Lời Chúa cnps 4a _ thí mạng vì đoàn chiên

THÍ MẠNG VÌ ĐOÀN CHIÊN
Chúa Kitô đã hy sinh cả cuộc sống mình cho người khác, thì một số đông mục tử của Chúa, trải qua các thế hệ cũng đã noi gương Chúa, hy sinh mạng sống cho tha nhân, hy sinh cuộc đời cho Chúa.  
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Chúa Kitô chính là Chúa Chiên lành, chẳng những Ngài đã lo lắng cho đoàn chiên của Ngài là Giáo Hội, Ngài còn lo lắng cho từng con chiên của Ngài là mỗi người chúng ta, Ngài còn hy sinh  cả mạng sống Ngài cho đoàn chiên. Chúa Kitô đã hy sinh cả cuộc sống mình cho người khác, thì một số đông mục tử của Chúa, trải qua các thế hệ cũng đã noi gương Chúa, hy sinh mạng sống cho tha nhân, hy sinh cuộc đời cho Chúa. Ta kể ra gương sáng sau đây:
Đầu tháng 10.1798, nghĩa là hai tháng sau khi chiếu chỉ cấm đạo được ban hành, linh mục Gioan Đạt (tử đạo ngày 28.10.1789, 33 tuổi) bị bắt tại Thần Phù trong tỉnh Thanh Hóa. Một hôm, cha vừa dâng Thánh lễ an táng tại một tư gia xong, thì quân lính ập đến. Giáo hữu đưa cha ra sau nhà, chỉ lối cho cha chạy thoát. Nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ để chạy trốn, vì khi đó lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, và đang tra tấn chủ nhà, ông trùm Mới và một số tín hữu khác. Cha tự nguyện ra trình diện, nói với anh em giáo dân: “Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng làm thế anh chị em sẽ phải khổ nhiều"
Gioan Đạt sinh năm 1765 tại làng Khê Câu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đặt xin phép mẹ để hiến thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, cậu vào chủng viện, sau đó đi giúp xứ một thời gian. Tháng 4.1798 thầy Gioan thụ phong linh mục. Cha Gioan Đạt được phái đến hai giáo xứ Hảo Nho, Thần Phù. Vị tân linh mục hết sức lo lắng cho các tín hữu nên được mọi người quý mến. Cha chính Lan,  nhận xét về cha như sau: “Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức vâng phục và thanh bần. Cha luôn chu toàn bổn phận, nên Đức Cha là các linh mục đều yêu quý. Lời cha giảng có sức thuyết phục cảm hóa lòng người."
Mới thi hành chức vụ linh mục được 6 tháng thì cuộc bách hại đạo diễn tiến tại tỉnh Thanh Hóa một cách rất gắt gao. Quan Trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. Cha Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. Tuy nhiên, mỗi khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lẻn về các giáo xứ thi hành mục vụ.
Vừa bắt được Cha, lính trói cha lại, đánh đập tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và mấy quý chức giáo xứ. Các giáo hữu ở đấy, định cậy đông người muốn dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha cản họ: “Cứ để tôi vâng theo Thánh Ý Chúa, anh chị em ở lại bằng yên, kiên trung giữ đạo, và nhờ cầu nguyện cho tôi được vững đức tin đến cùng.” Trên đường áp giải cha về thị trấn Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cho đội, nhưng lính không cho.
Hai tháng tù tại Đình Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong hoàn cảnh lao tù mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho họ bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói: “Tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm.” Lương dân sống gần trại gam cũng mến thương cha. Một thiếu phụ tình ngay, đưa cha một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ nhục trong tù, Cha từ chối và nói cho bà biết: “Người công giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không được tự tử.” Cha còn cảm hóa được cả đám lính canh ngục. Mới đầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi phiên gác, họ lại bắt các tính hữu đút lót tiền bạc, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có thiện cảm và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi vào biếu cha. Cha nói với họ rằng: “Khi nào tôi được vinh phúc trên trời, tôi sẽ không quên anh em dưới thế.”
Ông Thiềng cai ngục, tỏ lòng quý mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa lắm, ngặt vì cụ bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để tỏ lòng tôi quý cụ.” Nhiều lần cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Hoàng đệ Nguyễn Quang Thùy, em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc đạp lên Thánh Giá, và dù đã áp dụng nhiều cực hình tra tấn dã man, nhưng ông vẫn thất bại. Có hôm hoàng đệ yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa bức ảnh “Phán xét chung”, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó, thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống, cầm lấy ảnh là hôn kính.
Trung tuần tháng 10, hoàng đệ gọi cha Đạt ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng khi nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ, cha lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam, cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin mừng sắp đến với cha. Quan thấy cha cứ vui vẻ hồ hởi trước các chết sắp đến, thì nói khen cha: “Thầy can đảm hơn đại tướng quân. Thầy thật xứng đáng làm thầy dậy dân.” Cha Huấn xứ Bạch Bác, giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội và đem Mình Thánh cho cha. Đêm trước ngày xử án, cha Đạt đến sặp quan án sát, cha nói: “Ngày lâm chung tôi đã đến, tôi cảm ơn quan đã có lòng thương tôi. Thiên Chúa đã để vua kết án xử tôi, thì tôi vui lòng, chẳng tích lòng thù ai, chỉ xin quan thương các bổn đạo, trong tỉnh này, để quan  được phúc đời này và đời sau.” Cha trở về ngục cầu nguyện, chỉ ngủ chừng nửa tiếng đồng hồ.
Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút, cha Đạt, cổ đeo gông nặng, lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã, tiến ra pháp trường chợ Rạ (Trịnh Hà). Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện. Được các quan cho phép, tín hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành lần cuối cùng.
Cha khuyên họ: “Là kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua tôn trọng những điều hợp pháp, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa.”
Chiêng trống đổ hồi, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị linh mục trẻ tuổi đầy nhiệt huyết và can trường. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu Cha. Thi hài đấng tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK