đi bình thản: Cha
Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi.
Hai vị thánh tử đạo
quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông trùm. Sau 3 tiếng
chiêng ngân vang, vị linh mục bị chém đầu, còn ông trùm bị siết cổ
bằng dây thừng.
Thi hài hai vị tử đạo
được an táng tại nhà thờ Năng Gù. Năm 1959 được cải táng về chủng
viện Cù Lao Giêng nhân dịp bách chu niên cuộc tử đạo.
Đề
tựa của Lm. HK