GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ
Tình yêu nào cũng cần “chất” đau khổ, có
đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính.
Cũng
như tình yêu, có lẽ chẳng ai định nghĩa được “đau khổ là gì” một cách chính xác
và thỏa mãn nhất, vì đau khổ đa dạng lắm. Thiết tưởng có thể hiểu đơn giản theo
phương trình: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt
vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau
khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái
tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những
triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết
lý Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ.
Chẳng
ai thích đau khổ, nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố
gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa
quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.”
Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc
chắn cho thấy bạn đang sống.” Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, lạ thật!
Những con người đẹp nhất là những người
từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được
con đường ra khỏi vực sâu. Những con người này có
lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm
họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Như vậy,
“người đẹp” không thể tự nhiên mà có.
Triết
lý đau khổ thật kỳ diệu. Hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi
dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở
về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng
danh Đức Chúa!” (G 1:21). Dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến
Thiên Chúa” (G 1:22). Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản.
Người
đời có câu: “Thà một phút huy hoàng rồi
chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Đó là cách “tự an ủi” của người đời.
Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa-Giêsu-làm-người. Cuộc
đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng là
được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem.
Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay được Giáo hội sử dụng là bài ca thứ ba trong các “Bài Ca Của
Người Tôi Trung”, ngắn gọn mà ý nghĩa: “Đức
Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời
nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để
tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Thật là
không dễ mà vẫn giữ lòng trung tín ngay trong lúc đau khổ như vậy!
Đau
khổ không làm người ta yếu đuối mà lại như loại “nước tăng lực” làm tăng sức chịu
đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh
đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ
nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì
thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is
50:6-7). Thật là kỳ diệu, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn
không thể hiểu được, và sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên
khùng.
Tác
giả Thánh Vịnh than thở: “Thân sâu bọ chứ
người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu
bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải
gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9). Thách thứ quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, nỗi nhục
nhã ê chề!
Đúng
là “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.”
Không khác quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên
đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao
chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương
con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem
chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu
mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa (Tv 22:17-20). Không còn gì để mất nữa, khốn
khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng
nghe động tĩnh gì!
Dù
có thế nào thì vẫn một lòng tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục
đích sống: “Con nguyện sẽ loan truyền
danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng
tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi
toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ít-ra-en tất cả,
nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24).
Cầu
nguyện là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động
tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ
diệu. Muốn hiểu được triết lý này, đòi hỏi phải có niềm tin Kitô giáo. Với người
ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú”, ai tin như vậy đều
bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ.
Thánh
Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ
là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6-7). Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện
như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”
(Pl 2:8). Đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu thật. Nhưng chỉ là “khó hiểu” chứ
không phải là “không thể hiểu.”
Tình
yêu nào cũng cần “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại
văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu,
hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Lạ
thật, người đời mà còn nhận định được như vậy đấy!
Đau
khổ có giá trị nhất định và rất độc đáo. Gian nan là nhịp cầu dẫn tới thành
công, đau khổ là nhịp cầu dẫn tới vinh quang. Cũng vậy, sự chết là con đường dẫn
tới sự sống, là cửa ngõ bước vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe
danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái
quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức
Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11).
Chúa
Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem là đi vào cõi đau khổ, nhưng từ “biên giới”
đầy gian khổ là Vườn Dầu, từ đó lại tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là
Can-vê. Nhưng từ nơi Can-vê “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời.
Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có bao người khao
khát sử dụng loại bản đồ này, có nhiều người đã đạt được mục đích sống đó: Các
thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo.
Chuyện
gì đến sẽ đến, dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu. Đó là điều tất yếu của cuộc sống.
Bài thương khó hôm nay là một bộ phim buồn khiến lòng người trĩu nặng…
Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đành lòng bán Thầy mình để lấy một
số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền
bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để
phân biệt đâu là phải hay trái. Ma lực đó rất khó cưỡng lại!
Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài
muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.
Chiều
đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài
bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ tá hỏa tam tinh và rầu thúi ruột, họ hỏi
nhỏ nhau xem ai là thủ phạm. Chẳng ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con
Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người:
thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24). Giu-đa nhột gáy, nhưng vẫn giả
nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?”
Ngài xác nhận là đúng!
Cũng
trong bữa ăn đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao
cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn,
đây là mình Thầy” (Mt 26:26). Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao
cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống
chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”
(Mt 26:27-28). Đây là lúc thật linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn
khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống
thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới
trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29).
Sau
khi hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ô-liu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với
các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích
danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26:35). Tất
cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi… điều gì đến vẫn cứ đến!
Vào
vùng đất Ghết-sê-ma-ni, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người
con ông Dê-bê-đê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên
phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức
với Thầy” (Mt 26:38). Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi
phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt
26:39). Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến
cùng.
Ngài
trở lại chỗ ba đệ tử ruột, ôi thôi, họ lăn ra ngủ khò. Ngài nói với Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với
Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ.
Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:40-41). Phêrô
còn ngái ngủ, chỉ biết gãi đầu thôi. Ngại ghê đi!
Rồi
Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy
Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha”
(Mt 26:42). Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng
trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Ngài để mặc các
ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ
các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới!
Giu-đa
tỏ ra lịch sự đến chào và hôn Thầy, nhưng là để “chỉ điểm” cho những kẻ thủ ác
bắt Thầy. Phêrô nóng gáy lấy gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng
tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô cất gươm đi. Họ ập tới bắt
trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và bỏ của chạy lấy người, có kẻ mất dép,
có kẻ tuột cả áo xống mà chạy tồng ngồng đi trốn. Nói thì mạnh lắm, cuối cùng
cũng chỉ “lẻo mép.” Phàm nhân yếu đuối và nhát đảm quá!
Họ
bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh
thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Họ
chất vấn Đức Giêsu đủ điều, nhưng Ngài vẫn im lặng. Vì có nói với họ thì cũng
như nước đổ lá môn, nói với đầu gối còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho
ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa
không?” (Mt 26:63). Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà
tra xét. Lúc này Đức Giêsu mới lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói
cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng
và ngự giá mây trời mà đến” Mt 26:64). Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng
tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người
nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!.”
Sau
đó, kẻ thì khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ lại tát Ngài, rồi họ nguyền rủa
và lăng mạ Ngài đủ thứ.
Và
cũng vậy, chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng
không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên
không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề
quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực
nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp
gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Chắc hẳn
từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy sáng, nhưng ông cũng phải cảm ơn tiếng gà gáy
đó.
Vào
mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý
dân. Khi ấy có một người tù khét tiếng tên là Ba-ra-ba. Người ta đồng ý thả
Ba-ra-ba và cương quyết giết Đức Giêsu. Phi-la-tô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ
nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ với công lý, vợ ông bảo
đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, ông đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Nhưng
đó chỉ là giả hình, hèn nhát!
Thật
vậy, chính Phi-la-tô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh
Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng
gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy.
Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây
sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo
lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Trên
đường, chúng gặp một người Ky-rê-nê tên là Si-môn, chúng bắt ông vác thập giá của
Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ không đến nơi hành hình. Những người nói mạnh hứa
chắc đâu cả rồi? Những người tín cẩn của Đức Giêsu đâu cả rồi? Những người được
Đức Giêsu chữa lành đâu cả rồi? Những người được Đức Giêsu cho ăn no nê đâu cả
rồi? Sao chỉ có mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Đời là thế
ư?
Khi
đến Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng
Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong,
chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi đó mà canh giữ Ngài. Cùng
bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.
Kẻ
qua người lại đều nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục
cũng chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng và hả hê chiến thắng! Thậm
chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách
thức Ngài.
Bỗng
dưng bóng tối bao phủ cả mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới
3 giờ chiều). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn quá lớn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:
“Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni – lạy
Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Người
ta cứ tưởng Ngài gọi ông Ê-li-a, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt
biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức
Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn!
Ngay
lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung
đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Thấy động
đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức
Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả
thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54). Ít ra cũng là thế, muộn cũng
còn hơn không.
Sự
thật mãi là sự thật, dù người ta cố ý bóp méo thế nào thì cũng không thể. Thắng
và Thua đều cùng vần T. Sự đời lạ lắm, có những khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua,
nhưng có khi thấy Thua mà lại là Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến!
Ước
gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm nhường
đón Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, trong lúc vui đã đành, trong lúc buồn mới thực
sự có giá trị.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, xin ban Thánh Linh để chúng con có thể hiểu được giá trị
của đau khổ, hiểu được triết lý của Thập Giá, nhờ đó chúng con đủ sức bước theo
Ngài đi xuyên qua đau khổ. Xin giúp
chúng con can đảm cùng chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh vinh quang
với Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của
chúng con. Amen.
TRẦM
THIÊN THU