CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ PHỤC SINH – Năm B
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4;
Mc 16,1-8 (lễ vọng); Ga 20,1-9 (lễ ban ngày)
Mc 16,1-8 (lễ vọng); Ga 20,1-9 (lễ ban ngày)
MỤC LỤC
38.Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh
Nauy
39.Vọng Phục
Sinh catholic.org.tw
40.Niềm vui
phục sinh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
41.Ngôi mộ
trống JKN
54.Ánh sáng và bóng tối
ĐTGM Ngô Quang Kiệt
55. Ngài là tình thương và chân lý
ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
56. Chúa đã sống lại thật
Lm Giuse Đinh lập Liễm
57. Chúa đã sống lại thật rối
Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
58.Sự sống lại
là niềm hy vọng Lm.
Jos Tạ Duy Tuyền
59. Dự án "tự làm lấy"
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
60. Con người hơn loài vật
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
61.Sống lại với
Chúa Phục sinh Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
63. Phục sinh, thực tế hay huyền
thoại JM. Lam Thy ĐVD
64. Biến đổi Trầm
Thiên Thu
65. Xác nhận lòng tin
McCarthy
66. Tin Chúa phục sinh
Sưu tầm
67. Nhịp cầu dẫn vào cõi hồng phúc
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
68. Niềm hy vọng
Sưu tầm
69. Hy vọng Sưu
tầm
1. Phục
Sinh
Làm thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng
của việc Chúa sống lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa
Phục Sinh.
Thực vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta
sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết
hiệp với Ngài thì chúng ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ
hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức
Kitô không sống lại, thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả
là những kẻ dại dột nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền
tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm
tin ấy, thì mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng
ta hãy theo phụng vụ của Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.
Trước hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh
nói về việc Chúa sống lại. Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến
cố rõ ràng, nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những
người tin Chúa. Mặc dù Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mở
rằng Ngài sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống
lại. Thế nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa
đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói
rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không
tin. Nói đúng hơn là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ
Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã
rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu
chết. Người Do Thái có thể sắp đến bắt họ.
Kẻ thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc
Ngài sẽ sống lại. Họ nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng
có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh.
Nhưng Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những
kẻ tin cũng như không tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được
thấm thía tình Ngài yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp
sợ.
Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ
bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao
có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều
nhận được tin Thầy sống lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong
mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan
sát rõ ràng và tỉ mỉ: Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi
đến khi nhận được nhiều bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là
khi được Chúa hiện ra trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật
sự tin rằng Chúa đã sống lại.
Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời
Chúa báo trước, mà còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người
khác nhau. Đức tin ấy sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu
chết để làm chứng cho việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã
sống như thế nào và đã làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng
ta được chiếu toả cho những người chung quanh.
2. Niềm
tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp
cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ
có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con
số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu
số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì
tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa
học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ
những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới
đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta
cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc
sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì
không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến
cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống
rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch
thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những
chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến
Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn
liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết
thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời
Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ
cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống,
nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài
không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên
Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao
vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm
chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa.
Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế
nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố
và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu
đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như
chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
3. Ơn
Phục Sinh
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm
tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến
đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng
bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử
một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ
lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn
nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ
chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời
Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi
chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ,
bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng
bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều
mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn
nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và
trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ
bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế
cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và
sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ
phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã
nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm
cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ
điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân
chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng
của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản
bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước
nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan
vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi
mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong
cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã
từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta,
nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa,
ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
4. Đấng
Phục Sinh
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ
đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói
chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi
mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ
đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em
con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang
vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì
niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì
chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của
thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và
để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc
sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân
hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa
Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu
không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì
cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là
không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống
như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt
là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp
này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa
là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về
với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã
chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng
sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với
Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn
chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài:
Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với
họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải
như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ
của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã
ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin
nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người
đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm người lừa
bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng
cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối
kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi
và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên
kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể
kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả
giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm
tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao
nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong
Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ
đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ
bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ.
Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì
họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết.
Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước
qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch
cảnh.
5. Đức
Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái
độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa
xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu
đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi
vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã
không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy,
tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện
nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến
nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một
bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin
cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ
chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để
tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn,
bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã
chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong
muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng
tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong
đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá
rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và
tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như
thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa
Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ
nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên
con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau
khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người
ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn
cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự
kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo
lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được.
Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới
dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự
hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu
chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường
tình yêu của Chúa.
6. Suy niệm
của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê
thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an
ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ
tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề
khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ
đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm
hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn
táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã
khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài
thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng
lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh
tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã
được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên
mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm
vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi
yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem
Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời
đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài
muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào
hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các
Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có
những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì
lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học,
nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như
ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những
cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm
mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có
những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có
những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ
bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang
đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi
những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm
tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người,
bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất
chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong
chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng,
ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin
đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào
mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng
sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu
với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ
toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng
người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
7. Đón
nhận ơn Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria
Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin
tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu
trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở
nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên
đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm
hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn
gọn: "Ông đã thấy và ông đã tin". Nhờ đâu các ngài đã
thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa.
Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ
Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng
đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa.
Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi
nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng.
Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng
buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác
là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi
vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một
trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên
gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng
nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin
mừng thuật lại: Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ". Khi cúi
xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các
ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi
sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình
an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người
sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu.
Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ
nhìn vào "Ông thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào trong
mộ, Ông "thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này
không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan
lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ
bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ
khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh
Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta.
Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha
thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá
khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn,
biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục
sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người
mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy
tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới
hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: "Đức Chúa Giêsu sống lại, ta
hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn", bạn suy nghĩ gì? Bạn có
thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
8. Biến
đổi trở thành con người mới
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng,
theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định
thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của
Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là
vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình
trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với
hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng
người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho
tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc
Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình
không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý.
Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày
đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng
và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử
cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô
chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu
Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù
lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật
xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của
mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có
một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn
mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng
thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta
cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải
nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước,
đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống
Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không
phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống
trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt
qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát
chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta
và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô,
và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật
xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc
sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn
nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự
sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
9. Chúa Giêsu khai sinh kỷ
nguyên mới
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu
đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi
sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân
mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được
mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời
người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi
một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi
giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong
hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị
ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho
kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói,
người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và
hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn
đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u
sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng,
Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà
hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy
đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem
xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui
tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi
mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng
của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá
đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn
đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là
Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống
lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai
sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ
diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa
còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu
vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một
chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp
đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết
phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi
hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự
sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận
cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn
là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường
sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau
thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống
hồng phúc Ngài ban tặng.
10. Chúa đã
sống lại
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây,
tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng
ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ
và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục
như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin
cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ,
hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy
xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết
rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ
sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác
nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc
nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng
Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta
ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình
vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác
nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng
trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm
câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin
Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của
biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối
diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng
ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo
Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính
mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ
trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ.
Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta
khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc.
Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra
không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin
dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế
lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc
mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức
tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế
lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở
đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải
theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu
trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay
vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người.
Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những
biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải
mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến
nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt
nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không
nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông
đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp
lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông
biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm
tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín
hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên
trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con
trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
11. Đức
Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục
Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép.
Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã
sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống
lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn
thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí
có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm
quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi
mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để
chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn
vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi
mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra.
Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên;
“Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm
chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng
xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã
sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống
lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng
ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin.
Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật,
đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng
đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn
để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau
khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp
liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục
Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống
của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong
mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên
Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc
nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu
Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau
khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là
đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng.
Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm
cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ
sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau
làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu
hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan
quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa
trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi
người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta
không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa
Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng
ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều
khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng
được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa,
chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang
mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và
sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống
vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được
dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào,
nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta
cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng
ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự
bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như
Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với
Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo
xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta
mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa,
đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản
ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài
và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay
của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái
làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một
tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho
người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm
chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy
sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được
sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều
được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô,
thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng:
Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt
ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao
chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy
sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt
giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà
chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con
bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem:
chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng
những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của
con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất
hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và
làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã
chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết
sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
12. Chúa đã
sống lại! Alleluia – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu
truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở
Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và
các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng.
Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần
mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một
ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức
một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày
kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn
trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay
chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu
chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết
trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự
thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo
cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì
có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông
Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa
nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế
giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm
trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ
thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những
ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn
nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ
ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống
mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ
điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính
hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của
Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như
ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh
chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi
trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp
Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất,
ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô
không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con
người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng.
Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm
cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của
người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại,
Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của
chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi:
“Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ
đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực
tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể
hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo
huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã
sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự
nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi
bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em
thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều
không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui
lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố
gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng
nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy
vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng
cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta,
chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy
mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như
Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm
nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong
cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết.
Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
13. Chúa đã
Phục Sinh – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu đã sống lại. Ngài vẫn còn đang sống. Đó là niềm tin
của các tông đồ. Đây cũng là niềm tin của tất cả Hội Thánh, của mọi Kitô hữu.
Đức Giêsu đã sống lại, biến cố này làm chấn động tất cả, đặc biệt các tông đồ
là những người liên hệ cụ thể với Đức Giêsu.
I. Các tông đồ trước cái chết ô nhục của Đức Giêsu
Biến cố Đức Giêsu bị bắt và bị giết diễn ra quá nhanh, chỉ từ
đêm thứ năm đến trưa thứ sáu, làm các tông đồ và các môn đệ bàng hoàng sửng
sốt. Đức Giêsu bị giết, kéo theo tất cả các mơ ước của các tông đồ. Từ mơ ước
“ngồi bên tả ngồi bên hữu” đến hoài bão xây dựng một nước Israel mới. Cái chết
của Đức Giêsu đánh đổ mọi hy vọng của các tông đồ.
Bây giờ Kitô hữu biết Đức Giêsu như các tông đồ biết Đức Giêsu
sau khi Ngài đã sống lại; tuy nhiên, khi Đức Giêsu còn đang sống tại thế với
họ, thì các tông đồ chưa biết rõ Đức Giêsu như sau khi Ngài phục sinh. Trước
khi Đức Giêsu chết và sống lại, các tông đồ cũng như đa số dân Do Thái, tin Đức
Giêsu là một tiên tri, và hơn nữa, là Đấng Kitô Thiên Chúa sai tới để giải
phóng dân. Đa số người Do Thái thời đó đang mong chờ Đấng Thiên Sai giải phóng
họ khỏi cảnh đô hộ của người Roma. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai (Đấng được xức dầu,
Đấng Kitô) giải phóng họ, như trong quá khứ cha ông họ đã chờ đợi, cầu xin, và
Thiên Chúa đã ban cho họ Môsê và các thẩm phán, để giải phóng họ khỏi cảnh áp
bức.
Đức Giêsu chết, và một cái chết trần trụi ô nhục, làm các tông
đồ vỡ mộng. Các tông đồ không chỉ vỡ mộng, mà còn bị khủng hoảng vì tại sao
Thầy Giêsu của họ, một người tốt, một người làm nhiều dấu lạ, mà bây giờ Thiên
Chúa lại bỏ Ngài, để Ngài phải chết ô nhục như vậy! Lúc Đức Giêsu còn đang sống
với các tông đồ, các Ngài chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, và Đức Giêsu là
Thiên Chúa Con như các Kitô hữu bây giờ. Các tông đồ buồn sầu, thất vọng, và bị
khủng hoảng cả về niềm tin vào Thiên Chúa nữa.
II. Các tông đồ trước sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh
Tin Đức Giêsu đã sống lại, do các chị phụ nữ mang lại, làm các
tông đồ xao xuyến. Chuyện như mơ. Điều các chị phụ nữ nói làm sao tin được? Họ
là phụ nữ mà. Gioan và Phêrô chạy tới mộ. Mồ trống. Cái gì đã xảy ra? Tin mừng
Gioan nói: “ông thấy và ông tin” (Ga.20, 8). Gioan tin cái gì? Gioan không nói
rõ về điều này. Chỉ biết rằng theo tin mừng Máccô: “Sau cùng, Người đã tỏ mình
ra cho chính nhóm mười một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông
không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy
Người sau khi Người trổi dậy” (Mc.16, 14).
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Đức Giêsu sống lại
cho dù các chị phụ nữ và các tông đồ khác đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho
ông (Ga.20, 24-29), mà tất cả các tông đồ đều không tin Chúa phục sinh, kể cả
hai môn đệ đã chán nản bỏ cuộc và đang trên đường về quê (Mc.16, 12-13). Biến
cố Đức Giêsu phục sinh là biến cố rất khó tin, kể cả đối với các tông đồ, vì
chẳng có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh nếu đã không được Đức Giêsu phục
sinh hiện ra cho họ. Họ chỉ tin Đức Giêsu phục sinh khi họ thấy Ngài.
Trong các tin mừng có nói Đức Giêsu đã loan báo ba lần Ngài sẽ
chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 30-32; 10, 32-34), nhưng các tông đồ đã quên
điều này khi Ngài bị giết. Tại sao họ quên? Có thể vì chuyện đó không thể tin
được nên các tông đồ đã quên. Chỉ sau khi sự thực xảy ra, nghĩa là, chỉ sau khi
Đức Giêsu phục sinh, mới làm các tông đồ nhớ lại các lời đó thôi. Biến cố Đức
Giêsu phục sinh, là biến cố không thể tin nếu không được tận mắt thấy Ngài (như
các chị phụ nữ và các tông đồ), và nếu có ai tin thì đó là một ơn vô cùng lớn:
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga. 20, 29).
III. Con người trước tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh
Một số người thời các tông đồ đã cho rằng, các tông đồ trộm xác
Đức Giêsu và loan tin Ngài sống lại (Mt.28, 11-15). Thế nhưng, các tông đồ đã
làm chuyện đó để làm gì? Tại sao tất cả các tông đồ (trừ Gioan) đã đem chính
mạng sống họ để làm chứng rằng Đức Giêsu đã phục sinh? Tại sao họ lại phải vất
vả, gian khổ, và phải chết vì chuyện đó (nếu đó là gian dối thực!)?
Một số người thời đại cho rằng các tông đồ đã bị hoang tưởng tập
thể. Họ đã mong Đức Giêsu sống lại, nên cứ tưởng rằng Đức Giêsu sống lại thật.
Tuy nhiên, như các tin mừng làm chứng, các tông đồ đâu có dễ tin Đức Giêsu sống
lại. Chẳng có ai tin Đức Giêsu sống lại, nếu không phải chính họ đã thấy Ngài.
Trường hợp tông đồ Thomas giúp Kitô hữu thấy điều này rõ ràng hơn. Sự cứng lòng
của Thomas lại là một lý chứng giúp các Kitô hữu vững tin vào sự kiện Đức Giêsu
phục sinh.
Một số khác cho rằng, Đức Giêsu có phục sinh hay không, cũng
không quan trọng. Điều quan trọng là tin mừng Phục Sinh gợi cho người ta một ý
nghĩa nào đó. Đức Giêsu Phục Sinh là một biểu tượng của một đời sống mới, của
sự chiến thắng. Thánh Phaolô cũng phải đương đầu với lối giải thích này, và ngài
nói: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, … thì đức tin của anh em thật hão huyền,
và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…. Và nếu chúng ta đặt hy vọng
vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn
hết mọi người” (1Cor.15, 12-19).
Kitô hữu là người tin Đức Giêsu sống lại thật sự, tuy dù sự sống
lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại của Ladarô (Ga.11, 1-44), của em bé
(Mc.5, 21-43) được Đức Giêsu cho sống lại. Thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã
được biến đổi, vật chất không còn giới hạn được Ngài nữa. Thánh Phaolô gọi thân
xác phục sinh là thân xác thần khí. Đức Giêsu phục sinh, là biến cố vô cùng
quan trọng, và giúp con người hiểu hơn về Đức Giêsu, hiểu hơn về Thiên Chúa, và
hiểu hơn về chính con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin Đức Giêsu đã phục sinh không? Tại sao bạn tin Ngài
phục sinh?
2. Tin Đức Giêsu phục sinh, bạn được lợi ích gì?
14. Ngôi mộ
là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp
người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên
vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi
và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp
người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
(Nguyễn Du)
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là
điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa
hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống
lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ
dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao
người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên
quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục
sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời
sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người
vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành
ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu
như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi:
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống.
Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Ga 11, 25)
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ
giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy
cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó
chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta
hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm
linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc,
là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh
quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc
đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm
hồn.
15. Ngày thứ
nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và
thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’,
từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn
ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông
Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây
băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện
chưa bao giờ xảy ra. Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và
việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước
Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát
của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian.
Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống
lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan
bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ
Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống
không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một
sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại,
người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời
(Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là
Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt
về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối
thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu
Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của
I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là của kẻ sống." (Mt 22,32)
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể
hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp
bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự sống là cần
có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả
mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: "Nước phải
sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt
đất, dưới vòm trời." (Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và
thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên
ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc
nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó
chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong rêu bé tí
cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng
nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế,
từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khủng long vĩ đại, đều có sự
sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều
có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ,
ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có
xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo
dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra
con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật
(Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết
chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong
trứng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của
Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay
con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống.
Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt
sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa
rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh
em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy
từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều
được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua
đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: "Chính
Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ
được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như
cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng
sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống
của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể
chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì
là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi
trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha,
con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc
23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống
bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài
đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên
thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận
lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể
chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ
ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải
để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga
3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh
sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa
dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyết. Chúng
ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất
cả đều đang sống." (Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh
động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa
hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, "Cho
đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc." (Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những
kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự
sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất
thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về
hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới làm cho
sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là
sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa
Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều
phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ
được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
16. Bài giảng
lễ Vọng Phục Sinh
(Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Năng – Lm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
ghi)
Anh chị em thân mến!
Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời
gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng
ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh
này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng.
Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái
và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả
loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự
nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy.
Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên
không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16,
1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm
ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì
chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác
Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi
các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu
Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là
các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại,
Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa
đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến
Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run
lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với
ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy.
Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không
phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây,
con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì
nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao
biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con
người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng
lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của
sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi
sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân
loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của
Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật
bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay,
dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay,
chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong
cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái
cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất
mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa
Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ,
tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu
nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và
Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa
ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên
mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên,
tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà
thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho
người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa
nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất
vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự
chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho
chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng.
Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng
Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế
giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh,
trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong
một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn
ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang
sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã
hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại.
Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy
thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta
cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía
trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm
thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất
vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển
Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự
can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã
chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do
Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta
đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới
đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy
để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không
phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh
của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng
ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi.
Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta
nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối
này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là
tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên
để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em
hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng
của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc,
những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa,
luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh,
là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm
cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng
của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin
tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho
chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia
của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su
đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu
thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với
Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi
đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ
Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của
Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên
Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế
giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã
thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin
Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác,
nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!
Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành
sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta
theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong
cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của
thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa
Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận
niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi,
chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!
Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới
tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời
của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với
tất cả mọi người chúng ta. Amen.
17. Niềm
hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật
Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng
đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu
hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình
trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc
số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối
thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120
người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương
tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người
nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là
sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và
thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được
ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản,
đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự
tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi
trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại
hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông
dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo
sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng
môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa
đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông
lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác
Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây,
hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn
nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một
cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông
đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng
các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ
vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai,
và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ
bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng?
Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy
sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô
là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu
Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra
một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca
tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi
ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến,
ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều
Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa
Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và
khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không
có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông
đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua
ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của
Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin:
thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp
trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con
Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ
nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh
đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng
chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ,
ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó
hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để
cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được
các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ.
Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được
niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù
bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu
thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống
hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc…
Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục
sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới,
một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân
loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân
loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có
khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát
vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao
nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn
lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu
cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như
nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong
cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có
còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi
nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là
những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng
hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công,
những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là
điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn
chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng
của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa
Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô
ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên
Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc
đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ,
là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang
sống trong sự thất vọng.
18. Niềm
tin
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn
phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả
cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người
thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu.
Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến
việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết
treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm
tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó
là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa
Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành
mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn,
Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng
hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát
sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng,
nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt
trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các
môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài
sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý
mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài
chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho
mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những
thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài.
Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài
phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên
xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất
vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo
và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không
sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ
trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới
sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan
trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với
tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối
với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và
chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở
thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa
quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại
chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc
chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn
đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo
đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng
như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín
hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên
xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài
đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ
sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong
cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích,
trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.
19. Niềm
hy vọng sống lại
Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng vui. Tiếng Alleluia
không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại
điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù? Phải chăng
vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ trong kẻ chết? Tất cả
những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy
nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn ngôi mộ rỗng của
Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau: Thiên Chúa đã
cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta
được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ
cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi
đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết án như sau: Đạo
Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta đến không đem
sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải chăng Ngài
đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí mà thôi chưa
đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ tư tưởng,
lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất chính, dù
chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại là ngày
giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt,
nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh
lễ…Cho dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng
nữa, thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm
khắc, đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh
đời sống cho Đức Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng
ta một tin mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được,
đó là: nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa
là một ngày kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội
lỗi.
Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được chính Chúa Giêsu
truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của nó. Thực
vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng
Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ
làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ
ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống
lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.
Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã phán với
Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có
sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào sự sống lại
dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy khi sống
lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy giờ,
không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như thiên
thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Ngài để tìm
thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo
đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ:
Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô phục sinh, một tảng
đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những người thân yêu. Tảng
đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ chính là trạm chót, để
rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ
cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế
nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài
đa giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái
chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã
phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ
có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên
một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô
sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng
phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên bia mộ chúng
ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bóng tối và trong tuyệt vọng. Nhưng từ khi Đức
Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy là nơi an nghỉ
trong tin yêu và hy vọng.
Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy được rằng: sự
sống lại là một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và
xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào.
Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn vẹn của con
người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị cái chết tạm
thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với sự công bằng
của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những hành vi thánh
thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân xác đã tham dự
vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác.
Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải
có những phần thưởng dành cho thân xác.
Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chết và chúng ta
chết là để được sống đời đời.
20. Ra khỏi
mồ
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm
rồi, và ngày nay có lẽ chúng ta cũng không thể cảm nhận được nỗi niềm vui sướng
và hy vọng của các tông đồ ngày xưa khi nghe tin Chúa Giêsu sống lại. Tuy vậy,
trong ít phút ngắn ngủi này, chúng ta thử làm sống lại một chút những tâm tình
của các tông đồ trong ngày Chúa Phục Sinh, để thấy được sự kiện Phục Sinh của
Chúa Giêsu đã đem lại ý nghĩa nào cho cuộc đời của các ông. Từ đó, chúng ta
cũng hãy để cho Chúa Phục sinh tác động làm cho cuộc sống của chúng ta có một ý
nghĩa. Hòa chung niềm hy vọng với dân tộc mình, các tông đồ cũng chờ mong một vị
Cứu Tinh để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh nô lệ ngoại bang. Trong niềm hy
vọng ấy, Đức Giêsu đã xuất hiện như một con người có thể đáp lại những khát
vọng mãnh liệt của các ông. Chính vì thế mà các ông đã bỏ mọi sự để theo Người,
tin tưởng hoàn toàn nơi Người, phó thác trọn cuộc đời cho Người và chấp nhận
mọi đòi hỏi của Người. Thế nhưng, đáng buồn thay cho các ông biết bao, khi mà
vào một buổi tối ngày thứ 5, thần tượng Giêsu của các ông đã bị bắt, bị tra
tấn, bị đánh đòn, bị lăng mạ và cuốci cùng bị kết án tử hình, một cái chết đớn
đau và tủi nhục trên thập giá. Điều đó làm các ông thất vọng biết là dường nào.
Thế là hết. Thầy Giêsu đã chết, đã được chôn trong mồ đá. Điều đó có nghĩa là
những niềm hy vọng, những hoài bão, những tin tưởng của các ông cũng chết theo
và cuộc đời của các ông cũng bị chôn vùi trong những nấm mồ của tuyệt vọng và
sợ hãi. Hiểu ván đề như thế chúng ta mới hiệu được rằng: khi các phụ nữ báo tin
cho ông Phêrô và ông Gioan về việc Chúa sống lại thì quả thật đó là một nguồn
tin gân chấn động rất mạnh cho các ông. Thầy Giêsu đã sống lại cũng có nghĩa là
những ước mơ, những hy vọng của các ông cũng được sống lại. Chính vì vậy mà cả
ông Phêrô và ông Gioan đã vội vã chạy ra mộ Chúa Giêsu như để kiểm nghiệm nguồn
tin mà các phụ nữ vừa loan báo. Khi tới mồ, các ông thấy mồ trống, chỉ còn lại
khăn liệm và khăn phủ đầu Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã viết về chính mình: “Ông
thấy và ông tin”. Rồi những ngày sau đó Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ
nhiều lần như để củng cố niềm tin chắc chắn rằng: Thầy Giêsu của mình đã sông
lại thật thì niềm tin ấy đã tạo nên một biến đổi triệt để nơi các ông.
- Trước đây các ông sợ hãi chạy trốn các nhà cầm quyền đạo đời,
thì nay các ông hiên ngang ra vào công đường để rao giảng về Đức Kitô Phục
Sinh. Các ông can đảm chấp nhận bắt bớ, chấp nhận đòn vọt và bao nhiêu thử
thách khác để làm chứng rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh.
- Trước đây các ông là những người nhỏ nhen, ham danh ham lợi,
ghen tị với nhau về chỗ ngồi trên dưới, thì nay các ông quên bản thân mình để chỉ
sống và chết cho Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng sống và chết cho anh chị em
mình.
Thế hệ của chúng ta hôm nay không được diễm phúc để thấy Chúa
Phục Sinh như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta tin lời rao giảng của các Ngài vì
các Ngài là những chứng nhân trung thực bởi các Ngài đã dám hy sinh mạng sống
để làm chứng cho sự thật ấy. Tuy nhiên, tin vào sự Phục Sinh không phải chỉ là
chấp nhận trong trí khôn một chân lý, một sự kiện đã xảy ra trong lịch sử,
nhưng còn là để cho Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc đời mình, là để Người đưa mình
ra khỏi những nấm mồ ích kỷ, hận thù, gian tham, lọc lừa, kiêu căng, tự mãn,
ham mê sắc dục… Bao lâu chúng ta còn cố tình sống trong những nấm mồ ấy thì bấy
lâu chúng ta chưa thật sự tin vào Chúa Phục Sinh. Và nếu thế thì lời tuyên xưng
của chúng ta về việc Chúa Phục Sinh chỉ là những lời đâu môi chót lưỡi và chẳng
đem lại lợi ích nào cho đời sống của chúng ta.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay
trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám
chết cho Chúa và cho nhau.
21. Ngôi mộ
trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó
là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên
cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu
có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu
có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin
được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một
hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu
nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng
làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của
Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở
lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và
khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn
trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn
tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh
quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có
loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài
trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác
Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã
lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông
thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã
biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và
đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ
trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì
Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm
tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng
caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải
chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời
mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị
mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự
sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái
thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh
phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái
chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ
tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi,
phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống
ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng
ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một
chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội
lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến
gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu
của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con
người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những
đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn
quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người
mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã
làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và
là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của
nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của
con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã
bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống
lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì
Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài
xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan
cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi
và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương
lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào,
không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng
của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn
hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa
Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và
sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau
khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi
lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là
tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát
sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến
thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền,
không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự
sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên
kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm
hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta
trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì
tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương
trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục
Sinh.
22. Tin mừng
Phục Sinh – Noel Quesson.
“Alleluia! Alleluia!”
Một thời ở miền Nam này người ta đã xôn xao bàn tán về chuyện
một người lính. Sau một trận đánh lớn, gia đình được giấy báo anh đã chết mất
xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này với tâm trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một
tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục. Ba tháng sau người lính đột ngột trở
về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã được anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay
anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước Tin Mừng
Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe những
lời hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa, nhưng
Chúa đã chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết của
Chúa, và đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa đưa thuốc
thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa đi vừa
lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cửa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới nơi,
các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc áo
trắng ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sự việc xảy ra
mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng, và màu trắng
là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua. Không còn mờ tối,
không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa trên núi Tabo xưa.
Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật trên trời. Đó
cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh quang Phục Sinh
của Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra mình đang đối diện
Thiên Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm vui lớn quá cũng
làm người ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu Nagiaret,
người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Các bà
hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã ra khỏi
mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho tới nay
vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục Sinh đã
tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa nói chuyện
với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhận ra Chúa cần phải có tâm
hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính ân sủng trước
khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó. Chúng ta
đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của Chúa. Tin
Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn sàng
đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang thành tâm tìm
kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
23. Ánh sáng và bóng tối
– ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và
ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng
trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn
thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô
Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là
sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô
đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái
chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta
còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về
bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những
vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn
mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý
trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những
tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta
không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta
không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần
chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng
suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét
sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh
sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên
mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ
và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp
chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng
của Chúa.
24. Tin Mừng
Phục Sinh (Mc 16,1-7) – Thiên Phúc.
(Trích trong “Như Thầy đã yêu”)
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời
đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai
đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do
nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng
con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù
che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ,
đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì
trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay,
sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới
hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một
chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho chúng
ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là ba
phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được
Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên
trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để
vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn
giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra
một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo
Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại
Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng
lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa.
Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu
thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng lời mà
bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh,
thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở về
là có đôi mới.
Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng
được sống lại với Người.
Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì
cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang
Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là
chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng
cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục
Sinh của Chúa. Amen.
25. Mặt
trời hé mọc.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu
bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của
ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức
Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm
như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần
đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng
đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang
nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm
không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba
đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm
tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở ngại... Nhưng lạ
thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy
cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã
chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy,
làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang
sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn...
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta
yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi
đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất
mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi
điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín.
Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng
Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn
thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi
xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa
sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con
luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái
lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới
lại đời con.
26. Ông đã
thấy và đã tin.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng
để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham
dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả
người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người
ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm
lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước
chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che
đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng
cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa
của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn
gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt
hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ
như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến
thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn
được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ
gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh
vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng
cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ
thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ
giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ
hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là
cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút
mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận
ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và
với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
27. Người
đã trỗi dậy rồi.
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện
Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy
ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với
chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không
cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh
mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ
đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì
ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra
ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các
phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục
sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc
thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo
trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện
ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Đức
Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ
nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương.
Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng
để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh.
Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ...
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới.
Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.
Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ.
Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không
tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời
chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại
tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng
bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên
cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào
lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên
chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên
dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng
con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và
khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa
sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
28. Chúa đã
sống lại (Ga 20, 1-9).
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – của Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây,
tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng
ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ
và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục
như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin
cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai
ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác
Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng
Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà
Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi
người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông
tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa
Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta
ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình
vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác
nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng
trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm
câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô,
đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết
bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện
với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng
ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo
Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính
mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ
trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ.
Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta
khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc.
Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra
không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin
dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế
lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc
mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức
tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế
lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở
đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải
theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu
trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay
vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người.
Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những
biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải
mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến
nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt
nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không
nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông
đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp
lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông
biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm
tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín
hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên
trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con
trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
29. Tình yêu dẫn
đến đức tin (Ga 20,1-9).
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ của Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng
ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận
thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn
liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã
viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi
Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh
xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy,
ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục
người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa
cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì
ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách
liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy
băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó
đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa
hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn
thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào
ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp
xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn
trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên
trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài
khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng
liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại.
Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong
để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ
nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm
xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức
thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của
mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã
chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối
xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện
mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó
sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa
chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra.
Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao
thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa
Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết
rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có
đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ
Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu
mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của
Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là
tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở
về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi
yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy
trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn
nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy
đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông
đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức
tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không
vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ
có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào
Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta
có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của
mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí
mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
30. Phục
Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại
vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang
thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới
ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như
đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi
mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi
dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu
lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta
mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có
nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc
đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi
chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa
cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào
Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng,
mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các
ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm
dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ,
như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và
làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và
biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn
thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục
sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục
sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các
ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy
vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm
vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi
lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực
hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã
bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở
lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của
chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực
mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô
Phục sinh đem lại cho chúng ta.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và
ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối
tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự
ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô
Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục sinh là
sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức Kitô
đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái
chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta
còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về
bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực
sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ
miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến
ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày
trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không
lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy
niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết
dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn
dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét
sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh
sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên
mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ
và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp
chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng
của Chúa.
32. Niềm
hy vọng sống lại.
Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại
như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?
Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy ra cho
những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo kích thân
xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm mồi cho cá
mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.
Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối với quyền
năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi nó một khi
đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay là tạo
thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng vũ
trụ lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi
giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại
được, họ sẽ lấy thân xác nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô
lý, nếu chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban
sự sống ấy lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xác đã
chết và bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.
Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, tất cả
đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa?
Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của uy quyền.
Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức chàng
trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô, cũng đang
nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức, cháu bé ấy
cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được chôn táng
trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô cũng đã
chỗi dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ vang lên
một lần nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.
Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được rằng Thiên
Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng rỡ. Sau
mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm non
vươn lên.
Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để hoàn tất
chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc và buồn
phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy giờ chúng
ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta những hậu
quả nào?
Hậu quả thứ nhất, đó là một lời báo động: Hãy chuẩn bị cho ngày
ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất của lịch sử nhân loại. Cũng như ngày
đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Thì trong ngày
cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có bóng tối và chấm dứt mọi sự. Lập tức đã
xảy ra như thế. Rồi những người đã chết sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng triệu
triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay từ lòng đất ở một nơi xa xôi nào đó,
cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã bị quên lãng, không một ai biết đến;
những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc sống; những người trung thành với
Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự đến
trong vinh quang.
Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta sẽ được
sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc đời vĩnh
cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng và không
một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ không
thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn bị
cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp, vì
đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.
Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh cho
chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu
anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời.
Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh để đứng vững, để trung thành
cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi, thì chắc chắn ngày huy hoàng
ấy sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước đi trong đêm tối, thì chắc
chắn bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng bao giờ chúng ta thất
vọng, đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta không thể nào gặt hái khi
những bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.
Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm an ủi
cho chúng ta. Thực vậy, người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở Pérou,
mỗi khi có nhật thực, mặt trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội vã
giật tóc và nức nở khóc lóc một cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn
mặt trời nữa.
Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta biết
rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng ta có thể buồn
và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của chúng ta sẽ
chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi vì chúng
ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên, đâm bông và
kết trái.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì Ngài cũng
sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt trời
lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu thì lá
vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm chồi
nẩy lộc và trở nên xanh tươi.
Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác chúng ta
sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống lại như
lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết
cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được sống đời đời.
Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải bước qua.
Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã hiên ngang
bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tăm ấy một luồng ánh
sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá chiến
thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai
cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh
hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác
động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống
xấu nhất: “Người ta đẽ đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp
thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông
nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông
cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ.
Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông
thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông
niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự
vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những
điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghã, “Tín hữu” là người tin. Vì
thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức
tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc
quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra
xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự
do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi,
sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu
sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã
kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi
sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên
mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức
tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên
tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
34. Niềm
vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn
phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào
cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên
Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không
biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy
của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng
cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào
ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh
dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người
cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông
già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của
ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt
đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày,
ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi
cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư
đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho
con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
12 ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư
thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết!
Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh
đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan
cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy
chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã
được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá
thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép
từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được
trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui
mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những
sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết.
Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống
trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng
sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại
với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn
bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên
Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng
ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với
cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng
cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều
này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ
sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối
sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng
bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc
tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới
bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi
buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của
Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
35. Chiến
thắng.
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại nơi sự
sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái chết
của Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi Thiên
Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt
trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi
Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”,
nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu
cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta
sẽ được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật dậy
trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế ngự
sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở thành
một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến thắng
của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu và
chiến thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng
được hưởng lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền
lực của cái chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống lại –
Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng của
lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được
sống lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh
bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên có ý
thức về tính hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi
hướng đến cái chết. Cái chết tạo ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của
chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua
một tấm kính tối tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng
không khí trong lành của sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn, nhưng
chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến thắng
đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của niềm hy
vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của người
Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào các
sự kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái chết, đến
với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của sự
trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng
ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như
ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng ta ra, để
chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt lên trên
sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta
hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật xa, trong
cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng và hy vọng
hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
36. Sống
lại.
Trong Tin Mừng sáng Chúa nhật Phục Sinh hôm nay, thánh Gioan kể
cho ta câu chuyện ba người đi tìm Chúa: Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Khi đọc
đoạn Phúc Am đó chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, tất cả ba
người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện “mồ trống và khăn liệm để qua một
bên”, nhưng chỉ có một mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan
viết về chính mình rằng: “Tôi thấy và tôi tin”.
Để hiểu rõ sự kiện chúng ta hãy trở lại chiều thứ Sáu, sau khi
Chúa Giêsu chịu chết, Phúc Am ghi lại rằng, chiều Thứ Sáu hôm đó người Do thái
đến xin Philatô cho hạ xác những người bị đóng đinh xuống, vì họ không muốn
thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày Thứ bảy là ngày nghỉ lễ, gọi là
ngày Sabat. Hơn nữa, ngày Sabat đó lại là ngày Sabat trong mùa lễ Vượt qua của
họ. Phép tắc thủ tục xong, xác Chúa Giêsu được hạ xuống thì đã chiều tà, và
theo phong tục của người Do thái, họ tính ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn,
khi mỗi người với mắt thường nhìn thấy được ít nhất vì sao lấp lánh trên bầu
trời. Vì thế Đức Mẹ cùng với bà Maria Madalena và các môn đệ phải hối hả lo
chôn xác Chúa Giêsu cho xong để về nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ
lỗi luật tôn giáo, vì ngày Sabat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà
thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết qua về cách liệm xác của người
Do thái; cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại trong tấm
vải trắng, xong lấy băng vải quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết
thương, xong xuôi đâu đấy thì đem đặt xác vào hang đục sẵn trong đá và lấy tảng
đá lớn đậy cửa hang lại. Vì hối hả cho nên Maria Madalena về nhà nhận thấy mình
không cẩn thận đủ với Thầy kính yêu của mình, nên bà nán lòng chờ đến ngày Thứ
Bảy là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức là Ngày Chúa nhật, bà đem thuốc
thơm đến mồ để ướp lại xác Chúa. Nhưng đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được
đẩy ra mà không thấy xác Chúa Giêsu còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho
Phêrô và Gioan, vì Gioan còn trẻ nên chạy nhanh hơn do đó mà đến mồ trước.
Gioan chỉ đứng ngoài chờ Phêrô tới, cả hai cùng vào một lượt, họ nhìn thấy vải
liệm và khăn che mặt để gọn vào một chỗ, nên Gioan thú thật trong lòng là ông
tin Chúa đã sống lại.
Phân tích tâm lý của ba nhân vật chúng ta sẽ thấy tại sao đối
với Maria Madalena, bà đến mồ chỉ mong ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm
thuốc thơm nơi tay mà đầu óc bà chỉ nghĩ đến một thi thể đã nằm yên bất động,
nói tắt một lời là bà đến mồ để tìm xác chết. Trong một tâm trạng như thế, khi
thấy ngôi mộ trống không, bà khó có thể nhận ra việc Chúa Giêsu sống lại thật.
Còn Phêrô, ông sợ hãi, ông đã chối Thầy mình trong giờ phút bị
hành hạ nhục nhã và ông sợ sệt bị liên lụy vì Thầy đã chết, đã chôn yên trong
mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được
hai chữ “bình an”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này? Ông chạy đến mồ
với tất cả mọi lo âu trong đầu, ông đang lo có lẽ đứa nào đó sau khi giết Thầy
lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ, để xử tử họ nữa chăng. Ông là
trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra, trong lòng chỉ
nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm
trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng, Chúa
Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Am của ông, khi viết điều gì có thể liên
quan đến mình thì thánh Gioan luôn dùng kiểu nói: “Người môn đệ được Chúa Giêsu
yêu dấu”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu đó thể hiện ra
bên ngoài, nhất là trong những giờ phút cuối cùng, thánh Gioan đã theo chân
Chúa Giêsu trên đường thập giá và cũng là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thập
giá. Cuối cùng, ngài chỉ về nhà cùng với Đức Mẹ sau khi chôn cất Chúa Giêsu
xong.
Kinh nghiệm cho thấy rằng khi yêu ai thì người ta thường hay
nghĩ đến người ấy, luôn cảm nghiệm cách hiện diện của người ấy trong cuộc đời
của mình, dù cho nhiều khi hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau hoặc từ biệt. Gioan
yêu mến Thày, vì thế Chúa Giêsu luôn hiện diện trong ông, vì vậy ông luôn nhớ
lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại. Vì Thầy đã
từng nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay quân dữ, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ
ba Ngài sẽ sống lại”. Với tâm tình đó, Gioan nhận ra dễ dàng việc Chúa Kitô
Phục sinh. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua việc phân tích tâm lý của ba nhân vật phần nào có thể giúp
cho chúng ta một bài học thật quí giá là: “Chỉ có tình yêu đích thực từ đáy tâm
hồn mới làm cho người ta dễ nhận ra Chúa Kitô Phục sinh”. Thật vậy, cuộc đời
của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng đi tìm Chúa,
chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa. Chúng ta có thể hiểu được ý
nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời của mình, nếu chúng ta biết yêu Chúa như
Gioan, nghĩa là làm cho tâm hồn mình luôn tiến bước trên con đường tình yêu của
Chúa.
Ước gì cuộc hành trình đức tin ấy luôn là ngọn đèn soi dẫn chúng
ta tiến bước trong cuộc sống trần gian này, để rồi giữa những thử thách của
cuộc đời, chúng ta biết nhận ra được sự hiện diện của Chúa luôn đồng hành với
chúng ta. Xin Ngài gìn giữ đức tin của chúng ta luôn vững mạnh, đức tin mà giờ
đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
37. Chú giải
của Noel Quesson (Mc 16,1-8).
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp
của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc
tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô" trong Đêm canh
thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông
Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các "người
nữ". Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết
của Người trên đồi Golgotha... còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc
14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin
Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những "phụ nữ tẩm xác", tay bê nặng
những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà
này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước
đường phiêu lưu của "Đức Giêsu Nagiaret"... thể hiện những bổn phận
yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an
táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không
có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc,
các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát,
không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với
biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua
các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia...
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo
thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa
mộ giùm ta đây:" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua
một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi
nhận. "Tảng đá đã được lăn ra". Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm,
tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu
cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày
nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn
cách con người với sự Phục sinh... được coi như một sự kiện không thể có
được... ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?". Chỉ mình Thiên Chúa mới
có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc
áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của
Matthêu, vì không nói đến "thiên thần", đến “đất rung chuyển"
đến tia chớp sáng"... nhưng chỉ đề cập đến một "người thanh
niên". Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối
thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu "tả
vẽ" về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta
biết rằng màu "trắng" luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch
với bóng tối... đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào
ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến "một thứ trắng tinh không có
một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy" (Mc 9,3). Trong sách Khải
Huyền của Gioan, màu "trắng" luôn tượng trưng cho thế giới trên trời
(Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng
hoảng sợ!".
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của
Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa
thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên,
sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông
(exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như
không người “Caphacnaum đã kinh ngạc" trước sự can thiệp đầu tiên của Đức
Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối
rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa
không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các
ngươi đừng sợ".
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng
nghĩa của Đức Giêsu... Nhưng chỉ ghi một "Lời" mạc khải, qua một
thiên sứ, nói lên “đức tin", một trong những điểm của "kinh Tín Kính"
ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người
đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày
thứ ba, Người đã sống lại"
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv
2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế
muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, "người
Nagiaret", kẻ "bị đóng đinh", Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và
ông Phêrô như thế này: "Người sẽ đến Galilê trước các ông".
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ"
nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến "mồ táng" đó. Cả
Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: "Sau khi
sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Chàng "thanh
niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu
mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu
tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp
của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn" cũng như
hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại
Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã
đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh
em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô,
Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc
đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã
đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên.
Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó.
Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc
mới chung quanh Phêrô, thời của những "dấu chỉ" mới, thời của Tin
Mừng: Giáo Hội khởi sự... và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không
còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng
Người". Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô.
Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các
tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong
một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu
chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn
sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là
vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân
vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải
đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời
gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì
sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy" (tromos) và “ngây
ngất xuất thần" (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất
ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin
Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến "bí mật" che giấu căn tính đích
thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là "Con
Thiên Chúa", Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ
trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ "im lặng" và
"chẳng nói gì với ai": Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã
vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi
nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một
sự "hiển nhiên tuyệt đối” một sự "ổn định hoàn toàn", thì sẽ gặp
thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ
tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.